Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Khi người cộng sản mất phương hướng

J.B Nguyễn Hữu Vinh
Chia sẻ bài viết này
Trong bài viết “Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác”, Lênin viết: “Trái lại, tất cả thiên tài của Mác chính là ở chỗ đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời thành sự thừa kế thẳng và trực tiếp học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất cho triết học, chính trị kinh tế học và chủ nghĩa xã hội. Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó chính xác, nó hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ áp bức của giai cấp tư sản.” (Giáo dục", số 3, tháng Ba, 1913).

Đúng 100 năm sau, Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ còn là mớ kinh sách vẫn được dùng để tụng niệm tại một vài nước châu Á. Khi mà các đệ tử môn phái này đang rã rời, buồn ngủ, mơ màng những bữa tiệc linh đình và tìm cách hưởng thụ những món tư bản khổng lồ cướp được nhờ địa vị thống trị của mình, dưới cái nhãn mác cách mạng và ô che của cái Học thuyết Mác – Lênin “vĩ đại” danh cho giai cấp vô sản kia.
Những thực tế đang diễn ra, đã chứng minh rằng những điều Lênin đã viết kia, đã ca tụng và lăng xê trên, chỉ là những món bánh vẽ và là sản phẩm của những sự hoang tưởng dưới sự kiểm chứng của lịch sử. Họ đã phần nào thành công trong một giai đoạn lịch sử, đã ru ngủ cả chục triệu, thậm chí là hàng trăm triệu người. Nhưng họ đã thất bại trong một quá trình lịch sử, cái lý thuyết huyễn hoặc đó đã nhanh chóng bộc lộ những vô lý và tự hủy. Có thể nói, sự thất bại của Chủ Nghĩa Cộng sản không phải ở chỗ thực hành, mà ngay cả phần lý thuyết cũng đã được thực tế chứng minh là: hão huyền và ảo tưởng.
Việt Nam là một trong ba địa chỉ hiếm hoi còn lại trên thế giới đang tiếp tục bám víu vào thứ hỗn mang này. Hai phần ba thế kỷ bám trụ, đi theo, sáng tạo, kiên định… đủ cả mọi ngôn từ và tốn máu xương hàng triệu người, từng phần lãnh thổ đất nước thì thực tế xã hội hôm nay đã chứng minh được điều gì?
Thực tế của “Ba cuộc cách mạng”

Thay cho “một nền sản xuất có năng suất cao hơn hẳn so với nền sản xuất TBCN” thì năng suất lao động của “phương thức sản xuất XHCN” đã trở thành chuyện hài hước nếu đem so sánh. Thay cho mối quan hệ sản xuất tiên tiến, thì phương thức này đã đẻ ra một mối quan hệ sản xuất sử dụng 30% số người làm việc và 30% số công chức sáng cắp ô đi, tối cắp về. Đó là những kết luận của quan chức, báo chí Việt Nam tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hôm nay.
Thay cho mối quan hệ sản xuất lấy giai cấp công nhân làm trọng tâm, mọi thành phần được hưởng thụ thành quả lao động xã hội, thì sản phẩm xã hội tập trung vào một đám tư bản đỏ là đảng viên Cộng sản. Chức năng của đám này là bòn rút, tích lũy, phá phách sản phẩm xã hội và là giặc nội xâm của đất nước.
Mới mối quan hệ, trình độ sản xuất và năng suất lao động đó, thì đời sống vật chất mà được nâng cao để dần tiến tới “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” là chuyện điên rồ.
Ngoài ra, cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật được coi là “then chốt” thì kết quả thảm hại thay. Cả đất nước không tìm nổi một cơ sở sản xuất chiếc đinh ốc đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để có thể đảm đương vai trò đại lý sản xuất cho một hãng tư bản con con. Mọi thành quả kỹ thuật của “Phe Xã hội Chủ nghĩa” đều là sự học mót hoặc ăn cắp của “bọn tư bản giãy chết”.
Có lẽ, cần phân tích sâu sắc hơn về cuộc cách mạng thứ 3: Cuộc cách mạng Tư tưởng và văn hóa -Một cuộc phá hủy nền văn hóa lâu đời và niền tin tôn giáo
Khi đảng cộng sản hò hét “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa Xã hội (CNXH), bằng ba cuộc Cách mạng” thì cả nước rùng mình bởi những trận càn vào tâm linh, tôn giáo, văn hóa cội nguồn. Đặc biệt nhất là trong ba cuộc cách mạng, cuộc “Cách mạng Tư tưởng và văn hóa” có chiều sâu nhất đánh vào tâm tư, suy nghĩ, lối sống, đạo đức và tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc.

Mở đầu là cuộc Cải cách ruộng đất, một chiến dịch làm tan rã quan hệ sản xuất và nền văn hóa ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh việc chiếm đoạt công cụ sản xuất, tài sản ruộng vườn của “giai cấp địa chủ”, chiến dịch này còn làm băng hoại những nét văn hóa truyền thống mà để có nó, người dân Việt phải mất hàng ngàn năm chắt lọc và xây dựng. Cuộc “cải cách” đó thực hiện phương châm “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ”, nghĩa là mọi thành phần ưu tú của dân tộc đều sẽ bị tiêu diệt.
Bên cạnh việc một tầng lớp người dân bị mất tài sản, thì tư duy cướp tập thể, cướp trắng thành quả lao động bao đời, tư duy bất chấp sự công bằng xã hội xóa bỏ sự lương thiện của con người được công khai du nhập, khuyến khích dưới cái tên mỹ miều: Cách mạng vô sản.
Tiếp đến là cuộc cách mạng vào văn hóa, văn học, báo chí… những công cụ trên mặt trận tư tưởng. Vụ Nhân Văn giai phẩm, hàng loạt tác phẩm bị lên án, thủ tiêu, hàng loạt tác giả bị cầm tù, đày đọa, thậm chí là tù đày đến chết.

Thế rồi, hàng loạt chùa chiền, miếu mạo, nhà thờ, thánh thất bị triệt hạ không thương tiếc. Khi đó, Đức Chúa, Đức Phật, Thánh, Thần… đều được xếp vào thành phần phản động. Một cuộc “cách mạng vô sản” được thực thi nhằm trục xuất Chúa Trời ra khỏi vũ trụ, trục xuất tư hữu ra khỏi xã hội, trục xuất thần thánh ra khỏi đời sống và trục xuất linh hồn ra khỏi con người.
Tất cả để phục vụ một cuộc “cách mạng văn hóa và tư tưởng”.
Điển hình, là những phe nhóm cộng sản vô thần được đưa vào chùa chiền, lập căn cứ, nhen nhóm các lực lượng vũ trang, chém giết… những hành động hoàn toàn đi ngược lại với chùa chiền là nơi tu tâm phát đức. Còn những chùa chiền khác không có tác dụng cho những việc đó thì bị đập bỏ không thương tiếc.
Điển hình là những thánh thất, nhà thờ, đền Thánh... nếu không được sử dụng cho cuộc bạo lực cách mạng, nếu không bị đập bỏ, thì hạn chế đến mức tối đa dẫn tới tự tiêu diệt. Tiến hành chiếm, cướp, lấn lướt và chèn ép đến mức có thể nhằm trục xuất khỏi đời sống xã hội. Đặc biệt, thay vì những nơi tôn nghiêm, thờ tự, nêu cao tình yêu thương, nhà cầm quyền Cộng sản dùng Nhà thờ, thánh thất làm “Nơi ghi dấu tích tội ác”.
Hậu quả là gì?
Một đất nước kiệt quệ, một xã hội hỗn loạn và băng hoại, không có trật tự, con người xử sự với nhau như dã thú. Đạo đức xã hội suy đồi, những hiện tượng con đánh cha, trò đánh thầy, con chửi bố mẹ… là chuyện cực hiếm trong văn hóa đất nước trở thành chuyện thường ngày. Một xã hội ích kỷ và vô cảm, tệ nạn và đồi trụy được hình thành và dẫn đầu bởi chính cái gọi là “Đội ngũ ưu tú của giai cấp công nhân và dân tộc”.
Năm 1977, Liên Xô – được coi là thành trì của phe XHCN - tuyên bố đã hoàn thành giai đoạn xây dựng Chủ Nghĩa xã hội để bắt đầu xây dựng Chủ Nghĩa Cộng sản. Thế mà chỉ 12 năm sau, cả thành trì xây dựng bao công sức máu xương kia đổ cái rụp không thể nào chống đỡ.
Sau mấy chục năm khẳng định con đường quá độ đi lên Chủ Nghĩa xã hội mà “đảng và bác đã chọn” hộ dân tộc Việt Nam là con đường hiện thực, duy nhất đúng đắn, dần dần các lãnh đạo cộng sản mới thừa nhận sự u mê và hão huyền mơ hồ khi đặt niềm tin vào đó. Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh còn mơ hồ theo kiểu “năm ăn năm thua” rằng: “Chủ nghĩa xã hội sẽ dần dần sáng tỏ”. Còn mới đây Tổng bí thư Đảng Cộng sản ngao ngán thổ lộ: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”. Nghĩa là, cứ đi hết thế kỷ này theo con đường quá độ và yên chí là chưa có cái Chủ nghĩa xã hội, còn khi đến đó, nó là cái gì thì sẽ biết. Nếu là quả núi thì leo lên ngồi, nhỡ không may là hố sâu, thì cả dân tộc cứ xuống đó mà lặn.
Niềm tin yếu ớt vào “ngày mai tươi sáng của Chủ nghĩa xã hội” đã nhanh chóng rơi rớt ngay chính từ những người lãnh đạo, từ chính những đảng viên cộng sản. Hàng loạt cán bộ cộng sản cao cấp đến cấp thấp, những người đã tự nhận, được tôn xưng là người cộng sản gộc đã từ bỏ tư tưởng của mình cách này cách khác, bằng hình thức này hoặc hình thức khác, khi thì cá nhân, khi thì tập thể, khi thì một nhóm, khi cả hệ thống. Điều này rất dễ thấy.
Với thể chế đảng lãnh đạo tuyệt đối, luôn nghĩ thay, định hướng thay, lựa chọn thay cho người dân, do vậy khi hàng ngũ đảng viên, lãnh đạo mất phương hướng, thiếu niềm tin, thì xã hội cũng khủng hoảng niềm tin là điều không lạ.
Vì vậy, nó tạo nên sự thất vọng ở ngay chính những thành phần cộng sản, tạo nên sự hoang mang và đó là cơ hội cho thói mê tín, dị đoan phát triển. Bên cạnh đó, chủ nghĩa thực dụng, dối trá cũng được dịp bùng nổ ở mọi tầm cao thấp.
Những chiếc phao cứu sinh vội vàng chắp vá
Chính sự hỗn mang đó đã tạo ra một thứ tôn giáo hổ lốn theo ý những người cộng sản. Trước hết, đảng khẩn cấp sáng tác ra cái gọi là Tư tưởng Đạo đức Hồ Chí Minh, một sản phẩm mới được sáng tác vội vàng lấp vào chỗ trống khi phe cộng sản sụp đổ và người ta thấy những giòi bọ nhung nhúc trong nội tạng của nó. Môn đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh như một món ăn mới được chế biến tốn kém nhưng bởi những đầu bếp tồi. Không đủ sức thay thế món bánh vẽ ngọt ngào về Chủ nghĩa Cộng sản mà người ta vẫn được ru ngủ, được xài miễn phí bấy lâu nay. Do vậy, đảng tiếp tục chi tiền dân cho việc lũng đoạn tôn giáo hoặc sáng tác các tôn giáo mới. Đó là thứ tôn giáo phục vụ sự tồn tại và cai trị của đảng bằng bất cứ giá nào. Đó là thứ tôn giáo “Đoàn kết Công giáo”, là thứ Phật giáo “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” dần dần bị hủ hóa miễn là đảng nắm được thứ tôn giáo đó từ gốc đến ngọn.
Đó cũng là các thứ tà đạo như tà đạo Hồ Chí Minh, các chùa chiền khổng lồ, các loại ngoại cảm, bói tướng, thầy pháp, đồng bóng, vàng mã… những thứ mà đã một thời là kẻ thù của Chủ nghĩa Cộng sản.
Người ta không cần e ngại đảng có trăm tay, nghìn mắt khi người ta đốt vàng mã hàng trăm triệu đồng. Người ta không sợ hãi khi “gọi hồn” chính ông Hồ Chí Minh – ông tổ Cộng sản vô thần ở Việt Nam lên để mà truy hỏi… Người ta cũng không ngại dùng “nhà ngoại cảm” để gọi hồn Hà Huy TậpNguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Văn Cừ, Phùng Chí Kiên, thậm chí là cả Trần Phú.
Thậm chí, ngay cả khi người ta đúc tượng Thánh Gióng, họ còn đúc cả tim cho tượng Thánh Gióng và tượng con ngựa. Điều đặc biệt hài hước, là ý tưởng này lại xuất phát từ Thủ tướng Chính phủ, một người đã tự hào là đi theo đảng tận 51 năm nay.
Nếu như, những người cộng sản hôm nay còn có niềm tin vào Chủ nghĩa Mác – Lenin, thì những hành động này, là sự phỉ báng công khai cái lý tưởng Cộng sản, cái mà cả đời ông Hồ Chí Minh, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Võ Nguyên Giáp… đã theo đuổi.

