Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

Con ơi đừng có chống Tàu!


Bà nội tôi chỉ có hai người con trai là bác và ba tôi. Thấy hai người đang học chữ Nho tự dưng nghe theo phong trào Duy Tân, chuyển sang học chữ Quốc Ngữ, rồi hớt tóc ngắn, mặc đồ tây bà lo sợ lắm. Bà suốt ngày canh chừng và căn dặn: Hai con đừng có làm phản chống Tây mà triều đình bắt xử chém.
Đúng thế, thời đó triều đình Nhà Nguyễn được mẫu quốc Tây cho một ít đất miền Trung để ngồi làm vì cai quản cho oai nên rất cúc cung tận tụy với mẫu quốc, ai tỏ ý chống Tây là bắt tù và xử trảm ngay. Bao nhiêu người ở quê Quảng Nam tôi, thời đó bị tù đày hoặc bị xử trảm vì tội chống Tây. Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng...bị tù. Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Tiểu La Nguyễn Thành, Trần Cao Vân, Trần Quý Cáp, Thái Phiên...bị chém đứt đầu, chưa nói hàng chục người khác đứng lên biểu tình chống xâu thuế cũng bị xử trảm. Người dân quê tôi nhìn vào đó mà không khỏi không rùng mình sợ hãi.
Nội tôi sợ đến mức lúc nhắm mắt còn trăn trối lại với hai ông con trai: "Con ơi đừng có chống Tây!" đâu biết rằng cả hai ông con trai đều theo Việt Minh chống Tây từ đời nào.
Cả nước thời đó đều như vậy. Ai sợ thì sợ, ai chống Tây thì cứ chống Tây. Hết lớp nầy đến lớp khác, hết cách nầy đến cách khác, bao nhiêu thế hệ bị tù đày, hy sinh không thể nào kể ra hết...
Lịch sử dường như được lặp lại. Không biết thời nầy đất nước mình có độc lập tự do thật sự hay chưa, nhà cầm quyền của mình có bị thằng Tàu bảo hộ hay không mà ai tỏ ý chống Tàu xâm lược đều cũng bị truy bức và bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng.
- Cù Huy Hà Vũ bị tù vì đã đòi kiện Thủ Tướng về việc cho Tàu vào khai thác bô xít ở Tây Nguyên và nhiều chuyện khác.
- Điếu Cày Nguyễn Văn Hải bị tù vì biểu tình và viết bài chống Olympic Bắc Kinh để phản đối việc Tàu thành lập thành phố Tam Sa.
- Bùi Hằng bị đưa đi cải tạo vì liên tục tham gia biểu tình chống Tàu cộng xâm lược.
- Cô gái trẻ Phạm Thanh Nghiên bị tù vì treo biểu ngữ chống Tàu cộng xâm lược.
- Đảng viên trẻ Nguyễn Chí Đức bị bắt thô bạo và bị đạp vào mặt vì tham gia biểu tình chống Tàu cộng xâm lược.
- Các bạn sinh viên, các bạn trẻ yêu nước, các blogger trẻ như Nguyễn Hoàng Vi, Huỳnh Thục Vy, Huỳnh Trọng Hiếu, Trầm Tử, Paulo Thành Nguyễn, Gió Lang Thang, Hành Nhân, Người Yêu Nước, Thụy Nga, Uyên Vũ, Thi Đen, Tào Lao, Diên An Lê, Vy tong...bị công an bắt, bị hành hung, bị côn đồ luôn bám theo hành hung, bị gây khó dễ trong cuộc sống...cũng vì "tội" tham gia biểu tình chống Tàu xâm lược.
- Mới đây nhất, đang gây rúng động dư luận trong và ngoài nước là sự kiện em sinh viên Nguyễn Phương Uyên bị mất tích sau đó được thông báo là do an ninh bắt vì tội làm thơ chống Tàu và chụp hình truyền đơn chống Tàu.
- Cũng đang gây ra sự căm phẫn trong dư luận là vụ xử hai nhạc sĩ yêu nước Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình. Hai nhạc sĩ ấy đã bị tuyên tổng cộng 10 năm tù vì "tội" sáng tác ra các bài ca yêu nước và chống Tàu.
Nếu bà nội tôi còn sống lại ở thời nay chắc cũng sợ hãi mà la to: Các con ơi đừng có chống Tàu mà triều đình bắt nhốt tù.
Nhưng cũng như thời còn Tây bảo hộ, dân ta có sợ chi ai. Có thằng trời nào bảo hộ, dân ta cũng lớp lớp đứng lên chống đến cùng và chống luôn cả những thằng chấp nhận sự bảo hộ ô nhục đó.

Huỳnh Ngọc Chênh

Những đồ chơi ”biểu tình” gây trở ngại cho cảnh sát Nga


Miriam Elder, từ Moscow
Nguyễn Công Huân chuyển ngữ
Dân Luận: Đây là một tin cũ, từ tháng giêng năm 2012, nhưng hy vọng nó sẽ truyền cảm hứng cho những nhà hoạt động xã hội ở Việt Nam, để họ tìm ra những phương thức phản đối đầy sáng tạo, thu hút được đông đảo giới trẻ quan tâm.
Cảnh sát ở một thành phố ở vùng Siberi yêu cầu bên công tố nghiên cứu tính hợp pháp của cuộc biểu tình của những búp bê bé nhỏ cầm các biểu ngữ phản đối chính phủ.
barnaul-russia-protest-to-006.jpg

