Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

Cách Mạng Tháng 8, nội chiến, và nội chiến cộng sản

Nguyễn Gia Kiểng
Chia sẻ bài viết này


Sòng phẳng với quá khứ là điều kiện cần thiết để hòa giải dân tộc và xây dựng tương lai. Đó cũng là thái độ phải có để rút ngắn lộ trình dân chủ hóa.
Chúng ta lại kỷ niệm Cách Mạng Tháng 8-1945 và Quốc Khánh 2 tháng 9 một lần nữa. Dù 68 năm đã trôi qua nhưng nhận định những biến cố sôi động trong giai đoạn này vẫn còn là điều chia rẽ người Việt Nam một cách trầm trọng.
Cách Mạng Tháng 8 có cần thiết và vinh quang thực không?
Đối với nhiều người sự cần thiết và vinh quang của Cách Mạng Tháng 8 và quốc khánh 2-9 không thể chối cãi. Đó đã là những ngày mà dân tộc Việt Nam vùng dậy vất bỏ ách ngoại thuộc, mở ra một kỷ nguyên độc lập mới và xác nhận trước thế giới văn minh rằng dân tộc Việt Nam cũng có quyền có chỗ đứng ngang hàng với mọi dân tộc khác. Tuy vậy đối với một số người ngày càng đông đảo Cách Mạng Tháng 8 thực ra không cần thiết nếu quả nhiên độc lập là mục tiêu duy nhất. Họ lý luận rằng chủ nghĩa thực dân đã chết sau Thế Chiến II và độc lập tự nhiên phải đến sau dù có hay không có Cách Mạng Tháng 8 bởi vì đó là khuynh hướng tất yếu, cũng như mặt trời phải mọc lên vì trái đất đã xoay dù con gà có gáy hay không. Bằng cớ là tất cả mọi quốc gia muốn độc lập, kể cả tại Châu Phi Da Đen, đều đã có độc lập và hơn thế nữa trong đa số các trường hợp còn giành được độc lập trước và ít tốn kém hơn chúng ta. Nhiều người cũng không nhìn ngày 2-9 như ngày quốc khánh, hiểu theo nghĩa một ngày lễ tưng bừng và hân hoan của dân tộc. Đối với họ ngày 2-9-1945 đã chỉ khai sinh ra một nhà nước cộng sản và mở đầu cho một giai đoạn nội chiến kéo dài và thực ra vẫn chưa chấm dứt sau ngày 30-4-1975.
Một cách bình tĩnh, ta phải nhận định rằng độc lập dân tộc là điều không thể nhân nhượng và cần được đánh đấu một cách thực mạnh mẽ và long trọng sau gần một thế kỷ ngoại thuộc. Đó là một vấn đề danh dự dân tộc. Cách Mạng Tháng 8 phải có và đảng cộng sản cũng có lý khi nói rằng đó là công lao của họ. Họ là tổ chức chính trị duy nhất có thực lực vào thời điểm đó sau khi đã chiến đấu kiên cường trong suốt giai đoạn Thế Chiến II và đã trả giá rất cao. Điều này phải được nhìn nhận. Ngày 19-8-1945 và ngày 2-9-1945 chắc chắn phải được ghi nhận như những ngày lịch sử lớn.
Nhưng điều còn chắc chắn hơn là Cách Mạng Tháng 8, theo cách mà nó đã diễn ra, đã mở đầu cho một chuỗi thảm kịch dài tàn phá đất nước ta và đã khiến chúng ta tụt hậu bi đát như ngày nay. Trong tiệc chiêu đãi tại bộ ngoại giao Hoa Kỳ ngày 25-7 vừa qua ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nói: "Sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, từ một nước kém phát triển Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước có thu nhập trung bình". Sai lầm lố bịch. Thu nhập bình quân hàng năm trên mỗi đầu người trên thế giới hiện nay là sấp sỉ 10.000 USD, thu nhập của một người Việt Nam là 1200 USD, chỉ bằng 12% mức trung bình thế giới. Các nhà lãnh đạo cộng sản vẫn chưa hiểu rằng chúng ta nghèo khổ và tụt hậu một cách vô cùng bi đát, và nguyên nhân chính là những cuộc chiến mà họ lấy làm hãnh diện và bắt đất nước phải biết ơn.