Nếu như Các Mác, người đã dành cả đời hoạt động, chiến đấu cho cái “Công”, để rồi khi chết, lại phải chui vào một nghĩa địa “Tư” để nằm, thì những người Cộng sản Việt Nam đã phấn đấu cả đời để chứng minh cho Chủ nghĩa Cộng sản không thần thánh, mà quỷ và linh hồn… đã phải cậy nhờ ma quỷ, thần thánh và linh hồn để tìm lại thân xác mục nát của mình.
Và khi sử dụng những biện pháp này, nghĩa là người ta đã phủ nhận công khai những gì họ nói, rằng Chủ nghĩa Mác – Lenin luôn là sợi chỉ đỏ, là nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản. Hoặc nói cách khác, họ ngang nhiên coi đảng cộng sản mà họ là thành viên chẳng có ký lô giá trị nào trong thực tế.
Thế nhưng, từ chỗ không tin thần thánh, ma quỷ theo chủ thuyết cộng sản, đến chỗ khủng hoảng và vơ váo bất cứ thần thánh nào, miễn giúp họ thực hiện được giấc mơ thực dụng về vật chất và thăng quan tiến chức bằng mọi giá để thỏa mãn nhu cầu đó, họ đã làm băng hoại các tôn giáo để phục vụ mục đích của họ.
Đó là những thể hiện sinh động của mất phương hướng của người Cộng sản Việt Nam hôm nay.
Hà Nội, ngày 31/10/2013
J.B Nguyễn Hữu Vinh

Nỗi đau Long An

Peter Lâm Bùi

1381724_555832087821883_1170070996_n.jpg
Khi mình đặt tâm vào một việc gì, thì quả thật xung quanh là gì mình chả thèm quan tâm, mà đúng là thế thật.
Hôm qua lúc bị 5, 6 tên bẻ tay túm áo đẩy lên xe, mình chả thấy sao cả, cứ cố dồn hết sức mà hét lên:
Tự Do Cho Đinh Nhật Uy... Tự Do Cho Những Người Yêu Nước... Tự Do Cho Dân Tộc Việt Nam... Tự Do.
Rồi Khi tụi nó bắt mình lên trên xe, cứ chỉ biết cố làm sao mà vẫn nhổm đầu ra mà hô hào, mình muốn làm một điều gì tốt nhất ngay thời điểm đó( vì biết lực lượng ít, không cự nỗi với một lực lượng áp đảo và bạo tàn, muốn cho những người đứng xung quanh, đang xem chúng mình từng người bị bắt nhốt lên xe trong thâm tâm họ, nhen nhóm được một điều gì).
Tuy bị bốn năm người công an và dân phòng túm người, mình cũng cố chui đầu ra cửa sổ, và hét lớn:
Tự Do Cho Đinh Nhật Uy... Tự Do Cho Những Người Yêu Nước... Tự Do Cho Dân Tộc Việt Nam... Tự Do.
Bất ngờ có một tên an ninh, tay cầm máy quay (tên này là an ninh Sài Gòn xuống, vì rất quen mặt) nó tiến đến, và trong lúc mình không để ý vì đang hô vang những khẩu hiệu... nó đấm một cái thiệt mạnh vào ngay mang tai phải của mình... choáng là cảm nhận lúc đó của mình, mình chỉ kịp ôm cái mang tai lại thì nó chơi cú nữa bên kia... đau.
Nhưng trong tích tắc mình cố nén đau, mình chỉ mặt nó, nó cũng chỉ mặt mình... thay vì chửi nó... mình vẫn tiếp tục hét lớn, nhưng có lẽ chưa bao giờ mình hét lớn và căm hờn như vậy:
Tự Do Cho Đinh Nhật Uy... Tự Do Cho Những Người Yêu Nước... Tự Do Cho Dân Tộc Việt Nam... Tự Do... Tự Do... Tự Do...
Tự nhiên lúc đó, mình thấy tên an ninh ấy, lúc đầu nhìn hung hăng côn đồ. Nhưng lúc đó dù biết là mình đang bị 3, 4 người dân quân túm người muốn kéo vào, nhưng không hiểu sao khi nó nhìn vào mắt mình, và thấy mình cứ chỉ thẳng vào mặt nó và hét lớn hai tiếng: Tự Do... Tự Do... nó lại lẽn lẽn đi mất.
Sau đó xe chạy, đưa chúng tôi khỏi khu vực tòa án đang xét xử một phiên tòa gọi là Công Khai.
Có người hỏi tôi đau không, nói thiệt đau chứ... nhưng lúc đó tôi thấy đau hơn khi trên xe lúc ấy, hơn chục con người của ba thế hệ... già, thanh niên và trẻ em. Người lớn nhất có lẽ cũng gần 60 tuổi, có em nhỏ chỉ mới 12 tuổi.
Và còn xót xa nào bằng mẹ ruột, chị ruột, cháu ruột của người được cho là "phạm nhân" đến để tham gia phiên tòa gọi là công khai, đã không được cho vào đã đành... mà còn bị bắt, bị kéo, bị đẩy lên xe và đem nhốt về đồn... đau... đau lắm.
Cái đau này không phải vì là thể xác, mà là ở tâm hồn... đau vì nhà cầm quyền thay vì lắng nghe dân, tôn trọng dân, thì luôn dùng quyền lực, dùng bạo quyền để trấn áp người dân. Coi lợi ích đảng phái phe nhóm lớn hơn Dân Tộc, lớn hơn Tổ Quốc... và coi dân là kẻ thù, là thù địch.
Sau phiên tòa, dù rằng Đinh Nhật Uy được hưởng án treo, được phóng thích tại tòa, nhưng đó vẫn là một bản án, một bản án bất công và Uy đã phải bị giam cầm oan uổng hơn 4 tháng trời. Đảng vẫn muốn cai trị bằng quyền lực để phục vụ cho mình, bằng sự dối trá để đầu độc người dân, bằng những điều luật mà mỗi người dân, mỗi người như chúng ta đây, khi muốn thể hiện cái Quyền Con Người chính đáng của mình... thì bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành những Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Trần Vũ Anh Bình, Việt Khang, Nhật Uy, Nguyên Kha... và nhiều... tại sao?
Hãy lên tiếng, và hãy cứ lên tiếng, vì chúng ta là con người... chúng ta không phải là những con cừu. Chúng ta không kêu gọi lật đổ hay tranh dành, chúng ta chỉ muốn họ thay đổi, hãy xóa bỏ những điều luật không đúng, sai trái, hãy tôn trọng quyền con người của mỗi người công dân... hãy thay đổi cả chúng ta và cả họ... hãy thay đổi... thay đổi vì Việt Nam cho Việt Nam.
Sài Gòn một chiều ngồi nghĩ mênh mang... và vẫn còn đau.
P/s: không biết có sai chính tả nhiều không... :P

Hãy biết đau nỗi đau người dân...