Hình người Lego, trứng Kinder và các đồ chơi nhỏ khác đang đóng vai ”người biểu tình” ở Nga (Hình chụp bởi Sergey Tephlyakov).
Cảnh sát ở thành phố Barnaul thuộc Siberi đã yêu cầu phía công tố nghiên cứu tính hợp pháp của một cuộc biểu tình gần đây, trong đó những đồ chơi bé nhỏ: gấu bông, hình người của Lego, các nhân vật trong South Park v.v…, đã tập hợp ngoài trời với những tấm biển có dòng chữ ”Chúng tôi ủng hộ bầu cử trong sạch” và ”Chỗ dành cho một tên trộm là trong tù, chứ không phải ở điện Kremlin”.
”Các lực lượng chính trị đối lập đã sử dụng các phương thức mới để tổ chức các sự kiện công chúng – dùng đồ chơi với biểu ngữ nhỏ xíu để biểu tình”, Andrei Mulintsev, Phó phòng cảnh sát thành phố, đã nói trong một buổi họp báo vào tuần qua, báo chí địa phương cho biết. ”Theo quan điểm của chúng tôi, đây vẫn là một sự kiện không hợp pháp”.
Các nhà hoạt động xã hội đã dàn dựng cuộc biểu tình bằng đồ chơi này sau khi nhà chức trách liên tiếp từ chối yêu cầu của họ là được tổ chức một cuộc biểu tình hợp pháp - tương tự như những cuộc biểu tình đã diễn ra ở Moscow để phản đối cuộc bầu cử quốc hội đầy tranh cãi và việc quay trở lại ghế Tổng thống của Vladimir Putin sau cuộc bầu cử Tháng Ba.
Những người đi qua đã chiêm ngưỡng cuộc biểu tình bằng đồ chơi với sự thú vị, nhưng cảnh sát thì coi đây là sự việc nghiêm trọng, và họ đã nghiên cứu mọi chi tiết, thậm chí ghi chép lại cả những gì viết trên biểu ngữ.
”Nỗ lực hạn chế quyền công dân của nhà cầm quyền, không cho họ bày tỏ chính kiến đã trở thành lố bịch,” Lyudmila Alexandrova, một sinh viên cao học 26 tuổi và là người tổ chức cuộc biểu tình, đã nói. ”Chúng tôi muốn phóng đại sự lố bịch và tức cười này và cho người dân thấy nhà cầm quyền đã nỗ lực như thế nào trong việc hạn chế quyền tự do của họ”.
Họ không phải là nhóm đầu tiên làm việc này. Nhóm Blue Buckets của Nga, đã tập hợp lại để phản đối quan chức chính phủ Nga lạm dụng quyền ưu tiên giao thông, đã chạy qua đầu xe của chính phủ với một cái xô trên đầu, đã khiến chính quyền hết sức giận dữ.
Voina, một hội nghệ thuật mang tính ”nổi loạn”, đã nhận được sự chú ý trên toàn thế giới sau khi vẽ một cái dương vật dài 65m trên một chiếc cầu cất ở thành phố Saint Petersburg, mà khi cầu được kéo lên, sẽ đối mặt với trụ sở chính của Cơ Quan An Ninh Liên Bang Nga (FSB). Các thành viên của hội đã liên tục bị bắt giữ.
Các nhà hoạt động tại Barnaul nói họ không có giải pháp nào khác ngoài việc phải sử dụng tới những biện pháp sáng tạo. Nhà cầm quyền địa phương đã từ chối cấp giấy phép cho các cuộc biểu tình phản đối kể từ 10/12/2011, ngày đầu tiên của cuộc phản đối trên toàn quốc ở Nga. Khoảng 2000 người đã xuống đường ở Barnaul vào hôm đó, một con số chưa từng có cho thành phố nhỏ này.
Cảnh sát đã tìm cách gây sức ép để buộc họ chấm dứt cuộc biểu tình bằng đồ chơi, những người tổ chức cho biết. ”Họ cố thuyết phục chúng tôi rằng việc chúng tôi làm là bất hợp pháp – họ thậm chí nói rằng việc để đồ chơi trên mặt tuyết phải có sự đồng ý và phải trả tiền thuê mặt bằng cho chính quyền thành phố”, Alexandrova nói.
Tất cả các cơ quan chính quyền đang được đặt ở mức cảnh báo cao, khi mà Nga đang chuẩn bị bước vào ngày phản đối toàn quốc kế tiếp vào 4/2/2012, một tháng trước cuộc bầu cử Tổng thống mà Putin hy vọng sẽ quay trở lại điện Kremlin. Vào thứ Năm, văn phòng thị trưởng Moscow đã chấp thuận yêu cầu của phía đối lập cho phép 50 ngàn người tập trung và tuần hành qua trung tâm thành phố.
Đám cảnh sát dễ giật mình nhất là ở Kaliningrad, một bộ phận tách rời của nước Nga ở vùng Baltic. Khoảng hai tá thanh niên theo chủ nghĩa dân tộc đổ ra đường đi bộ để khuyến khích một lối sống lành mạnh, mang theo cờ truyền thống có màu đen, vàng và trắng của mình – cảnh sát đã nhảy vào đoàn diễu hành, vì nhầm đây là một cuộc tuần hành của người đồng tính. Quyền đồng tính luyến ái vẫn chưa được thừa nhận rộng rãi ở Nga, và các cuộc tuần hành của người đồng tính thường là bị cấm. Cảnh sát đã chất vấn các nhà hoạt động xã hội này trước khi trả tự do cho họ, báo chí địa phương cho biết.

Ba bước đoạt vàng



Vai trò của vàng 

Từ ngàn xưa, từ thời nguyên thủy của nền kinh tế, người ta trao đổi giá trị sức lao động cho nhau một cách “thô thiển” theo phương thức hàng đổi hàng. Đại loại như tôi có 1 quả trứng, tôi đổi được 2 mớ rau, hay 50 kg thóc đổi một mét vải. Cách thức này gặp nhiều bất tiện và phần nhiều là không công bằng về giá trị sức lao động. Ví dụ như tôi chỉ có 1 mớ rau, không ai chịu đổi nửa quả trứng cho tôi, hay năm nay được mùa bông, đáng ra năm nay vải phải rẻ hơn, nhưng người thợ dệt vẫn khăng khăng đòi đổi 50 kg thóc như năm ngoái... Dần dần người ta nhận thấy phải có một vật làm trung gian trong quá trình trao đổi hàng hóa nhằm đảm bảo khách quan, công bằng hơn. 

Lâu dần, qua nhiều lần thử nghiệm người ta nhận thấy Vàng là một kim loại có độ bền khá ổn định trong môi trường tự nhiên, không phải là quá hiếm. Giá trị sức lao động của việc khai thác chế tác vàng không phải là quá công phu. Đồng thời đây là kim loại dễ phân chia nhỏ, dễ giát mỏng, kéo sợi, dễ đúc khuôn theo trọng lượng như ý muốn. Dần dần theo chiều hướng giao thương kinh tế trên diện rộng giữa các khu vực vùng miền khác nhau, vàng khẳng định được vai trò làm vật trung gian để trao đổi rất hữu hiệu. Ngay cả khi sau này, mỗi quốc gia có phát hành đồng tiền riêng của mình, thì Vàng vẫn được coi là vật làm trung gian trao đổi hàng hóa trên bình diện quốc tế, đơn giản vì tiền mặt nước nào chỉ có giá trị trao đổi tại nước ấy. 