Vào thời điểm 1945, Cao Ly và Việt Nam ở mức độ phát triển tương tự, Việt Nam còn có phần khá hơn. Cả hai nước đều đã bị ngoại thuộc nhưng ách thống trị của người Nhật còn tàn bạo gấp bội ách đô hộ của người Pháp. Ngày nay GDP (tổng sản lượng nội địa) của 90 triệu người Việt Nam chưa bằng 1/10 GDP của Hàn Quốc (Nam Cao Ly) với 50 triêu dân. GDP của Việt Nam chỉ bằng một nửa doanh thu của công ty Samsung. Phải nhìn nhận rằng từ lâu người Cao Ly đã phát triển hơn xa chúng ta về nhiều mặt nhưng gần một thế kỷ Pháp thuộc và tiếp xúc trực tiếp với phương Tây cũng đã giúp chúng ta rút ngắn khoảng cách một cách đáng kể; nếu không có Cách Mạng Tháng 8 và những hậu quả của nó thì ngày nay chúng ta cũng có thể gần bằng Hàn Quốc, nghĩa là có mức sống cao gấp 20 lần hay ít nhất 15 lần hiện nay.
Vậy thì cái gì đã sai trong Cách Mạng Tháng 8?
Phải trả lời thật dứt khoát: nội chiến. Cả hai cuộc chiến gọi là "chống Pháp" và "chống Mỹ" đều là những cuộc nội chiến. Khi người trong một nước giết nhau trên một qui mô lớn và trong một thời gian dài thì đó là nội chiến, dù có hay không có sự can thiệp từ bên ngoài. Vả lại số người Pháp và người Mỹ thiệt mạng trong hai cuộc chiến này chỉ là những tỷ lệ không đáng kể so với số tử vong của người Việt. Cả hai cuộc nội chiến này đều phải bị lên án.
Nội chiến hủy diệt các quốc gia. Khi người ta có thể giết những người đồng bào mà mình không hề quen biết, dù vì bất cứ lý do nào, là người ta không còn coi tình đồng bào ra gì nữa. Tình cảm dân tộc tan biến trong một cuộc nội chiến. Và người Việt Nam đã giết nhau không phải trong vài tháng hay vài năm mà trong gần ba mươi năm. Sư kiện người ta nhân danh một lý tưởng, dù là lý tưởng cộng sản hay một lý tưởng nào khác, để biện minh cho cuộc nội chiến không biện minh gì cả mà chỉ khiến tác dụng phá hủy quốc gia của cuộc nội chiến trở thành dữ dội và toàn diện hơn bởi nó vì đánh vào chính nền tảng của quốc gia. Quốc gia là gì nếu không phải là một dự án tương lai chung? Lãnh thổ, lịch sử, chủng tộc v.v. xét cho cùng đều chỉ là thứ yếu bởi vì những người vừa nhập tịch cũng có thể là những công dân, thậm chí những cấp lãnh đạo, gương mẫu. Quốc gia trước hết là sự chấp nhận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung. Khi nhân danh một lý tưởng để phát động hoặc tham gia một cuộc nội chiến là người ta không còn chấp nhận chia sẻ một tương lai chung nữa, không những không chấp nhận nhau mà còn giết nhau.