Muốn bị bóc lột mà không được

Chia sẻ bài viết này
Nhà tư bản bỏ tiền ra mua thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu, thuê công nhân … làm ra hàng hóa rồi bán đi thu về được một khoản lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Theo cụ Mác vĩ đại thì cái khoản dôi ra đó là do bóc lột công nhân, còn gọi là giá trị thặng dư (gọi tắt là m) mà có.
Đây là điều sinh tử của chủ nghĩa tư bản. Tư bản sinh ra từ nó và cũng sẽ chết đi vì nó. Thế nên mới có câu ví rất hay, lại mang theo màu sắc tình ái lãng mạn về bọn tư bản “sống vì em (m), mà chết cũng vì em”.
Đương nhiên, chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp không có người bóc lột người, chỉ có những người làm chủ xã hội.
Cụ Mác nói thế không biết đúng sai thế nào, chỉ biết là hiện nay, xã hội ta có rất nhiều người chưa có việc làm (nên nhớ không được gọi là không có việc làm hay thất nghiệp) nên lâm vào cảnh thiếu thốn, muốn bị bóc lột mà không ai bóc lột cho.
Hai vợ chồng đứa cháu gái mình đi học cao học bên nước Úc tư bản. Học xong thạc sĩ, nó về nước, còn chồng nó ở lại học thêm lấy bằng tiến sĩ.
Nó cầm cái bằng thạc sĩ về, muốn đi xin việc nhưng nghe ngóng phải mất trăm triệu này, trăm triệu khác nên hãi quá, nằm luôn ở nhà … Đẻ hai đứa con rồi nhưng vẫn chưa xin được việc làm.
Hồi mới về, nó mang xẻng cuốc quang gánh ra chợ người chờ ai đó đến bóc lột. Có lần họ gọi đến nó rồi nhưng lại đuổi vì phát hiện thấy tay chân nó thư sinh quá, bảo ngữ mày thì làm được cái gì. Nó lủi thủi quay về.

Có ai bóc lột tôi không nào. Ảnh: xã luận.com
Cũng may mà thằng chồng nó học tiến sĩ, chịu khó làm thuê làm mướn (đi hái trái cây gì đó) gửi tiền về nuôi vợ. Thế là cháu mình tuy không có việc làm nhưng vẫn sống được.
Kể cũng lạ, chồng tranh thủ làm thuê, bị bóc lột mà vẫn nuôi được vợ. Còn vợ thì muốn bị bóc lột nhưng chẳng ai chịu bóc lột cho.
Cách đây 20 năm. Mình hay đi nhận thầu công trình (thi công toàn bằng máy). Xong công trình, cánh thợ lái máy, đứa thì mua được ti vi, đứa mua được xe máy (hồi ấy thường là cúp 81 bãi hoặc Sim son của Đức). Mình bảo, cho chúng mày thế mà tao vẫn còn khối tiền. Chúng mày thấy đấy, tao có làm gì đâu, tao bóc lột chúng mày đấy. Chúng nó bảo, thế à, nhưng khi nào có công trình mới, anh nhớ gọi tụi em đến để cho anh bóc lột nhá.
Mình cứ nghĩ mãi về chuyện sao ai cũng muốn bị người khác bóc lột, nhiều người muốn bị bóc lột mà không được. Chẳng lẽ thiên tài như cụ Các Mác mà còn nói sai. Nghĩ mãi, hóa ra cụ “quên” béng mất, không tính đến lao động (trí óc) của nhà tư bản.

Vì sao đồng qui sinh ra xung đột: Càng trở nên giống nhau, Trung Quốc và Mỹ lại càng xa nhau