Đến đây chúng ta nhận thấy một quy luật - gọi là quy luật bảo toàn giá trị hàng hóa - tự nhiên được hình thành và không chịu sự chi phối của bất kỳ chính sách nào của nhà nước, hay ý muốn của bất kỳ cá nhân nào là: Tổng giá trị hàng hóa, hay còn gọi là giá trị sức lao động, (không tính giá trị sức lao động khai thác chế biến Vàng) được trao đổi trong xã hội ở vào một thời điểm, được đánh giá ngang bằng Tổng giá trị sức lao động khai thác chế tác vàng cùng thời điểm đó. Hay nói đơn giản hơn: Tổng giá trị vàng tồn tại trong xã hội bằng tổng giá trị hàng hóa (khác vàng) trong xã hội, xét cùng thời điểm. 

Có bảo toàn quy luật này thì vàng mới thể hiện chức năng chính của mình làm vật trung gian trao đổi hàng hóa. 

Sau này, tiền kim loại khác, tiền giấy, với nhiều mệnh giá khác nhau được nhà nước phát hành (hành động phát hành tiền giấy này đã thể hiện ý muốn chủ quan của quan chức nhà nước), thay thế Vàng làm vật trung gian trao đổi hàng hóa. 

Tuy vậy quy luật bảo toàn giá trị hàng hóa trên phải được tôn trọng, để việc trao đổi hàng hóa bình thường theo đúng giá trị của nó. Nghĩa là tổng giá trị tiền giấy do nhà nước phát hành có giá trị bằng tổng giá trị Vàng trong ngân khố quốc gia. Lượng vàng tồn tại trong dân cư được trao đổi điều tiết với nhau theo quy luật tự nhiên. Không một nhà nước nào nắm chắc được chính xác lượng vàng này vì đây là con số luôn biến động, Do vậy nhà nước không được phép phát hành một lượng tiền mặt cao hơn giá trị vàng mình đang nắm giữ. Cao hơn là lạm phát. Nói ngược lại: Lạm phát là là lượng tiền mặt nhà nước đưa vào lưu thông có giá trị cao hơn lượng vàng nhà nước đang nắm giữ. 

Đến đây, tuy vàng rút khỏi vai trò trao đổi, lưu thông hàng hóa. Nhưng vai trò làm thước đo giá trị tiền mặt của nó vẫn phải tồn tại. Phải giữ vai trò này thì mới đảm bảo quy luật bảo toàn giá trị hàng hóa. 

Ví dụ như giá Vàng trong dân cư trao đổi với nhau bị đẩy lên cao (so với giá trị tiền giấy) là do nhà nước lạm phát tiền giấy. Giá vàng trong dân cư cao lên, mặc nhiên các loại hàng hóa khác cũng được đẩy cao lên, đó là quy luật. Những kẻ bị chịu thiệt thòi trong việc lạm phát này là bộ phận phi sản xuất (hành chính công, văn hóa, giáo dục, y tế, bộ đội, công an...) 

Sẽ là ra sao trong nền kinh tế thị trường, khi không còn một gram vàng được trao đổi mua bán trong dân cư, chỉ còn toàn tiền giấy? Thước đo giá trị của tiền giấy mất đi. Một mớ giấy lộn không hơn không kém. Do lúc này không thể xác định được một quả trứng bằng bằng bao nhiêu tờ polymer có viết số 500.000 Đ. 

Chính vì vai trò làm thước đo giá trị hàng hóa này, vàng còn được làm phương tiện cất giữ vốn. Với một quốc gia được điều hành bởi những chính trị gia ngu xuẩn, kém cỏi, bộ máy phi sản xuất quá lớn, thì mặc nhiên, theo một quy luật vốn có, người sản xuất không thể chọn một cái gì bảo toàn giá trị vốn tốt hơn là vàng. 

Ngân khố lụn bại

Không phải những chính trị gia cộng sản không biết quy luật này. Do vậy họ càng muốn thâu tóm lượng vàng trong dân cư vào ngân khố quốc gia càng nhiều càng tốt. Càng nhiều vàng, lượng tiền mặt phát hành ra càng lớn mà không sợ bị giảm giá trị. Có tiền mặt họ mới có đủ tiền phát lương, tăng lương cho bộ máy ăn bám cồng kềnh hiện tại. Trong khi nguồn thu thuế hạn chế, tài nguyên đất nước dần dần cạn kiệt. nợ nước ngoài đến ký phải trả. Nạn tham nhũng đẩy đến cùng cực. Nhưng liệu họ có thể làm một việc đơn giản là phát hành tiền mặt mua lại vàng trong dân chúng với giá cao hay không? Không thể, vì đơn giản, như trên đã trình bày, càng phát hành nhiều tiền giấy, giá vàng trong dân cư càng bị đẩy cao lên, giá cả hàng hóa cũng bị đẩy lên theo, đời sống dân chúng, nhất là bộ phận phi sản xuất càng lao đao khốn khổ. 

Một kế hoạch cướp vàng ra đời

Ba bước đoạt vàng

Những chính sách kê khai vàng, khám nhà tịch thu vàng như trước đây, chính quyền cộng sản chưa vội thực thi ngay do lo sợ phản ứng co cụm, cất giấu của dân chúng, khó đảm bảo thành công. Nên lần này chính quyền đưa ra một kịch bản cướp vàng ba bước khá tinh vi.

- Bước 1: Độc quyền vàng miếng hiệu SJC

Nếu như nghị định xyz nào đó chỉ là đơn thuần là con chữ trên tờ giấy lộn nhằm quản lý vàng, không thể có tác dụng với quy luật tự nhiên đối với vai trò giá trị của vàng, thì chính quyền làm một động thái đánh vào lòng tham của dân chúng bằng cách nâng giá trị của cái thứ vàng có nhãn hiệu SJC. 

Ai cũng biết SJC là công ty kinh doanh vàng bạc của nhà nước nên việc đặt tên cho thương hiệu vàng của mình là một việc làm bình thường. Điều này cũng như Bảo Tín Rồng vàng, đặt tên cho thương hiệu của mình. Các cửa hàng kinh doanh nhỏ lẻ khác tuy không lấy thương hiệu nhưng cũng có đánh dấu riêng của mình để thuận tiện việc mua bán, cũng như giữ uy tín cho cửa hiệu của mình. Nếu nhà nước không lạm phát, giá cả mua bán của vàng chỉ khác nhau độ tinh khiết (độ tuổi), không phụ thuộc vào thương hiệu. Dù vàng SJC có là 4 số 9 cũng không thể lý do nào cao hơn vàng 4 số 9 của các thương hiệu khác được. Nhưng như hiện tại chúng ta thấy nghịch lý này đang tồn tại. Chênh lệch này là khoảng 3 triệu đồng / 1 lượng. Đồng thời chính quyền còn cho phép dân chúng mang vàng phi SJC dập lại thương hiệu SJC với giá chỉ 50.000đ/ lượng. Mất 50.000đ tiền công, lại được 3 triệu tiền chênh lệch. Nhiều người đã làm một việc thiếu chín chắn như vậy. Hãy hiểu rằng 3 triệu chênh lệch này là giá trị ảo, Nó sẽ không tồn tại lâu. 