Đảng Cộng Sản Việt Nam không thể nhân danh chính nghĩa nào để nói rằng hai cuộc chiến trong giai đoạn 1945-1975 không phải là những cuộc nội chiến. Khi có những người vì bất cứ lý do gì không muốn chủ nghĩa cộng sản thì họ vẫn phải được tôn trọng vì một lý do giản dị là họ cũng là những người Việt Nam. Và số người này đông đảo hơn hẳn những người muốn chủ nghĩa cộng sản. Năm 1954 đã có một triệu người di cư vào miền Nam, số người di cư còn có thể lớn gấp nhiều lần nếu không bị cấm cản; ngược lại đã có bao nhiêu người tập kết ra Bắc? Sau ngày 30-4-1975 cũng đã có hơn hai triệu người bỏ nước ra đi. Nếu cần tranh luận xem giữa những người theo và những người chống lại chủ nghĩa cộng sản ai có lý hơn ai thì ngày này câu trả lời đã rõ ràng. Nhưng vấn đề không phải là ai có lý hơn ai, vấn đề là nếu tình thần dân tộc còn một nội dung nào đó thì mọi xung đột quan điểm phải được giải quyết bằng thảo luận và thoả hiệp chứ không phải bằng cách giết nhau. Trong hai cuộc nội chiến này dĩ nhiên đã có sự can thiệp từ bên ngoài. Đó là điều không tránh khỏi trong bối cảnh chiến tranh lạnh, nhưng không phải chỉ có phe quốc gia dựa vào nước ngoài, phe cộng sản cũng đã nhận viện trợ ào ạt từ "các nước xã hội chủ nghĩa anh em", nhất là Liên Xô và Trung Quốc, và cũng đã có hàng trăm ngàn quân Trung Quốc được gửi sang Việt Nam như sau này người ta được biết. Cuối cùng thì phe cộng sản đã thắng bởi vì Liên Xô tiếp tục tận tình giúp miền Bắc trong khi Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam. Đó là một cuộc nội chiến đích thực trong bối cảnh chiến tranh lạnh. Ngày 27-01-2013 vừa qua, nhân kỷ niệm 40 năm hiệp định Paris, báo Tuần Việt Nam đã phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên ủy viên bộ chính trị và phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao. Ông Cầm đã nhắc lại như sau: "cố tổng bí thư Lê Duẩn có lần đã giải thích một cách đơn giản: Ta đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô !". Lý do khiến đảng cộng sản không nhìn nhận đây là những cuộc nội chiến (mà là những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm) chỉ là vì họ không muốn thỏa hiệp với những người Việt Nam khác, họ muốn nội chiến đến cùng.
Nội chiến tai hại hơn nhiều so với chiến tranh chống lại một quốc gia khác
Mọi quốc gia đều rất khó gượng dậy sau một cuộc nội chiến. Nước Pháp vẫn chưa phục hồi sau cuộc Cách Mạng 1789 và giai đoạn nội chiến kế tiếp. Trước 1789 Pháp là cường quốc mạnh nhất và tiến bộ nhất thế giới trên gần như mọi mặt, những chia rẽ vì phân tranh đã làm Pháp liên tục yếu đi. Ngày nay dù với vị trí rất thuận lợi, lãnh thổ rộng lớn và phì nhiêu, văn hóa cao và phong phú, khoa học kỹ thuật hiện đại hàng đầu, Pháp vẫn không vươn lên được và ngày càng bị nhiều nước qua mặt vì đồng thuận dân tộc không đủ mạnh. Dịp kỷ niệm 200 năm Cách Mạng 1789 đã chỉ cho thấy người Pháp vẫn chưa hòa giải được với nhau. Nước Nga vẫn chưa hồi phục và có lẽ sẽ không bao giờ hồi phục được hoàn toàn sau những thương tích của Cách Mạng Tháng 10 và cuộc nội chiến sau đó. Espana suy sụp và không gượng dậy được sau cuộc nội chiến 1936-1939. Hoa Kỳ cũng đã mất hơn một thế kỷ mới tạm hàn gắn được những vết thương của cuộc nội chiến 1861-1865 dù ngay sau đó đã dồn mọi cố gắng để thực hiện hòa giải dân tộc một cách quả quyết và thành thực. Ngược lại Đức và Nhật đã phục hồi một cách nhanh chóng sau khi bị chiến tranh tàn phá toàn diện bởi vì đó là những cuộc chiến với nước ngoài chứ không phải là những cuộc nội chiến. Những cuộc nội chiến không chỉ gây đổ vỡ vật chất và thiệt hại nhân mạng, chúng còn gây những tổn thất lớn hơn và dai dẳng hơn về tình cảm. Chúng hủy diệt tinh thần dân tộc và đồng thuận sống chung. Một quốc gia không bao giờ có thể hoàn toàn hồi phục sau một cuộc nội chiến.
Chúng ta đã trải qua ba mươi năm nội chiến và tổn hại nhiều lắm, nhiều lắm. Nhưng hình như chúng ta chưa ý thức được sự tàn phá ghê gớm của nội chiến cho nên cho tới một ngày gần đây nhiều người vẫn chưa thấy sự cần thiết và cấp bách của cố gắng hòa giải dân tộc, thậm chí nhiều người còn viện dẫn mọi lý do để chống lại. Nhưng một dân tộc sau một cuộc nội chiến chỉ có hai chọn lựa, một là hòa giải với nhau để đất nước tiếp tục, hai là không hoà giải và chấp nhận tan vỡ. Nếu những người chống hòa giải dân tộc bình tĩnh rà soát tâm tư của chính mình họ sẽ nhận ra là họ không yêu nước, hoặc chỉ yêu nước một cách rất tương đối.