Trần Ngọc Cư dịch
Chia sẻ bài viết này


Từ nhiều năm nay, mọi động thái đối ngoại của Hà Nội đều được dư luận đánh giá như những dấu hiệu hoặc là tiếp tục thân – thậm chí phụ thuộc – Bắc Kinh, hoặc là đang bắt đầu xích lại gần Washington, theo nghĩa hai khả năng đối lập. Trong bài viết sau đây, nhà nghiên cứu chính trị quốc tế Mark Leonard chỉ ra rằng Trung Quốc và Mỹ ngày càng trở nên giống nhau và hệ quả của điều đó trong trật tự thế giới hiện tại và sắp tới.
o0o
Nhiều người lo ngại rằng trong một tương lai không xa, thế giới sẽ bị chia ra nhiều mảng vì hố sâu ngăn cách giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng nới rộng. Họ nêu lên câu hỏi, vì sao một chế độ độc tài cộng sản và một chế độ dân chủ tư bản có thể bắc một chiếc cầu để khắc phục khoảng cách giữa hai bên? Nhưng đã đến lúc ta nên từ bỏ cái tư duy cho rằng hai nước này đến từ những hành tinh khác nhau và những căng thẳng giữa chúng là sản phẩm của những dị biệt giữa hai quốc gia. Trên thực tế, cho đến tương đối gần đây, Trung Quốc và Mỹ khá hòa hợp với nhau – chính vì những lợi ích và thuộc tính của hai nước khác nhau. Ngày nay, chính những tương đồng ngày càng gia tăng, chứ không phải những dị biệt, đang đẩy hai nước cách xa nhau.
Quan hệ Mỹ-Trung hoàn toàn tương phản với quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô, nước sau cùng đã thách thức quyền lực Mỹ. Trong Chiến tranh Lạnh, khi địa chính trị trước hết là một cuộc xung đột ý thức hệ, sự tiếp xúc ngày càng gia tăng và tính đồng qui ngày càng phát triển giữa hai xã hội phân cách nhau đã nuôi dưỡng được chính sách hoà hoãn.
Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình diện quốc tế trong thời đương đại đã đảo ngược tiến trình tương tác đó. Ngày nay, các nước cạnh tranh nhau vì địa vị quốc tế thì nhiều, mà vì ý thức hệ thì ít. Do đó, những dị biệt giữa các đại cường thường dẫn đến sự bổ túc cho nhau và hợp tác với nhau, trong khi sự tương đồng thường là nguyên nhân xung đột. Trong khi tái quân bình nền kinh tế và rà soát lại chính sách đối ngoại của mình, Bắc Kinh và Washington ngày một đối đầu về những lợi ích chung. Và hình như Sigmund Freud đã tiên đoán được trường hợp này: Trung Quốc và Mỹ càng trở nên giống nhau, thì hai nước lại càng ít thích nhau. Freud gọi hiện tượng này là “nỗi ám ảnh về những dị biệt tiểu tiết”: đó là xu thế tập trung vào những dị biệt rất nhỏ giữa những người vốn dĩ giống nhau để biện minh cho những tình cảm xung khắc của họ. Hẳn nhiên, hai nước này không hoàn toàn giống nhau. Nhưng hố sâu chia rẽ hai nước một thế hệ trước đây đã thu hẹp lại, và khi càng giống nhau thì càng dễ trở nên xung đột.
Vào thời điểm Tổng thống Mỹ Obama lên cầm quyền năm 2009, ông hi vọng đưa Trung Quốc vào các cơ chế toàn cầu và khuyến khích nước này đồng hóa lợi ích của mình với việc duy trì hệ thống quốc tế do phương Tây lãnh đạo sau Thế chiến. Nhưng chỉ gần năm năm sau, theo một quan chức Mỹ nắm vững tư duy Tổng thống Mỹ mà tôi có dịp trao đổi vào đầu năm nay, thái độ của Obama đối với Trung Quốc được mô tả chính xác nhất là “thất vọng”. Theo quan chức này, Obama thấy rằng phía Trung Quốc đã bác bỏ nỗ lực của ông trong việc tạo dựng một dạng “G-2” không chính thức trong chuyến viếng thăm Trung Quốc đầu tiên của ông, tháng Mười Một 2009, và những bất đồng giữa Bắc Kinh và Washington về thay đổi khí hậu, về những vấn đề trên biển và an ninh mạng đã khiến Obama tin rằng Trung Quốc là một vấn nạn hơn là một đối tác.
Về phần mình, lãnh đạo Trung Quốc không muốn đề cao một trật tự quốc tế do phương Tây lãnh đạo, một trật tự mà họ không đóng vai trò tạo dựng. Đó là lý do tại sao, trong thời gian trước cuộc họp với Obama tháng Sáu vừa qua tại Khu nhà nghỉ Sunnylands tại California, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thúc đẩy thiết lập một “loại quan hệ đại cường mới” – một cách nói được mã hóa để người Trung Quốc nhắn nhủ người Mỹ phải tôn trọng Trung Quốc như một quốc gia ngang hàng với Mỹ, phải đáp ứng những đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, và phải dự kiến Trung Quốc xác định lợi ích của mình chứ không hậu thuẫn những nghị trình quốc tế do phương Tây lãnh đạo. Trong khi hai cường quốc lớn nhất toàn cầu chiều chuộng chứng thần kinh của mình, phần còn lại của thế giới đâm ra lo lắng. Trong một loạt vấn đề kinh tế và địa chính trị quan trọng, Bắc Kinh và Washington ngày càng ra sức qua mặt nhau hơn là đầu tư vào những định chế chung. Điều này sẽ có hiệu ứng sâu xa trên thế giới. Mặc dù mậu dịch toàn cầu sẽ bành trướng và các định chế toàn cầu sẽ còn tồn tại, nhưng chính trị quốc tế sẽ không bị khống chế bởi các quốc gia giàu mạnh hay các tổ chức quốc tế mà bởi những cụm quốc gia xích lại gần nhau vì có lịch sử và mức độ giàu có giống nhau, và tin tưởng rằng lợi ích quốc gia của chúng bổ túc cho nhau. Những nhóm quốc gia thực tiễn và có phần tùy nghi này sẽ tìm cách phát triển thế mạnh của chúng từ trong nhóm ra ngoài, và sự tương tác giữa chúng với nhau sẽ làm lu mờ đội hình của cái trật tự tự do đa phương và thống nhất mà Mỹ và đồng minh đã cố gắng xây dựng từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt.
KẾT THÚC THỰC THỂ CHIMERICA
Trong gần hai thập kỷ qua, Trung Quốc và Mỹ đã tận hưởng một quan hệ cộng sinh gần như tuyệt hảo. Tiền tiết kiệm của Trung Quốc nuôi sức tiêu thụ của Mỹ. Các công ty Trung Quốc chế tạo những sản phẩm do các công ty hậu công nghiệp Mỹ thiết kế và bảo dưỡng. Và chính sách đối ngoại hướng nội của Trung Quốc trên cơ bản không làm lung lay vai trò bá quyền của Mỹ. Nhà sử học Niall Ferguson và nhà kinh tế Moritz Schularick cho rằng hai nước đã quyện chặt vào nhau đến nỗi họ bắt đầu gọi chúng như một thực thể riêng: “Chimerica” [China + America, ND].
Nếu quả thật từng có một Chimerica thì nó tồn tại nhờ cái thực tế là: mặc dù triết lý cai trị của hai quốc gia khác nhau sâu sắc, nhưng chúng chỉ khác nhau theo cung cách cái ổ khóa và cái chìa khóa khác nhau. Trung Quốc được điều hành theo “đồng thuận Đặng Tiểu Bình”, mang tên của nhà lãnh đạo Trung Quốc đã lùi về phía sau vào những năm 1990, nhưng viễn kiến của ông vẫn tiếp tục dẫn đường cho nước này nhiều năm nữa. Mục đích trước tiên của Đặng là duy trì ổn định quốc nội và quốc tế bằng cách tránh xa một nghị trình đầy tham vọng trong chính sách đối ngoại và, thay vào đó, chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế thông qua xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, tín lý cai trị của Mỹ trong thập niên 1990 dựa vào một chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa can thiệp nhằm bảo vệ một trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo, một trật tự đặt cơ sở trên tự do mậu dịch ở nước ngoài và tăng trưởng kinh tế trong nước nhờ sức mạnh tín dụng. Hai viễn kiến này không có gì giống nhau, nhưng chúng cũng ít khi đối đầu xung đột; thật ra, chúng thường bổ túc cho nhau. Hẳn nhiên, trong giai đoạn này, Bắc Kinh và Trung Quốc vẫn cạnh tranh với nhau. Nhưng vì hai nước xuất phát từ những mức quyền lực rất chênh lệch, cuộc đọ sức trở thành bất đối xứng đến nỗi ít gây ra cọ xát. Vả lại, hai cường quốc này thường theo đuổi những mục đích hoàn toàn khác nhau và dựa vào những phương tiện rất khác nhau. Tại châu Á, Mỹ tập trung vào việc duy trì vai trò siêu cường quân sự của mình và chống lại bất cứ sáng kiến kinh tế nào mà Mỹ không nắm quyền hoạch định – thậm chí cả khi chúng được đưa ra bởi một đồng minh như Nhật Bản là nước đã đề nghị thành lập một quỹ tiền tệ châu Á trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-98, một ý tưởng bị Washington bác bỏ. Trái lại, vào thời điểm đó, Trung Quốc đã tìm cách trấn an các nước láng giềng về “cuộc trỗi dậy hòa bình” của mình bằng cách hậu thuẫn việc hội nhập đa phương trong khu vực và hứa hẹn các nước này một phần thưởng kinh tế trong cuộc trỗi dậy của Trung Quốc thông qua các hợp đồng thương mại. Ở bên ngoài châu Á, lúc bấy giờ Bắc Kinh và Washington cũng tránh giẫm đạp lên chân nhau: Mỹ dành ưu tiên cao nhất cho mối quan hệ với các nước dân chủ tiên tiến khác và các nước giàu năng lượng tại Trung Đông, còn Trung Quốc thì dồn các nỗ lực ngoại giao của mình vào việc tìm kiếm cơ hội tại châu Phi và châu Mỹ La tinh, những vùng mà Mỹ đã rút lui.
HOÁN CHUYỂN VỊ TRÍ
Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 đã kết thúc kỷ nguyên Chimerica. Thức tỉnh vì nhận ra sự yếu kém của mình trước các lỗi hệ thống đã đưa đến cuộc khủng hoảng, Bắc Kinh và Washington cương quyết tái quân bình quan hệ kinh tế với nhau, một quan hệ mà cả hai nước đều nhận thấy đã trở nên thiếu lành mạnh. Nhưng trong khi rà soát lại chính sách đối nội và đối ngoại của mình để tìm cách thích nghi với nền kinh tế toàn cầu đột nhiên trở nên yếu kém, cả hai nước bắt đầu phản ánh lẫn nhau trong những cung cách có khả năng thúc đẩy tính cạnh tranh hơn là tính bổ túc.
Trong lãnh vực kinh tế, Trung Quốc đang tìm cách giảm bớt sự lệ thuộc lâu dài vào hàng xuất khẩu và đang cố gắng kích thích mức tiêu thụ trong nước và phát triển một nền kinh tế dịch vụ nội địa. Trong khi đó, Mỹ đang nâng đỡ khu vực chế tạo hàng hóa của mình, một phần bằng chủ trương hạ giá đồng Mỹ kim thông qua việc gia tăng nguồn tiền cho các ngân hàng [quantitative easing] và bằng việc trợ cấp khu vực chế tạo xe hơi, và khuyến khích tăng trưởng kinh tế do xuất khẩu chủ đạo thông qua một loạt hợp đồng thương mại mới với các nước giàu, gồm Nhật Bản và các quốc gia trong khối Liên Âu.