- Bước 2; Dùng biện pháp hạn chế mua bán vàng

Khi đã dập được một lượng kha khá vàng SJC (vẫn đang tồn tại lưu hành trong dân cư) thì thì chính quyền hạn chế việc trao đổi mua bán này bằng một loạt những biện pháp hành chính như điều kiện kinh doanh vàng quái đản, đến độ không một tư nhân nào đủ điều kiện. Chỉ còn tồn tại 1 hoặc cùng lắm là 2 công ty vàng được phép hoạt động. Hoặc một số biện pháp khác nữa. 

- Bước 3: Độc quyền cướp vàng 

Vào một ngày đẹp trời nào đó, chính quyền ra thông báo nghiêm cấm việc tích trữ vàng SJC vì đây là thương hiệu độc quyền quốc gia, việc này đã được thông báo từ lâu. Ai có phải kê khai và bán lại cho nhà nước với giá quy định. Lúc này, mặc dù giá thịt lợn ngoài chợ vẫn giữ giá 100.000đ/kg. Nhưng các cửa hàng vàng bạc nhà nước được mở trên 64 tỉnh thành chỉ mua vào 10.000 đ/lượng, với thương hiệu SJC, vì lấy cớ đây là thương hiệu độc quyền của nhà nước, nghiêm cấm việc mua bán trên thị trường chợ đen. Ai vi phạm bị tịch thu. Đừng bao giờ quên, với chính quyền cộng sản, không cái gì họ không dám làm. Khi đó hoặc bạn phải bán với giá rẻ mạt, hoặc bạn bị tịch thu. 

Bạn phải làm gì 

Rất đơn giản: Khẩn trương quên ngay cái gì có tên gọi SJC. Vàng của bạn thì bạn giữ. Cần thiết vẫn mua bán ở các cửa hàng vàng vẫn đang hoạt động. Tuyệt đối không dập thương hiệu SJC. 

Khi chính quyền ra lệnh cấm các của hàng vàng tư nhân hoạt động thì bạn hoàn toàn yên tâm, sẽ có ngay một bộ phận không nhỏ len đến tận hang cùng ngõ hẻm sẵn sàng mua bán vàng cho bạn khi bạn có nhu cầu theo đúng giá thị trường hàng hóa. 

Bạn hãy tin rằng, cái gì phù hợp với quy luật thì tồn tại mãi mãi. Trái quy luật ắt không sớm thì muộn vẫn bị đào thải - chính trị, kinh tế đều luôn đúng. 


Ông Cao Xuân Vỹ kể chuyện Cộng sản và Đệ nhất Cộng Hòa ở VN


VRNs (01.11.2012) – Sài Gòn – Ngày mai, 02.11.2012, tròn 49 năm, ngày Tổng thống Gioan Baotixita Ngô Đình Diệm và cố vấn Giacôbê Ngô Đình Nhu bị giết tại Chợ Lớn, Sài Gòn. Thời đệ nhất Cộng hòa đã qua 49 năm, nhưng rất ít người Việt Nam trong nước nói về giai đoạn này, làm cho giới trẻ VN, nhất là giới trẻ ở Miền Nam không biết chính xác và đầy đủ về giai đoạn này. Đây là trách nhiệm của những người nhận mình là sử gia, là người làm lịch sử.
Nhân dịp kỷ niệm này, VRNs xin đăng lại cuộc phỏng vấn giữa ký giả Minh Võ và ông Cao Xuân Vỹ đã được công bố trên trang Việt Thức, ngày 14.06.2012, để giúp giới trẻ trong nước có thêm cơ hội tìm hiểu lịch sử nước mình.
———–
Như đã hứa, ông Cao Xuân Vỹ, sau ba lần vào cấp cứu và điều trị tại bệnh viện, đã vui lòng dành cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn để cống hiến bạn đọc một số hồi ức và kỷ niệm của ông trong thời gian đi theo Việt Minh kháng chiến rồi về hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm với tư cách là người phụ tá thân cận của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

1. Hỏi: Thưa ông, nghe nói ông cùng quê Nghệ An với ông Hồ Chí Minh?
Đáp: Phải. Tôi người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu ở về phía biển, còn ông Hồ ở xã Kim Liên huyện Nam Đàn về phía núi.

2. Hỏi: Ông có thể cho biết gia đình ông có liên hệ gì với gia đình ông Hồ không?
Đáp: Tôi được biết ông cố tôi là cụ Cao Xuân Dục, thượng thư bộ học thuộc triều đình Huế có giúp đỡ thân phụ ông Hồ là Nguyễn Sinh Sắc về tài chính và khuyến khích, giúp đỡ ông ấy nhiều trong việc học hành để có thể đi thi và đậu phó bảng. Một phần vì ông Nguyễn Sinh Sắc là bạn học với ông nội tôi là Cao Xuân Tiếu. Đây là hình căn nhà ông nội tôi cho ông cử Sắc. (Ông Vỹ đưa xem hình căn nhà.)

3. Hỏi: Có tài liệu của phía Cộng Sản, như của Sơn Tùng và Nguyễn Đắc Xuân nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi hỏng khoa Ất Mùi, (năm 1895), ông Cao Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn Sinh Sắc được vào Huế, để có phương tiện và đủ sách vở hầu tiếp tục việc học và có thể thành đạt. Điều này có đúng không?
Đáp: Đúng. Ông cố tôi còn can thiệp để cho ông Nguyễn Sinh Sắc, dù không phải là con quan cũng được vào học ở Quốc Tử Giám. Đến khoa thi năm Tân Sửu (1901) chánh chủ khảo Cao Xuân Dục thấy khóa sinh Sắc không trúng tuyển đã cho lệnh xét lại bài thi của 4 thí sinh để rồi xin vua Thành Thái cho ông ta đậu phó bảng. Khóa ấy có 9 tiến sĩ, 13 phó bảng. Ông Sắc đậu phó bảng thứ 11.

4. Hỏi: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt động của Cộng sản ở quê nhà và có chứng kiến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản thường được gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không?
Đáp: Có. Phong trào này mạnh nhất ở hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương. Nhiều người bị chết oan. Cộng Sản đã giết hai tri phủ. Vì thế phản ứng của chính quyền bảo hộ cũng rất quyết liệt. Pháp đem bom thả cũng giết nhiều người, trong số ấy có cả Cộng Sản lẫn thường dân. Cha tôi có kể lại rằng để đối phó với phong trào này, ông Nguyễn Hữu Bài, thượng thư bộ Lại của Triều Đình Huế, (tương đương với chức thủ tướng thời nay), đã cho áp dụng một kế hoạch chiêu dụ Cộng Sản khá thành công. Lúc ấy ông cố tôi cùng ở trong nội các Nguyễn Hữu Bài.

5. Hỏi: Khi Việt Minh cướp chính quyền ông ở đâu? và có ủng hộ họ không?
Đáp: Lúc ấy tôi đang học ở Hà Nội. Tôi nhớ là mấy tháng trước khi Việt Minh cướp chính quyền, thanh niên sinh viên Hà Nội chúng tôi rất hăng hái ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, vì là chính phủ của Việt Nam độc lập đầu tiên, dù phải nhờ có người Nhật lật đổ người Pháp. Nhưng chúng tôi rất phấn khởi và đã ủng hộ hết mình. Tiếc rằng bỗng nhiên chính phủ này từ chức ngày 7 tháng 8 (1945). Thật khó hiểu. Tuy từ chức nhưng chính phủ Trần Trọng Kim vẫn xử lý theo lệnh nhà vua. Khi mà Việt Minh tới trám vào chỗ trống chính trị này thì chúng tôi đã đi theo Việt Minh. Chúng tôi không biết Việt Minh là Cộng Sản. Thực ra lúc ấy chả mấy người biết Việt Minh là Cộng Sản.

6. Hỏi: Ông có gặp ông Hồ bao giờ không?
Đáp: Có. Hồi ấy tôi ở trong phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu. Chúng tôi được hai ông Hoàng Minh Giám và Phan Mỹ giới thiệu để gặp ông Hồ ở Bắc Bộ Phủ. Lúc ấy ông ấy có cái vẻ bề ngoài rất ân cần và dễ mến. Về sau tôi mới hiểu tại sao ông ấy đã chiêu dụ được nhiều người đi theo ủng hộ Việt Minh. Cho đến giờ này tôi vẫn nghĩ ông ta thật là thông minh và xảo quyệt. Lại được tay Võ Nguyên Giáp cũng rất thông minh trợ tá đắc lực. Tôi học với Võ Nguyễn Giáp 4 năm, Tôi biết ông ta rất rõ. Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã tỏ ra sắc sảo và quả đoán… Rất “độc tài”. Nhưng dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu.

7. Hỏi: Rồi tại sao ông lại bỏ Việt Minh?
Đáp: Vì chúng tôi kết án ông Hồ đã ký thỏa ước mồng 6 tháng 3, nhượng bộ Pháp quá nhiều. Hơn nữa họ đã hãm hại nhiều người yêu nước bất đồng chính kiến. Chúng tôi chạy sang phía Việt Cách của các ông Nguyễn Hải Thần và Nghiêm Kế Tổ…

8. Hỏi: Khi nào thì các ông rời Hà Nội?
Đáp: Liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19-12-46. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến. Thì chúng tôi gồm 36 nhà trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, gồm Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi Cộng Sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị.

9. Hỏi: Ông có thể cho biết tên một số trong 36 nhà trí thức mà ông bảo đã rời Hà Nội vào Liên Khu Tư sau kháng chiến bùng nổ không?
Đáp: Tôi còn nhớ chẳng hạn có Luật Sư Trần Chánh Thành, các ông Trần Hữu Dương, Hồ Đắc Điềm, Phạm Thành Vinh, sau này trở thành rể của ông Hồ Đắc Điềm, ông Nguyễn Duy Quang, người của ông Bảo Đại, ông Phan Huy Xương, anh của bác sĩ Phan Huy Đán tức Phan Quang Đán, ông Tôn Thất Trạch v.v… Các ông này về sau đã hợp tác với thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ông Trần Chánh Thành từng là bộ trưởng phủ thủ tướng, với ông Tôn Thất Trạch là đổng lý văn phòng. Ngoài ra, về phía thường dân tôi nhớ còn có bà Hòa Tường là một thương gia giầu có ở phố Hàng Đào cũng đi theo. Tôi xin nói thêm ông biết điều này, là những vị này và tôi hồi đầu theo Việt Minh. Nhưng tất cả đều không phải Cộng Sản. Và ngay từ 1930 thì đã có hai phe cùng chống Pháp một bên là Đảng Cộng Sản, lúc ấy chưa có Việt Minh. Một bên là các nhân vật và tổ chức quốc gia phi Cộng Sản trong đó ngoài những người như ông Ngô Đình Diệm đã bắt đầu hoạt động từ đó, còn có các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, mà đảng trưởng là Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí đã bị Pháp xử bắn.

10. Hỏi: Khi nào ông rời Liên Khu Tư vào Sài Gòn và gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Chúng tôi rời Liên Khu Tư ra Hà Nội. Chứ chưa vào Sài Gòn. Lúc ấy là vào khoảng đầu năm 1953. Ông Hồ Chí Minh theo lệnh Stalin và Mao Trạch Đông khởi sự chuẩn bị mở chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất. Có người thân trong Việt Minh cho chúng tôi biết. Nên tìm đường chạy trước. Về sau trong họ tôi có nhiều người có chút tư điền bị đem ra đấu tố. Chị ruột tôi cũng bị giết. Tôi “dinh Tề” qua ngả Phúc Nhạc, Phát Diệm là khu an toàn tự trị dưới quyền trông coi của Đức giám mục Lê Hữu Từ. Khó khăn lắm mới tới được Hà Nội. Hà Nội lúc ấy đang sống an bình dưới chính quyền Bảo Đại. Tôi đi thoát được là nhờ có người chú họ ở trong tổ chức Việt Minh cấp cho một giấy thông hành. Ở Hà Nội tôi gặp lại các ông Đặng Văn Sung, Phan Huy Quát từng hoạt động chung với chúng tôi thời 1945.
Trong thời gian còn ở Liên Khu Tư chúng tôi nghe biết cán bộ Cộng Sản trong tổ chức Việt Minh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cán bộ Trung Cộng. Sau khi Mao Trạch Đông chiếm trọn lục địa vào cuối năm 1949, ông ta đã bắt Hồ Chí Minh gửi một số lớn cán bộ Việt Cộng sang Tầu để tẩy não, cải tạo tư tưởng, bắt học tập chủ nghĩa Mao-ít. Vì cái chủ nghĩa này mà các chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất đã đẫm máu với những vụ con tố cha, vợ tố chồng và nông dân tàn sát lẫn nhau thật rùng rợn. Làng tôi có ông hàn Lương biết mình sắp bị đưa ra đấu tố đã nhảy xuống giếng tự tử, vậy mà đội cải cách đã lôi xác ông lên để đấu cái thây ma. Chúng đánh nát bấy cái thây ấy. Tôi mong có người thâu thập những tin tức khắp nước về cuộc Cải Cách Ruộng Đất thời gian đó để cho mọi người biết Cộng Sản dã man chừng nào.