Các nỗ lực sản xuất hàng hóa giá trị cao của Trung Quốc và những toan tính tái công nghiệp hóa của Mỹ sẽ dẫn đến tình trạng là hai nước sẽ cạnh tranh trực tiếp hơn, khi nước này tiến gần đến phương thức sản xuất và tiêu thụ truyền thống của nước kia. Chẳng hạn, Trung Quốc không còn muốn cung cấp các linh kiện rẻ tiền bên trong chiếc iPhone chỉ để đứng nhìn những lợi nhuận lớn nhất dồn vào tay một công ty Mỹ. Thay vào đó, Trung Quốc đang khuyến khích các công ty Trung Quốc nên theo gương Huawei, một công ty đặt trụ sở tại Quảng Đông đã cực kỳ thành công trong việc bán ra các điện thoại thông minh bắt chước chiếc iPhone, mà lợi nhuận của công ty này vẫn nằm trong nước. Tuy nhiên, trong quan hệ của mỗi nước với phần còn lại của thế giới, cả hai cường quốc đang trở nên giống nhau một cách rất ngoạn mục – trong một số trường hợp gần như đang hoán chuyển vai trò truyền thống của nhau. Trung Quốc đang phấn đấu để điều hành ảnh hưởng toàn cầu đang lên của mình. Giới tinh hoa trong chính sách đối ngoại của đất nước này đang lao vào một cuộc tái tư duy rộng lớn về chiến lược Trung Quốc; họ chất vấn mọi tín điều trong đường lối “ẩn mình để chờ thời cơ” của thời đại Đặng Tiểu Bình, gồm cả truyền thống tránh can thiệp vào nội bộ nước khác của Trung Quốc. Tiến trình này được thúc đẩy bởi cuộc chiến do NATO lãnh đạo năm 2011 nhằm lật đổ nhà lãnh đạo Libya Muammar al-Qaddafi, khi Trung Quốc kinh ngạc nhận ra rằng nhiều nước đang phát triển đã ủng hộ việc can thiệp của quốc tế. Sức ép đòi hỏi Trung Quốc phải có một chính sách đối ngoại ít thụ động hơn phát xuất từ các công ty Trung Quốc muốn được che chở tại những thị trường nguy hiểm ở nước ngoài; từ một đội ngũ trí thức theo chủ nghĩa toàn cầu chủ trương rằng trong một thế giới mà Trung Quốc hiện diện tại nhiều điểm nóng, Bắc Kinh phải từ bỏ sự dè dặt của mình để chấp nhận các hoạt động quốc tế; và từ những người hoạch định chính sách Trung Quốc hiếu chiến tin tưởng rằng Trung Quốc cần phải quyết đoán hơn trong việc bảo vệ lợi ích của mình ở nước ngoài. Thậm chí nếu những tranh luận này có thắng thế đi nữa, Trung Quốc sẽ không vội tung ra những cuộc can thiệp vì lý do nhân đạo theo kiểu Mỹ nhưng những người làm chính sách Trung Quốc sẽ bớt rụt rè hơn trong việc can thiệp vào nội bộ của nước khác. Như Diêm Học Thông (Yan Xuetong), Viện trưởng Viện Bang giao Quốc tế Hiện đại tại Đại học Thanh Hoa, đã nói với tôi, “Khi Trung Quốc mạnh bằng Mỹ, chúng tôi sẽ có một đường lối đối với vấn đề chủ quyền giống hệt như Mỹ.”
Và khi đề cập đến chính trị khu vực, những trí thức diều hâu như Diêm đang bày tỏ những hoài nghi về việc Trung Quốc có nên đặt lợi ích kinh tế cao hơn những mục tiêu chính trị hay không. Sự chuyển biến tư duy này có thể giải thích quyết định của chính phủ Trung Quốc năm 2010 trong việc tạm thời ngưng xuất khẩu khoáng sản đất hiếm sang Nhật Bản và quyết định của Trung Quốc hai năm sau đó trong việc giới hạn nhập khẩu trái cây từ Philippines trong thời gian hai nước xung đột về các đảo trong Biển Hoa Nam [Biển Đông Việt Nam – N.D.]. Những động thái này diễn ra song song với việc chính quyền có vẻ dung túng những cuộc biểu tình đôi khi bạo động được tổ chức bởi các phần tử dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc nhằm chống lại các công ty Nhật Bản đang hoạt động tại Trung Quốc, dù sự bất ổn đó đã khiến một số công ty này phải dời sang Việt Nam.
Trong một chuyển biến nhiều kịch tính hơn, giới hàn lâm Trung Quốc cũng đang tranh luận là liệu nước họ có nên xét lại việc chống đối các liên minh thường trực không. Năm ngoái, Diêm và các trí thức diều hâu khác công khai đề nghị rằng Trung Quốc nên phát triển các hình thức gần như liên minh với khoảng trên một chục nước, gồm các cộng hòa Trung Á, Miến Điện, Bắc Triều Tiên, Pakistan, Nga, và Sri Lanka, cấp cho họ những đảm bảo an ninh và, đối với những nước nhỏ trên danh sách này, có lẽ cả sự che chở của chiếc dù hạt nhân Trung Quốc. Những động thái này không phải là điều mà nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Robert Zoellick nghĩ tới vào năm 2005 khi ông kêu gọi Trung Quốc nên trở thành một “thành viên có trách nhiệm” trong trật tự toàn cầu.
Tiếp sức cho tính quyết đoán quốc tế ngày một gia tăng của Trung Quốc là sự phát triển một hệ thống chính trị trong nước ngày càng tham gia bàn việc nước, trong đó nhiều trường phái khác nhau thi đua tranh luận vấn đề và cũng là nơi Internet và nhất là các phương tiện truyền thông xã hội đã tạo ra một công luận sinh động hơn trước nhiều. Trong quá khứ, các nhà làm chính sách phương Tây thường lên án Trung Quốc đã dùng thủ đoạn để nuôi dưỡng hận thù dân tộc rồi lấy cớ là hành động của mình bị hạn chế vì sự phẫn nộ của người dân. Nhưng ngày nay, tiếng trống thúc quân của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc có vẻ chân thật hơn là ngụy tạo. Trong Chiến tranh Lạnh, các nhà phân tích phương Tây cho rằng Đảng Cộng sản là xấu và xã hội dân sự là tốt. Nhưng ngày nay, Đảng Cộng sản có xu thế thúc đẩy một sự tự chế ở nước ngoài, trong khi người dân Trung Quốc bình thường lại đòi hỏi Đảng phải có hành động cứng rắn hơn.
Trong khi Trung Quốc cân nhắc phải làm thế nào để nới rộng ảnh hưởng quốc tế và những cam kết của mình, thì Mỹ đang ra sức hòa giải cái tham vọng siêu cường quốc tế của mình với tâm trạng thấm mệt chiến tranh của người dân và những đe dọa về nợ nần quốc gia. Obama đã tìm cách phát triển một mô hình lãnh đạo ít tốn kém: một phiên bản kiểu Mỹ của đường lối Đặng Tiểu Bình, với sự khác biệt là trong khi Đặng cố gắng che giấu sự giàu có đang gia tăng của Trung Quốc, thì Obama lại tìm cách che giấu sự thiếu hụt nguồn lực ngày càng trầm trọng của Mỹ. Trên thực tế, đường lối này của Mỹ gồm: trừng phạt các nước thù nghịch như Iran và Bắc Triều Tiên bằng biện pháp kinh tế, truy kích khủng bố bằng máy bay không người lái, tránh đơn phương can thiệp ở nước ngoài mà có xu thế “lãnh đạo từ đằng sau”, và thiết lập những quan hệ thực tiễn với các quốc gia hùng mạnh như Nga. Từ góc nhìn của Trung Quốc, dấu hiệu có vẻ báo nguy nhất đối với Trung Quốc là chiến lược “xoay trục” về châu Á của Mỹ có vẻ như mô phỏng theo chính sách ngoại giao đa phương và chiến lược thương mại của Bắc Kinh. Thật vậy, như một nhà chiến lược của Lầu Năm góc đã nói với tôi gần đây, “Thay vì chơi cờ tướng, chúng tôi đang chơi cờ vây”, một loại cờ bàn cổ đại của Trung Quốc. Nhưng thậm chí khi Trung Quốc và Mỹ phát triển những đường lối khác nhau để bành trướng ảnh hưởng, cả hai đều bám lấy một hình thức của chủ nghĩa biệt lệ [exceptionalism]. Cả hai đều tin rằng mình khỏi phải tuân theo một số yếu tố nhất định của luật pháp quốc tế và mình được định mệnh giao phó một vai trò khống chế khu vực tại châu Á. Tuy nhiên, cả hai nước đều khó có thể hòa hợp cái xác tín ấy với cảm giác mà mỗi bên đều có, rằng trong một thế giới ngày càng phụ thuộc vào nhau này mình đã bị nước kia chơi trội. Người Mỹ than phiền về mất công ăn việc làm, còn người Trung Quốc thì than phiền về việc đã mất đi những số tiền dành dụm bằng mồ hôi nước mắt. Washington than phiền rằng Bắc Kinh không chơi theo luật, còn Bắc Kinh thì phản bác rằng những luật này đều do phương Tây bày ra để kềm hãm các nước khác. Khi căng thẳng gia tăng, nhiều khía cạnh của quan hệ Mỹ-Trung mà đã có thời cả hai bên cho là cơ hội lại có vẻ đang ngày càng là những mối đe dọa.
HAI BÊN TÌM ĐƯỜNG TRÁNH NHAU
Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã tự do hóa nền kinh tế của mình, tạo ra một giai cấp trung lưu lên đến hàng trăm triệu người, và chứng kiến sự ra đời một công luận đích thực [a genuine public sphere] trong số hơn 500 triệu người dân Trung Quốc sử dụng Internet. Trung Quốc đã được đón mời vào các định chế quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và G-20 và được nhiều Tổng thống Mỹ liên tiếp đối xử bằng những tuyên bố công khai bày tỏ sự kính trọng. Nhiều nhân vật tại Washington từng hi vọng rằng những chuyển biến này sẽ đi liền với việc Trung Quốc gia tăng hậu thuẫn đối với hệ thống quốc tế do phương Tây lãnh đạo. Nhưng họ đã thất vọng vì thấy Trung Quốc không đáp ứng theo mong muốn của mình.
Thật vậy, thay vì bị những định chế toàn cầu chuyển hóa, Trung Quốc theo đuổi chính sách ngoại giao đa phương rất tinh vi, làm thay đổi trật tự toàn cầu. Ở G-20, Trung Quốc đứng cùng phe với các nước chủ nợ, như Đức, một nước mà Trung Quốc đã liên minh năm 2010 khi người Đức chống lại một gói kích thích kinh tế toàn cầu do Mỹ đề xuất. Washington cũng thất vọng vì Bắc Kinh đã góp phần kết liễu Vòng đàm phán Doha về thương mại thế giới, bằng cách giữ thái độ bất động vào thời điểm các cuộc đàm phán có dấu hiệu lâm nguy. Tại LHQ, Trung Quốc đã đẩy lùi sự phát triển các qui phạm bảo vệ tự do: trong thời gian 1997-98, các quốc gia khác bỏ phiếu theo Washington về những vấn đề nhân quyền tại Đại hội đồng là 80% số lần; trái lại, vào năm đó, các nước “bỏ phiếu theo” Bắc Kinh về các vấn đề này là 40%. Vào năm 2009-2010, những con số này gần như bị đảo ngược: khoảng 40% bỏ phiếu theo Mỹ và gần 70% theo Trung Quốc trên các vấn đề nhân quyền. Sự thay đổi lập trường này một phần là do Trung Quốc giành được hậu thuẫn của các nước đang phát triển bằng cách cho vay nhẹ lãi, trực tiếp đầu tư, và hứa hẹn bảo vệ những nước này trong trường hợp Hội đồng Bảo an LHQ đưa ra những nghị quyết trừng phạt họ.
Trước sự thất vọng của phương Tây, các học giả Trung Quốc, như nhà sử học vai vế Thì Ân Hoành (Shi Yinhong), tranh luận rằng phương Tây không nên quá bận tâm về việc “thúc đẩy Trung Quốc hội nhập vào trật tự tự do của phương Tây”, mà thay vào đó nên điều chỉnh cái trật tự ấy “để đáp ứng nguyện vọng của Trung Quốc”, như Thì đã nói với tôi gần đây. Sự điều chỉnh này sẽ đòi hỏi một sự tái phân phối rộng lớn ảnh hưởng chính thức trong các định chế tài chính và an ninh toàn cầu, theo đó quyền lực được phân phối cho các quốc gia thành viên sẽ không tùy thuộc vào các khái niệm được định sẵn từ trước là ai sẽ có quyền cai quản, mà tùy thuộc vào “sức mạnh đích thực mà mỗi nước có được và sự đóng góp mà mỗi nước đã thể hiện”, như Thì lý giải. Trên thực tế, Thì tranh luận, Mỹ sẽ phải chấp nhận một thế cân bằng quân sự với Trung Quốc (chí ít ở phía đông Đài Loan), việc thống nhất bằng đường lối hòa bình của Trung Quốc và Đài Loan theo điều kiện của Bắc Kinh, và một khoảng “không gian chiến lược” nhỏ hẹp nhưng quan trọng đối với Trung Quốc ở tây Thái Bình Dương. Hơn thế nữa, hệ thống liên minh của Mỹ cần phải “giảm bớt tập trung vào quân sự và giảm bớt việc lấy Trung Quốc làm mục tiêu”.
Nhưng cho dù giới tinh hoa Trung Quốc có muốn gì đi nữa, phương Tây vẫn chưa sẵn sàng điều chỉnh trật tự thế giới hiện hữu để đáp ứng nguyện vọng của Trung Quốc. Và thay vì chấp nhận những nhượng bộ cần thiết cho một G-2 hay sự bế tắc của nguyên trạng, các cường quốc phương Tây đang tránh đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh trong khi theo đuổi những quan hệ và những chính sách nhằm hạn chế khả năng của Trung Quốc trong việc uốn nắn hệ thống quốc tế theo ý mình.
Trong những năm gần đây, chẳng hạn, một nhóm quốc gia có lợi tức cao do Mỹ lãnh đạo và gồm cả Australia, Canada, Malaysia, và Singapore đã bắt đầu đàm phán để thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, một thương ước cố ý loại trừ Trung Quốc và nhấn mạnh những tiêu chuẩn khắt khe đối với các doanh nghiệp nhà nước, với quyền lợi công nhân, với các biện pháp bảo vệ môi trường, và quyền sở hữu trí tuệ. Nếu cuối cùng Nhật Bản cũng gia nhập, các thành viên của TPP sẽ chiếm đến 40% GDP toàn cầu. Thậm chí còn tham vọng hơn cả TPP là những cuộc đàm phán được khởi động gần đây về Hiệp định Đối tác Đầu tư xuyên Đại Tây Dương, một kế hoạch đã được bàn bạc từ lâu nhằm tạo ra một hiệp ước tự do mậu dịch giữa EU và Mỹ, một hiệp ước sẽ cho các nước phương Tây những lợi thế đáng kể trong bất cứ một cuộc đàm phán thương mại nào sau này với Trung Quốc. Mục tiêu của những hiệp ước mới này không phải là để đẩy Trung Quốc ra khỏi nền mậu dịch quốc tế, mà để soạn ra các qui định không có sự tham gia của Trung Quốc để rồi sau này buộc Trung Quốc phải chấp nhận chúng. Phương Tây cũng đang có những nỗ lực song song trong lãnh vực an ninh. Mỹ đang cố gắng sử dụng chiến lược xoay trục hướng về châu Á để củng cố những quan hệ lâu đời với nhiều nước chung quanh Trung Quốc nhằm gây cản trở cho tham vọng bá quyền quân sự của Trung Quốc ở khu vực tây Thái Bình Dương. Trong các nỗ lực can thiệp quốc tế, phương Tây đang gia tăng “việc tìm kiếm diễn đàn” [forum shopping]: hợp tác với những tổ chức khu vực, như Liên đoàn Á rập và Liên hiệp châu Phi, và dựa vào những liên minh không chính thức, như Nhóm Bạn của Syria [Friends of Syria], bất cứ khi nào chính sách ngoại giao tại LHQ bị bế tắc. Trong khi đó, Trung Quốc cũng hoạt động ráo riết không kém để qua mặt phương Tây. Trung Quốc đã thành lập các định chế an ninh của chính mình, như Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, và đã ký kết các thoả ước mậu dịch đơn phương và đa phương với nhiều nước khắp thế giới. Trung Quốc cũng thường xuyên tổ chức các hội nghị thượng đỉnh với các đối tác BRICS và đang cố gắng thành lập một ngân hàng phát triển BRICS với tiềm năng nắm giữ một danh mục cho vay lớn gấp ba lần danh mục cho vay của Ngân hàng Thế giới. [BRICS: viết tắt của Brazil, Russia, India, China, South Africa, ND]
CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỒNG ĐA PHƯƠNG
Đứng giữa các trật tự thế giới do Mỹ và Trung Quốc dẫn đầu là các cơ chế toàn cầu như Hội đồng Bảo an LHQ, Nhóm G-20, Quĩ Tiền tệ Quốc tế, và Ngân hàng Thế giới. Nhưng chúng thường gặp phải bế tắc do các bất đồng giữa những nước thành viên. Do đó, thay vì buộc các cường quốc mới nổi [emerging powers] phải thích nghi với các định chế phương Tây, hi vọng lớn nhất có thể có được từ những định chế này là chúng sẽ là nơi để các đại cường thảo luận những vấn đề đặc biệt bức thiết: chẳng hạn, cuộc tan chảy tài chính toàn cầu 2008 hay sự ngoan cố của Bắc Triều Tiên về vấn đề hạt nhân. Sự yếu kém và vô bổ của những định chế này có thể trở nên ngày một tồi tệ, vì đáng lẽ phải hợp tác để cải tổ những diễn đàn chung đã có sẵn, các cường quốc phương Tây lại cố gắng xây dựng “một thế giới phi-Trung Quốc” trong khi Trung Quốc và các nước đối tác cố gắng tạo ra cái mà một số nhà phân tích gọi là “một thế giới phi-Tây phương.” Chẳng hạn, Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư xuyên Đại Tây Dương có thể ảnh hưởng [tiêu cực] đối với WTO. Như chuyên gia kinh tế Bỉ André Sapir đã lý giải, nếu các nước chiếm gần một nửa GDP toàn cầu thành lập hệ thống giải quyết tranh chấp riêng, tách khỏi WTO, thì cái WTO một thời kiêu hãnh này “sẽ giống như một tổ chức khác có trụ sở tại Geneva, Tổ chức Lao động Quốc tế, một nơi có mặt tiền xinh đẹp trên hồ Léman mà hằng năm các vị bộ trưởng đến đọc những bài diễn văn hay ho nhưng chẳng bao giờ lấy những quyết định quan trọng.”
Thay vì coi những cơ chế đa phương toàn cầu là tối cần, các nước sẽ dựa nhiều hơn nữa vào các mạng lưới mới thành lập giữa các quốc gia có cùng mức độ thịnh vượng. Xin tạm gọi hiện tượng này là “chủ nghĩa tương đồng đa phương” [similateralism]. Một trong những hậu quả của hiện tượng này sẽ là một hình thái lưỡng cực mới và lạ thường, bên ngoài có vẻ giống Chiến tranh Lạnh chứ không còn giống như thế giới của hai thập niên qua. Những khác biệt này sẽ bao gồm một nước Mỹ mất dần thanh thế, một đối thủ khôn ngoan hơn (và thành công hơn) ngang hàng với Washington, và các nước phi liên kết hùng mạnh hơn trước. Nhưng những động lực của chính trị toàn cầu trên cơ bản cũng sẽ khác với những động lực chi phối thế giới trong năm thập kỷ sau Thế chiến II.
Một, khác với Chiến tranh Lạnh, bản chất của cuộc đua này chủ yếu sẽ là địa kinh tế [geoeconomic] hơn là địa chính trị [geopolitical], do hậu quả của những tốn kém ngày một gia tăng của việc duy trì sức mạnh quân sự.
Hai, sự cạnh tranh Mỹ-Trung có đặc tính là: hai cường quốc đã lệ thuộc vào nhau ở mức độ cao, vì sự xâm nhập lẫn nhau giữa hai nền kinh tế là rất sâu đậm. Tuy nhiên, các nhà làm chính sách của hai nước lại coi sự lệ thuộc lẫn nhau này là một mối nguy cần phải giảm bớt và quản lý, chứ không coi đó là một công thức để xây dựng những quan hệ nồng ấm. Mỹ cần Trung Quốc tiếp tục mua trái phiếu chính phủ của Mỹ, và các bang của Mỹ đang cạnh tranh ráo riết để thu hút đầu tư Trung Quốc. Nhưng Washington cũng lo lắng về sự quá lệ thuộc vào vốn Trung Quốc và lo sợ gián điệp mạng Trung Quốc. Mặt khác, Trung Quốc cần tìm một nơi an toàn để cất giữ những lượng tiền dự trữ của mình và cần đến công nghệ Mỹ để xây dựng một xã hội tri thức. Nhưng Bắc Kinh tức giận vì cho rằng chính sách gia tăng nguồn cung tiền [quantitative easing] của Cục dự trữ Liên bang Mỹ đang làm tiêu tán đống tiền của Trung Quốc và nghi ngờ rằng Washington đang hoạt động để thúc đẩy việc thay đổi thể chế tại Trung Quốc.
Ba, mặc dù nhiều nước phi liên kết cuối cùng phải chọn một chiến tuyến trong Chiến tranh Lạnh, nhưng trong những thập niên tới, những nước phi liên kết có thể khai thác sự hiện hữu của những khối quyền lực linh động hơn, không đòi hỏi nếu theo phe này phải loại bỏ phe kia. Hậu quả sẽ là một trật tự thế giới lang chạ [a promiscuous world ordwer] trong đó các nước có thể ký kết các hiệp định với cả Trung Quốc lẫn Mỹ.
Sau cùng, Bắc Kinh và Washington sẽ kình chống nhau vì địa vị toàn cầu chứ không phải vì ý thức hệ. Cho đến nay Trung Quốc vẫn còn quá yếu và ở vào thế thủ, chưa đủ sức để đưa ra một phương án thay thế cho cái trật tự thế giới tự do do Mỹ lãnh đạo, nhưng tình hình này sắp thay đổi. Trung Quốc và Mỹ sẽ sử dụng cùng một thứ từ ngữ trong việc lý giải những động lực của mình như: “trật tự,” “tính chính đáng,” “tăng trưởng kinh tế,” và “trách nhiệm.” Nhưng, như người ta thường nói, hai nước này sẽ bị chia cách bởi cùng một ngôn ngữ.
MARK LEONARD là Đồng sáng lập viên kiêm Giám đốc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại châu Âu và là Nhà nghiên cứu Chính sách công trong chương trình Bosch tại Học viện Xuyên Đại Tây dương. Ông là tác giả của hai cuốn sách gây tiếng vang và được dịch ra gần 20 thứ tiếng là Why Europe Will Run the 21st Century (2005) và What Does China Think? (2008).