11. Hỏi: Khi nào thì ông gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Cuối năm 1953. Tôi vào Sài Gòn thì gặp lại ông Trần Chánh Thành. Ông Thành giới thiệu tôi với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn trong số 36 nhà trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại tôi thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du…

12. Hỏi: Theo chỗ chúng tôi biết thì ông Ngô Đình Nhu từng có 5 nhiệm vụ quan trọng: một là dân biểu Quốc Hội, hai là Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống, ba là thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, bốn là Tổng Bí Thư đảng Cần Lao Nhân Vị, và sau hết vào năm cuối cùng ông còn là chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược. Vậy ông ấy có một lực lượng nhân sự nào đáng kể để giúp thi hành chừng ấy nhiệm vụ không? Ví dụ ông ấy có mấy văn phòng? Có bao nhiêu nhân viên được ăn lương?
Đáp: Ông ấy chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khoản nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức.
Còn về thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông chỉ thị cho chúng tôi, phải tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì.
Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đề “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v.. thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Tôi thật phục sức làm việc của ông Nhu.

13. Hỏi: Thế còn chức chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược thì sao? Có văn thư nào quy định không?
Đáp: Chức này thì có. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ tọa các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận. Ông Nhu quan niệm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược để đối phó với sự xâm nhập và khủng bố của Cộng Sản mà thôi. Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang.
Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thành những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu Cộng Sản. Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lược được an toàn trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì Cộng Sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất.

14. Hỏi: Về đảng Cần Lao Nhân Vị, nó thành hình ra sao, và ai là những đồng chí cốt cán nhất của ông Nhu?
Đáp: Hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Nhưng ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông. Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của Cộng Sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale. Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ uy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất quý trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký.
Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm.

15. Hỏi: Ông Ngô Đình Diệm có giữ vai trò gì trong đảng Cần Lao không?
Đáp: Không. Ông ấy hoàn toàn ở ngoài và trên đảng Cần Lao. Với ông Diệm chỉ có Tổ Quốc và Quốc Dân. Tôi còn nhớ khoảng năm 1956, Tổng Thống gọi tôi vào bảo tôi lên cao nguyên đèo heo hút gió để quan sát nghiên cứu tìm ra những địa điểm thích hợp để lập các khu dinh điền, hòng đưa người kinh lên trấn giữ địa điểm mà ông bảo là vô cùng quan trọng về mặt chiến lược. Tôi thấy mình đi thì ông Nhu thiếu một trợ lý. Lại cũng hơi ngán cảnh cô đơn ở nơi xa lạ. Tôi bèn thưa với Tổng Thống: Công tác đoàn thể của ông Cố Vấn đang thiếu người. Tổng Thống nói: Đoàn thể gì. Dẹp. Tuy nhiên rồi ông cũng đấu dịu. Cứ đi đi. Thỉnh thoảng tôi sẽ lên với anh… Cũng cần thêm rằng ông Diệm rất quan tâm đến vùng cao nguyên. Ông thường nói: giữ được cao nguyên thì giữ được miền Nam. Và ông tìm cách đưa nhiều cán bộ và những người dân có kinh nghiệm với Cộng Sản lên đó lập nghiệp.

16. Hỏi: Ông nghĩ gì về việc chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý truất phế ông Bảo Đại?
Đáp: Nhiều người chê ông Diệm, là nhà Nho mà bất trung, không giữ lời thề trung thành với cựu hoàng. Nhưng tôi thấy không đúng. Trước hết chính cựu hoàng bảo ông Diệm chỉ thề trước Thánh Giá trung thành với Tổ Quốc. Thứ nữa, khi cựu hoàng triệu ông sang Pháp, ông Diệm đã sẵn sàng lên đường, dù biết sang đó sẽ mất chức thủ tướng.
Nhưng chính nhóm liên khu Tư chúng tôi đã thuyết phục ông, gần như làm áp lực với ông, để ông bỏ ý định sang Cannes . Chúng tôi xúm vào yêu cầu ông ở lại lấy cớ tình hình không cho phép vắng mặt. Chúng tôi phải nói với thủ tướng rằng nếu Cụ bỏ chúng tôi lại mà đi một mình thì sinh mệnh chúng tôi ai sẽ lo? Chúng tôi đã bỏ tất cả vào đây là vì cụ, vì tin cụ sẽ bảo vệ phần đất tự do còn lại này, bảo vệ chúng tôi. Nay cụ nỡ lòng nào bỏ chúng tôi, bỏ đất nước này cho Thực dân, Cộng Sản? Rồi nhiều đoàn thể họp nhau lại đặt ông Diệm trước sự việc đã rồi là tự ý hạ bệ ông Bảo Đại. Cuộc trưng cầu dân ý của chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức sau đó chỉ là để hợp pháp hóa hành động của chúng tôi.

17. Hỏi: Có sử gia Mỹ bảo ngày 22 tháng 8 năm 1963, Thanh Niên Cộng Hòa đã tấn công chùa Xá Lợi cùng với Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc Biệt. Điều này có đúng không?
Đáp: Hoàn toàn bịa đặt. Tổ chức này không phải để dùng vào những việc như vậy. Nó là tổ chức phi vũ trang mà.