Liệu rồi có vụ án chính trị nào trắng án?

Nguyễn Tường Thụy
Chia sẻ bài viết này


Cũng như Phương Uyên, cuối cùng rồi Đinh Nhật Uy cũng được trở về nhà nhưng lại bị thòng vào một cái án treo.
Phương Uyên được thả ra với cái án treo 3 năm, mức cao nhất của án treo. Mặc dù Uyên bị truy tố theo tội danh tuyên truyền chống nhà nước nhưng tìm cả bản cáo trạng dài ngoẵng vẫn không thấy họ đưa ra được hành vi nào chống Nhà nước.
Đinh Nhật Uy bị truy tố theo điều 258, tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Nhiều ý kiến cho rằng, Đinh Nhật Uy bị bắt là vì Đinh Nguyên Kha, em trai Uy. Không có Kha thì Uy sẽ không bị bắt. Họ bắt Uy để khủng bố, tác động đến tâm lý Kha và chị Nguyễn Thị Kim Liên, mẹ của Uy và Kha, buộc Kha và mẹ phải nhượng bộ, hợp tác, nhận tội.
Trong bản kết luận điều tra cơ quan điều tra đã đưa ra những hành vi rất vớ vẩn, thậm chí vô lý và nực cười để ghép Uy vào tội “xâm phạm lợi ích…” (mời xem lại Thấy gì qua bản kết luận điều tra vụ án Đinh Nhật Uy)
Đến bản cáo trạng, họ đã lược bớt đi một số chi tiết nực cười, bôi bác đó nhưng cũng chẳng cho thiên hạ thấy được Uy đã xâm phạm lợi ích của tổ chức cá nhân như thế nào.
Việt truy tố Uy theo điều 258 vô lý đến mức, có rất nhiều người tự nhận “tội” của mình nặng hơn Uy gấp nhiều lần. Chị Liên cho rằng, tiếp theo con chị là Đinh Nhật Uy thì người bị bắt tiếp theo sẽ là chị vì chị “cũng lập lại như cháu Uy đã từng làm với em nó (lên tiếng kêu gọi bảo vệ Đinh Nguyên Kha).
Chị nói về việc cơ quan tư pháp kết tội con chị như sau:
Cháu Uy chê trách mạng internet của Viettel và VNPT lấy tiền mà không [đáp ứng dịch vụ cho tốt]. Tôi nghĩ, đây là chuyện khách hàng, chuyện giữa [nhà cung cấp dịch vụ] không làm đúng theo hợp đồng đã ký kết thì khách hàng có quyền chê và phản ánh [nhà cung cấp dịch vụ] là chuyện bình thường. Trong bản cáo trạng, tôi không thấy Viettel và VNPT đưa ra một bằng chứng nào cho thấy họ bị mất khách hàng, mất quyền lợi, [mất doanh thu]… Bản cáo trạng như thế là phi lý và phi hiến. Tiếp đến, cháu Uy nói trên facebook là ở gần nhà cháu Uy có bà vào đảng viên nhưng không bao giờ thấy bà ấy giúp người nghèo. Làm đảng viên như thế thì chỉ ô danh chức đảng viên. Nhưng VKS lại cáo buộc và chụp mũ cháu Uy là nói xấu đảng nhưng thực chất cháu Uy chỉ nói cách sống của bà hàng xóm đã làm ô danh đảng. Kế tiếp, đài Long An phát tin tức là công an đã phá được vụ án của Nguyên Kha và Phương Uyên nên tết mỗi người được thưởng 10 triệu đồng. Thấy thế cháu Uy mới viết trên facebook là các anh công an có tiền thưởng để ăn tết thì các anh nên trích tiền đó ra để phụ đi thăm nuôi Nguyên Kha và Phương Uyên đang ở trong tù vì hai đứa nó đang khổ sở, không có cái gì ăn. Ấy thế mà họ cũng quy chụp và cho rằng cháu Uy nói xấu công an Long An và nói riêng an ninh Long An.
(Chị Liên trả lời truyền thông Dòng Chú cứu thế)
Qua chuyện chị Liên kể, ta thấy nó bi hài đến mức khó tin.
Nói thế để thấy rõ hơn việc người ta cố tình ghép tội Đinh Nhật Uy như thế nào.
Dù thả Uy ra, nhưng phạt Uy 15 tháng tù treo nghĩa là Uy vẫn có tội. Phải chăng, ý kiến cho rằng “cứ mang ra tòa là có tội” là một nhận xét đúng với các vụ án chính trị hiện nay.
Dù có tội hay không, họ vẫn phải kết cho bị cáo một cái án nào đó, dù nhẹ. Chẳng lẽ, tuyên trắng án, hóa ra ngành tư pháp sai, điều này đối với họ là không thể chấp nhận được. Rồi tuyên trắng án thì bồi thường cho người ta thế nào đây. Không phải vì không có tiền bồi thường mà nó có một điều gì đó như làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của ngành tư pháp. Nhưng theo tôi, nếu bị cáo không có tội thì tuyên trắng án, sai thì sửa chữa, bồi thường, điều đó chỉ làm tăng uy tín cho ngành tư pháp mà thôi.
Trong lịch sử, đã có những vụ án chính trị được tuyên trắng án, đó là Đi-mi-tơ-rốp được trắng án phiên tòa Leipzig hoặc Tống Văn Sơ (một biệt danh khác của Nguyễn Ái Quốc) không bị tuyên phạt bất kỳ tội danh nào sau 9 phiên tòa kéo dài đến 4 tháng. Có thể kể thêm Phi đen Caxtơro tuy bị kết án 15 năm tù nhưng cũng chỉ 1 năm sau được thả ra.
Nhưng, trớ trêu thay, đó lại là tòa án của phát xít, đế quốc xử những người cộng sản. Còn ở đây là những người cộng sản xử những công dân dám cất lên tiếng nói đấu tranh.
Hiện nay, nhiều người vô tội vẫn bị kết án, thậm chí án rất nặng. Muốn có những bản án tuyên bị cáo vô tội trong các vụ án chính trị, trước hết, ngành tư pháp cần phải có một sự độc lập trong việc xét xử, không bị áp lực từ phía Đảng hay chính quyền. Ngoài ra, những người xét xử cần phải có trình độ về pháp luật, có lương tâm… Nhưng nói ra những điều này trong tình hình chính trị hiện nay cũng chỉ là nói lên sự kỳ vọng, chứ đòi hỏi lúc này thì xa xỉ lắm thay.
31/10/2013
NTT

Khổ nỗi danh xưng

Chia sẻ bài viết này

Khoảng năm 1985, khi nhà văn Ðỗ Tấn bị bạo bệnh qua đời tại Sài Gòn, tôi là người có nhiệm vụ đi đăng cáo phó cho anh. Lúc bấy giờ trong thành phố đã đổi tên chỉ có một tờ nhật báo của chế độ mới, đó là tờ “Sài Gòn Giải Phóng.” Sau khi xem qua bản cáo phó viết tay của tôi mang đến, chắc là thấy cái tên người chết có vẻ lạ, nhân viên tòa báo trả lại tờ giấy cho tôi và nói:
-Ông này có ở trong Hội Nhà Văn không và nếu có, cho tôi xem giấy chứng nhận, tôi mới đăng được!

(Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
Tôi đành mang tờ cáo phó ra về. Trong chế độ này tất cả những thứ như nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, nhà giáo nhân dân, thậm chí là anh hùng cũng phải được “Nhà Nước” phong tặng, có văn bản đàng hoàng, nói chung là Ðảng và nhà nước giành quyền ấn định danh xưng cho nhân dân.
Trong chế độ này, muốn trở thành nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ phải mang giấy chứng nhận có con dấu của đảng, duy chỉ có một cái giấy chứng nhận cần thiết không nghe ai nói đến là giấy chứng nhận làm người.
Chẳng bù với đời sống ở hải ngoại này, ai muốn có danh xưng nào tùy thích chọn lựa, không hề bị ai hạch hỏi. Một người không biết nói, biết hát, biết đàn, biết vẽ, biết làm thơ viết văn... có thể tự nhận mình là... nghệ sĩ.
Có lần, tôi được giới thiệu với một vị cao niên tình cờ gặp trong quán cà phê, vị này nhoài mình về phía tôi và đưa tay bắt, tự giới thiệu:
- Tôi là nhà thơ XYZ.
Ở trong cái thành phố nhỏ “đi dăm phút đã về chốn cũ,” bằng cái lỗ mũi này cái tên nhà thơ này thật tình tôi chưa hề nghe. Nghe nói năm ngoái ông có in một tập thơ, tôi nghĩ như vậy tác phẩm, ở hải ngoại này có thể thay giấy chứng nhận của đảng. Ông cũng có tên trong tác phẩm thi ca “1,000 thi sĩ ở Hoa Kỳ” mà mỗi thi sĩ tự đóng tiền, góp ấn phí, để đem về 50 tập thơ bằng tiếng Anh tặng cho bạn bè.
Trong các loại danh xưng, bác sĩ được xếp loại cao nhất, vì vậy không ai thích gọi mình là dược sĩ, nha sĩ mà muốn gọi là bác sĩ nha khoa, bác sĩ dược khoa, bác sĩ y khoa, thậm chí ngành “Vision Optometry” hay Optician (chuyên viên quang học - đo mắt và cho độ làm kính) cũng được gọi là bác sĩ mắt thay vì Ophthalmologist mới được gọi là bác sĩ nhãn khoa có thể chữa hay giải phẫu các bệnh về mắt.
Danh xưng bác sĩ phải ghi trước tên là Dr. và sau là MD như “Dr. Trần Văn A, MD.” cũng như trong trường hợp “Bác Sĩ Nguyễn Văn B, MD.”
Nhiều vị bác sĩ dùng tước vị như là một danh xưng ở ngôi thứ nhất. Trong nhiều chương trình quảng cáo cho các phòng mạch y khoa hay sản phụ khoa, chúng ta thường nghe nhiều vị bác sĩ thường dùng tiếng “Bác Sĩ” thay cho tiếng “Tôi” ở ngôi thứ nhất số ít như “Bác sĩ nói cho em nghe... Bác sĩ khuyên bà nên dùng...” Gọi bệnh nhân gọi vào chương trình hội thoại bằng “em” đã khó nghe, dùng danh xưng bác sĩ thay cho “tôi” hay “chúng tôi” là điều chỉ thấy trong cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại.
Trong các tiệm ăn ở gần các bệnh viện, thỉnh thoảng chúng ta thấy nhiều vị bác sĩ, y tá, hoặc nhân viên y tế, mặc đồng phục của bệnh viện ra ăn trưa, nhiều vị bác sĩ còn mang cả ống nghe trên cổ, nghề y quả bận rộn, vất vả!
Danh xưng giáo sư nhiều người cho rằng chỉ dùng cho giáo sư đại học, nhưng thời VNCH, dạy trung học đã được gọi là giáo sư, vì có ngạch trật là giáo sư trung học. Hiện nay người ta dùng danh xưng giáo sư quá nhiều, nên rất khó phân biệt là giáo sư trung học (có bằng Tú Tài II, tốt nghiệp Cao Ðẳng Sư Phạm Hà Nội, Ðại Học Sư Phạm 3 năm, hay ÐHSP Cấp Tốc 1 năm hay GS Ðại học có bằng thạc sĩ, tiến sĩ trở lên, có vài ngành chỉ cần có cử nhân.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, có nhiều nghề được quý trọng và nhân gian thường gọi bằng thầy như thầy địa, thầy bói, thầy tử vi, thầy bói dịch, thầy tu, thầy tụng, thầy cúng, thầy chùa, thầy dùi, thầy dạy nhảy... nhưng nếu diễn nghĩa chữ “thầy” ra “giáo sư” như một vài trường hợp chúng ta thường gặp trên báo chí như giáo sư khiêu vũ, giáo sư phong thủy, giáo sư cố vấn, giáo sư bói toán nghe khá chướng tai.
Trong các chương trình talk show trên TV, chúng ta thường thấy các danh xưng có vẻ kiêm nhiệm: “giáo sư-nhà văn.” Hai danh xưng này cái gì quý hay lớn hơn cái kia. Nếu chỉ là một chương trình hội thoại về văn chương, thì nghề giáo sư dạy toán ở trung học không cần thiết phải đưa lên màn ảnh TV hay nhờ xướng ngôn viên giới thiệu về mình. Một bài biên khảo về y học được ký dưới tên một bác sĩ là đúng, nhưng một bài thơ hay một truyện ngắn, mà tác giả cố đem vào trước tên mình cái danh xưng giáo sư hay bác sĩ là không cần thiết.
Danh từ Viện trong tiếng Hán Viện dùng để chỉ một nơi có tường thành bao bọc như tu viện, viện Hán Học, kỹ viện, nhưng ngày nay người ta lạm dụng tiếng viện dành cho một tiệm uốn tóc chỉ có vài ba người thợ, gọi là thẩm mỹ viện hay viện uốn tóc thật không ổn. Mong rằng rồi đây sẽ không bao giờ có những viện sửa xe hơi, viện dry clean, viện food to go... ra đời.
Về các cấp bậc trong quân đội trước năm 1975 ở miền Nam, nhiều câu nói khôi hài cho rằng, chúng ta tan hàng nhưng phòng thăng thưởng nhân viên là vẫn còn tồn tại. Bằng chứng là nhiều vị vào lúc tan hàng chỉ mang cấp bậc đại úy, nay ra hải ngoại không còn quân đội đã 38 năm mà nay được gọi là thiếu tá. Nhiều người chỉ có cấp bậc trung tá ngày trước, được thuộc cấp hay bạn bè nịnh hót gọi đại tá, lâu ngày nghe quen tai, thay vì một lời cải chính, thì lại “im lặng là nhận lời,” đôi khi tưởng mình là đại tá thật.
Nhiều vị lại quá “khiêm nhường” chỉ mới đại úy nhưng cho mình xứng đang mang cấp bậc thiếu tá trong các buổi lễ hay tự xưng, với lý do cùng giống nhau là đã có giấy tờ (ai chứng minh) vào những ngày cuối tháng 4-1975 nhưng “chưa kịp gắn lon,” cho nên bây giờ tôi “khiêm tốn” tự gắn cấp bậc mới cho mình.
Ðó là chưa nói đến chuyện nhiều vị vẫn thích mặc đồng phục, mang cấp bậc thiếu tướng, đại tá của một đơn vị không có trong tổ chức của Quân Ðội Mỹ cũng như Quân Ðội VNCH, kể cả gắn sao lên xe hơi của mình. Ðây thật sự là xứ tự do!
Dù là một Phật Tử, thú nhận tôi cũng chưa rành về các danh xưng của quý thầy, nên hồi ở TTHL Quang trung, tôi bị ông Thượg Tọa Trưởng Phòng Tuyên Úy Phật Giáo “cự” vì nhân viên biên tập đã ghi nhầm danh vị của ông là Ðại Ðức thay vì đúng là Thượng Tọa. Cách đây gần 10 năm, khi viết loạt bài “Chân Dung Một H.O.” cũng vì tưởng lầm Thượng Tọa là danh vị cao nhất (ngồi trên) tôi đã bị Hòa Thượng Hạnh Ðạo “mắng yêu:” - “Ông Huy Phương, ông hạ chức của Thầy rồi!”
Nhiều danh xưng thiếu tự trọng và thiếu đức khiêm cung mà chúng ta vẫn thường nghe quảng cáo như “Ðệ Nhất MC,” hay “Lương Y Nguyễn Văn X., chuyên chẩn bệnh, bốc thuốc”... Người đi hát có thể gọi là ca sĩ, nhưng không thể tùy tiện nhận mình là danh ca.
Ở tiệm bán đồ lưu niệm và khắc chữ “Things Remembered” công khắc phải đếm, tính từng chữ một.
Ở bia mộ khi chúng ta qua đời, cũng vậy!

Đã đến lúc tuyên bố khai tử điều 258 Bộ Luật Hình Sự

Lê Thu Hà
Chia sẻ bài viết này


Sáng ngày 29/10/2013, tại Tòa án Nhân dân tỉnh Long An đã diễn ra môt vụ án đặc biệt - xét xử người sử dụng mạng xã hội Facebook đầu tiên trên thế giới - Facebooker Đinh Nhật Uy - với bản án là 1 năm 3 tháng tù treo và 1 năm thử thách.
Liền sau đó, tối ngày 30/10/2013, Blogger Nguyễn Lân Thắng, một nhà hoạt động tích cực cho quyền con người và tự do ngôn luận tại Việt Nam, đã bị tạm giữ tại cửa khẩu sân bay Nội Bài sau khi trở về Việt Nam từ Bangkok trên chuyến bay mang số hiệu VN612, hạ cánh lúc 20:15. Blogger Nguyễn Lân Thắng vừa có một chuyến đi ra nước ngoài khoảng ba tháng. Trong thời gian đó anh có tiếp xúc với Văn phòng Cao Ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Bangkok, và tham dự một số Hội nghị Quốc tế về Nhân quyền ở Châu Âu để thúc đẩy cho Tuyên bố 258 kêu gọi Chính phủ Việt Nam xóa bỏ Điều 258 Bộ Luật Hình sự, vốn gần đây được chính quyền Việt Nam dùng để bắt giữ một số blogger bất đồng chính kiến.
Như vậy, cả hai blogger Đinh Nhật Uy và Nguyễn Lân Thắng đều đã bị chính quyền bắt bớ, xét xử, tạm giữ với những lý do liên quan đến Điều 258 của BLHS, nhưng hãy xem xét hành vi "phạm tội" cũng như tính chất "nghiêm trọng" của việc "xâm phạm" đến lợi ích nhà nước nhìn từ vụ án của Nhật Uy và việc tạm giữ Nguyễn Lân Thắng dưới góc độ pháp lý đã diễn ra như thế nào.
Theo bản cáo trạng, chính quyền đã cáo buộc Nhật Uy tội danh "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, sử dụng Facebook để làm ra những bài viết, thông tin xấu, sai sự thật đối với Nhà nước, tổ chức và công dân". Nhưng xem xét lại các status có liên quan của Uy được cho là đã phạm vào những tội danh như trên, thì đó chỉ là những stt được ghi lại khá đơn giản, sơ sài. So với hàng ngàn chỉ trích đối với những sai trái của chính phủ thì những gì Uy đã đề cập không thể được xem là "xâm hại" đến lợi ích nhà nước, và cả những cáo buộc vô căn cứ khi kết tội Uy "xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân" trong khi các tổ chức, công dân (Viettel, VNPT và bà Thâm) được cho là đối tượng bị xâm hại đã nêu trong phiên tòa rằng họ không hề làm đơn tố giác tội phạm hay yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại như trong cáo trạng. Hơn nữa, vụ án đã cho thấy chính quyền vi phạm nghiêm trọng đến quyền tự căn bản của người dân đó là quyền được bày tỏ ý kiến - đi ngược lại với Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền mà họ đã cam kết thực hiện.
Trong khi đó, xét về mức độ "nguy hiểm" mà blogger Nguyễn Lân Thắng đã rất nhiều lần bày tỏ quan điểm không đồng tình, chỉ trích thẳng thắn những sai lầm của chính phủ thì mức độ "phạm tội" "xâm hại lợi ích" Nhà nước của Nguyễn Lân Thắng chắc chắn phải nghiêm trọng hơn Đinh Nhật Uy gấp ngàn lần. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là, khi chính quyền sử dụng Điều 258 của BLHS để cáo buộc tội danh đối với Đinh Nhật Uy, bắt giam anh trong vòng 4 tháng và tuyên án 1 năm 3 tháng tù treo, thì với Nguyễn Lân Thắng, người đích thân mang bản Tuyên bố 258 đến các tổ chức nhân quyền quốc tế trên thế giới để chỉ rõ thực trạng vi phạm nhân quyền ở VN nhằm thúc đẩy việc chính quyền VN xóa bỏ Điều luật này, thì sau thời gian câu lưu chưa đến một ngày, anh lại được thả tự do hoàn toàn. Vậy thì rõ ràng, có một sự hành xử về mặt pháp lý vô cùng tùy tiện, vô căn cứ của chính quyền Việt Nam ngay trong vấn đề xét xử bình đẳng trước mọi công dân khi cùng vi phạm một vấn đề, một điều luật. Vì đơn giản, chính quyền thừa hiểu nếu họ bắt giữ một nhà hoạt động đã từng tiếp xúc, làm việc với các cơ quan nhân quyền quốc tế, nghĩa là họ tuyên chiến với các cơ quan này, và đồng thời cáo buộc các cơ quan này đã phạm tội. Chỉ riêng việc ko dám bắt giam blogger Nguyễn Lân Thắng, đó đã là một minh chứng hùng hồn, không thể chối cãi cho việc chính quyền Việt Nam. đã vi phạm nhân quyền trầm trọng khi không thể cáo buộc công dân đi đấu tố quốc gia. Theo logic này, việc đưa ra một bản án phi lý đối với Đinh Nhật Uy lại càng là minh chứng tố cáo mạnh mẽ hơn nữa sự hành pháp bữa bãi trong việc "phân biệt" đối xử giữa các công dân của chính quyền Việt Nam.
Vậy thì còn chần chừ gì nữa, đã đến lúc chúng ta tuyên bố khai tử cho Điều 258 của Bộ luật hình sự đi thôi!!!