18. Hỏi: Sử gia Mark Mayor viết trong tác phẩm Triumph Forsaken rằng gần ngày đảo chính, tỉnh trưởng Định Tường báo cáo với ông Nhu rằng đại tá Có là phụ tá của tướng Đính rủ ông ta làm đảo chính. Ông Nhu hỏi lại tướng Đính, thì tướng Đính xin đi chém đầu Có. Ông có biết vụ này không?
Đáp: Không cần tỉnh trưởng Định Tường báo cáo thì ông Nhu đã biết rồi. Nhưng ông muốn cứ để vậy để theo dõi.

19. Hỏi: Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không?
Đáp: Lúc ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một vùng do Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là một chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp…
Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn:
- Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.
- Rồi cho dân qua lại tự do
- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư sang bên kia nếu muốn
- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
- Và sau cùng là tổng tuyển cử.
Có lần ông Nhu tính với chúng tôi: Ông dự đoán rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người dân sẽ dần dần vào định cư ở miền Nam. Vì vậy “mình” phải chuẩn bị đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự do, với sự giám sát của Quốc Tế thì chắc mình sẽ thắng.

20. Hỏi: Lần ông tháp tùng ông Nhu đi dự lễ đăng quang của quốc vương Ma-rốc năm 1962, ông có cho biết là sau đó các ông đến Paris gặp ông Pinay, đại diện Tổng Thống Charles De Gaulle, bàn chuyện hiệp thương với ông Hồ. Lúc ấy có mặt giáo sư Bửu Hội không?
Đáp: Dĩ nhiên là có. Vì Giáo sư Bửu Hội là đại sứ của VNCH ở Ma-rốc, và là bạn học với ông Nhu ở bên Pháp. Ông Bửu Hội lại từng là cố vấn cho Hồ Chí Minh. Nên trong việc này, có thể nói vai trò của ông Bửu Hội cũng quan trọng không kém ông Nhu. Ông Nhu và chúng tôi ở khách sạn Grillon cả tháng. Cuộc tiếp xúc xảy ra nhiều lần mà hầu như lần nào cũng có sự hiện diện của giáo sư Bửu Hội. Ông Nhu cho biết lúc ấy ông Hồ Chí Minh đã nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle giúp. Ông Hồ biết là ông De Gaulle đang có chủ trương trung lập Đông Dương, lại hận Mỹ đã “hất cẳng” Pháp. Ông Hồ nhờ Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle can thiệp để tiếp xúc với Sài Gòn. Tổng Thống Pháp rất sốt sắng trong việc này. Sau chuyến đi này ít tháng thì xảy ra vụ ông Nhu “đi săn cọp” ở Tánh Linh.

21. Hỏi: Gần ngày đảo chính đại sứ Cabot Lodge có điện đàm với Tổng Thống Diệm. Lúc đó ông có ở bên cạnh Tổng Thống không?
Đáp: Không.

22. Hỏi: Trong cuốn Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cựu đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết rằng ông ta xin phép Tổng Thống đem xe tăng thiết giáp lên bộ tổng Tham Mưu để bắt các tướng và dẹp đảo chính. Nhưng Tổng Thống không cho. Ông có biết chuyện này không?
Đáp: Lúc ấy tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Chính tôi nghe điện thoại của ông Duệ và trình lên Tổng Thống.
Tổng Thống la tôi: Các anh muốn gì? Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao? Dân Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Đem quân đội chống quân đội là cách bảo vệ tổ quốc hả?
Tôi thưa: Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng Thống. Chẳng lẽ để phải chết sao? 
Ông quát lên: Chết thì đã sao.
Đúng, đối với ông chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết của ông là cái chết dần của miền Nam. Ông còn nói quân đội là để bảo vệ tổ quốc chứ không phải để bảo vệ cá nhân Tổng Thống.
Ông bảo tôi liên lạc với ông Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc Hội yêu cầu cho triệu tập Quốc Hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu. Nhưng tôi gọi ông Lễ 4 lần không được. Lúc ấy không phải chỉ có Lữ Đoàn xin lên tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính. Mà còn có cả một đại đội biệt kích thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đi hành quân ở Tây Ninh vừa về đến Sài Gòn cũng báo cáo là lực lượng phòng vệ của các tướng đảo chính ở Tổng Tham Mưu rất yếu, đại đội biệt kích xin phối hợp với 2 tiểu đoàn của Lữ Đoàn Phòng Vệ phủ Tổng Thống để đột kích vào bắt hết các tướng đảo chính. Tướng Nguyễn Văn Phú, lúc ấy còn là Thiếu Tá đã tiếp xúc với tôi về việc này. Nhưng như vừa nói. Tổng Thống không chấp thuận. 
Viên đại úy đại đội trưởng Biệt Kích đề nghị cho lực lượng của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống có xe bọc thép dẫn đầu tiến tới bao vây bộ Tổng Tham Mưu, còn đại đội của anh ta sẽ đột kích bọc hậu từ phía sân vận động vào bắt sống các tướng. Tôi rất buồn bực và lấy làm khó hiểu tại sao ông cụ lại không cho đánh. Ông Nhu ngồi cạnh đó cũng chẳng nói gì. 

23. Hỏi: Theo ông trong số các tướng lãnh lúc ấy ai có khả năng nhất?
Đáp: Tôi hầu như không tiếp xúc với các tướng. Ngay cả Phó Tổng Thống cũng vậy. Hầu như chẳng bao giờ gặp. Nhưng tôi có nghe ông Nhu nói ông Nguyễn Văn Thiệu, lúc ấy mang lon đại tá, là một tư lệnh (sư đoàn 5) giỏi nhất. Ông Nhu có nhận xét đó sau khi nghe ông Thiệu thuyết trình ở hội trường Suối Lồ Ồ.
Còn các tướng thì rất sợ Tổng Thống Diệm mỗi khi phải thuyết trình cho ông về tình hình an ninh. Bởi vì ông nắm vững tình hình và nhất là địa hình địa vật… địa lý của từng vùng. Kiến thức về quân sự của ông cũng rất uyên bác. Tôi được biết, khi mới về nước làm thủ tướng, ông đã yêu cầu tổng lãnh sự ở Hồng Kông mua cho ông tất cả tác phẩm của Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài để đọc và bắt ông Nhu phân tích nghiên cứu trình lên. 

24. Hỏi: Nghe nói ông bà Nhu có một biệt thự đẹp lắm ở Đà Lạt. Ông có tới đó bao giờ không?
Đáp: Ông nói đến cái biệt thự này, tôi lại nhớ tới cái ông luật sư Trương Phú Thứ ở Seattle. Ông ấy muốn tìm cách phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu mà không sao được. Chẳng rõ tại sao ông ta biết nhà tôi, tìm đến xin tôi giới thiệu với bà Nhu. Tôi biết đã từ lâu bà ấy ẩn dật không muốn báo chí nhắc tới. Nhưng tôi biết bà ấy hãy còn quyến luyến ngôi nhà hai phòng ngủ của một người Pháp, bỏ hoang đã lâu mà anh em chúng tôi hùn tiền mua cho ông bà ấy vào khoảng năm 1960, mà không đủ tiền sửa chữa, cho nên đến khi ông Nhu bị sát hại và bà Nhu sống lưu vong, cũng mới chỉ sửa được phân nửa.
Tôi bảo ông Thứ hãy về Việt Nam, lên Đà Lạt chụp ảnh ngôi nhà ấy rồi mang theo sang Pháp, tìm cách đưa tấm hình đó tận tay bà Nhu thì may ra bà ấy cho gặp. Thì quả thật chắc ông đã biết, ông Thứ đã viết một bài cho tờ Văn Nghệ Tiền Phong nói về bà Nhu ở tuổi gần bát tuần sống như một nhà tu ở Paris. Tôi mong ông Thứ có dịp phổ biến tấm hình này để độc giả thấy cái “ngôi biệt thự xinh đẹp” của ông bà Nhu. 

25. Hỏi: Thống tướng Maxwell Taylor, Đại sứ Frederick Nolting và nữ ký giả Marguerite Higgins đều nói được Tổng Thống Diệm tiếp hơn kém khoảng 5 giờ đồng hồ. Ông có biết điều đó và có ý kiến gì không?
Đáp: Lúc ấy nhiều người nói tổng thống tiếp khách lâu quá. Tôi có trình ông, bảo người ta phê bình tổng thống độc thoại!
Ông cười. Ông bảo: Người Mỹ họ ít hiểu về dân tôc mình về lịch sử của nước mình. Mình phải lợi dụng lúc họ chịu nghe để nói cho họ hiểu chứ. Mấy người này đều chăm chú nghe tôi và đặt nhiều câu hỏi. Tôi phải trả lời cho họ chứ. 

26. Hỏi: Gần ngày đảo chính Tổng Thống có mời ông bà Đại Sứ Mỹ lên Đà Lạt nghỉ tại biệt điện của Tổng Thống và dự dạ tiệc thân mật. Ông có biết họ thảo luận về việc gì không?
Đáp: Tôi có biết và nhớ là Tổng Thống đề nghị chính phủ Mỹ thông cảm những khó khăn của miền Nam và đừng ép ông phải cải cách gấp rút. Ông cũng hứa sẽ xem xét những đề nghị của chính phủ Mỹ một cách nghiêm chỉnh. Nhưng cần phải có thời gian. Phía ông Lodge thì nằng nặc đòi Tổng Thống phải đưa ngay ông Nhu ra ngoại quốc. Nhưng dĩ nhiên không bao giờ Tổng Thống nhượng bộ điều này được.

27. Hỏi: Xin ông tha lỗi, ông là Phật tử chứ ạ? Và trong vụ Phật Giáo có ai nhờ ông làm trung gian để thương lượng giàn xếp giữa chính quyền và bên Phật Giáo đấu tranh không?
Đáp: Phải, tôi là Phật tử đã quy y… – Ông vào phòng lấy ra một cuộn giấy mở cho tôi thấy tờ PHÁI QUY Y rồi nói tiếp – Tôi quy y với thầy Thích Minh Châu. Khi vụ Phật Giáo xảy ra tôi có ra Huế gặp thầy Thích Trí Thủ để nhờ thầy can thiệp với Thượng Tọa Thích Trí Quang… nhưng Hòa Thượng Trí Thủ nói bây giờ các thầy trẻ học thức nhiều, họ có đường lối riêng, các sư già chúng tôi nói họ không nghe. Nên không kết quả. Nhiều người khác cũng can thiệp nhiều ngả khác, cũng không hơn gì. Hồi ấy còn cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều Phật tử đứng đầu là phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng bên Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách nào làm được. Tôi rất ân hận là không giúp gì được với tư cách là một Phật tử.

28. Hỏi: Theo ông thì ai cố ý giết hai ông?
Đáp: Theo tôi thì người ra lệnh trực tiếp là tướng Dương Văn Minh. Còn ông Minh có nhận lệnh ở trên nào không thì không biết. Sở dĩ tôi dám quả quyết ông Minh, là vì chính ông Minh sai cận vệ của ông ta là đại úy Nguyễn Văn Nhung cùng đi với tướng Mai Hữu Xuân, để “thi hành nhiệm vụ”(!). Và Nhung đã leo lên xe bọc thép trong đó có hai anh em Tổng Thống. Nhung là một tay giết người không gớm tay, y còn khắc dấu vào cán dao găm mỗi lần giết được một người. Ngay tối mồng hai y còn khoe “con dao lịch sử” của y với con của tướng Đôn cơ mà. Đó là theo chính lời của tướng Đôn thuật lại trong Việt Nam Nhân Chứng. Còn tướng Xuân thì khi “đi đón ông cụ” về và ông cụ đã chết rồi, đã tới trước Dương Văn Minh giơ tay làm dấu, miệng nói: “Mission accomplie” (Nhiệm vụ hoàn thành). Cứ theo những lời trên của tướng Đôn, thì không nghi ngờ gì người chủ trương và ra lệnh giết hai ông là tướng Big Minh.

29. Hỏi: Thời gian quấy rầy ông đã quá dài. Nhất là trong lúc ông còn bịnh nhiều. Xin cám ơn ông đã mất công trả lời những câu hỏi của chúng tôi. Và nếu có thể được xin ông cho một cảm tưởng chung về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu.
Đáp: Tôi cũng xin cám ơn ông đã tốn công đi từ xa đến để cho tôi được có dịp nói lên vài điều trong số những gì mình còn nhớ được về thời gian dài phục vụ Đất Nước bên cạnh hai nhân vật lịch sử mà tôi hằng kính mến. Cứ mỗi lần nhớ đến hai cụ, tôi đều ngậm ngùi xót xa. Nhất là đối với cụ Diệm. Ông quá ngay thẳng, quá quân tử, quá rộng lượng, lúc nào cũng nghĩ tới làm cho dân được ấm no hơn. Vậy mà người ta nỡ hãm hại ông. Không phải chỉ có những ngày giỗ hai ông tôi mới khóc.
——-
Cụ Vỹ dằn cơn xúc động bắt tay tôi khi tôi từ biệt ra về…
Minh Võ
VRNs đặt tựa