Vì sao chúng ta đã lâm vào nội chiến ?
Có lẽ ít ai phủ nhận rằng chủ nghĩa cộng sản đã là nguyên nhân đưa đến xung đột và nội chiến. Điều cần phải giải tỏa là một số người vẫn cho rằng nếu những người không muốn chủ nghĩa cộng sản khuất phục thay vì chống lại đảng cộng sản thì nội chiến đã không xảy ra. Đây là một đòi hỏi vô lý, nhưng điều cần ý thức thật rõ rệt là ngay cả nếu nó được thỏa mãn, nghĩa là những người không cộng sản khuất phục hoàn toàn, thì nội chiến cũng vẫn không tránh khỏi. Lý do là vì nội chiến nằm trong bản chất của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản là đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp không gì khác hơn là nội chiến bởi vì được thực hiện bằng bạo lực. Sự phủ nhận quốc gia là một trong những thành tố nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngay trước Cách Mạng 1917, Lenin đã khẳng định: "Ai chấp nhận đấu tranh giai cấp thì cũng phải chấp nhận nội chiến vì nội chiến là sự tiếp nối, phát triển và tăng cường tự nhiên của đấu tranh giai cấp". Câu nói này sẽ còn được Lenin và các đồng chí của ông nhắc lại rất nhiều lần. Sau khi đã nắm được chính quyền Lenin dõng dạc tuyên bố: "Đúng, bọn tiểu tư sản đã chiến đấu bên cạnh chúng ta, nhưng bây giờ đường ai nấy đi, đã đến lúc phải chiến đấu một cách không nể nang không thương hại chống lại bọn chúng". Nhưng chiến đấu thế nào khi Đảng Công Sản Xô Viết đã cầm quyền và những người tiểu tư sản hoàn toàn không có tổ chức và vũ khí ? Dzerjinski, trùm công an và phụ tá đắc lực của Lenin, trả lời: "Không có gì hiệu lực bằng một viên đạn vào đầu để khiến một người phải im lặng". Chính sách khủng bố này đã đặt những người không cộng sản trước tình thế không chống lại cũng chết và đưa dến cuộc nội chiến không cân xứng 1918-1920 làm Trotski reo mừng: "Đảng ta chủ trương nội chiến, nội chiến muôn năm!". Tại nước ta, sau năm 1954 những người địa chủ tiểu tư sản miền Bắc đã hoàn toàn khuất phục nhưng dầu vậy vẫn có tàn sát trong đợt Cải Cách Ruộng Đất. Đó cũng là một cuộc nội chiến, dù là nội chiến một chiều.
Chúng ta không phải chỉ lâm vào nội chiến, chúng ta còn lâm vào nội chiến cộng sản
Nội chiến cộng sản khác nội chiến thường ở chỗ nó toàn điện và tuyệt đối. Quốc gia không chỉ bị coi thường mà còn bị phủ nhận. Đối thủ không chỉ bị giết mà còn bị căm thù, mạt sát và nhục mạ, bị chối bỏ cả tư cách đồng bào lẫn tư cách con người, để không còn tư cách thỏa hiệp, để có thể bị giết một cách thản nhiên hơn. Đó cũng là cuộc nội chiến trong đó cứu cánh biện minh cho mọi phương tiện bởi vì như cả Marx lẫn Lenin đều nói "chính quyền cách mạng" không bị ràng buộc bởi bất cứ luật pháp nào và các giá trị đạo đức đều vô nghĩa.
Chúng ta lâm vào nội chiến và nội chiến cộng sản. Phong trào cộng sản đã là thảm kịch cho nhiều dân tộc, nhưng có lẽ không dân tộc nào tan nát vì nó hơn chúng ta. Sự du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin đã là một tai họa lớn nhất cho nước ta trong suốt dòng lịch sử. Nó tàn phá đất nước và con người Việt Nam hơn chúng ta tưởng. Đảng Công Sản Việt Nam phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Và người có trách nhiệm lớn nhất là ông Hồ Chí Minh. Chính ông đã du nhập chủ nghĩa Mác–Lenin vào Việt Nam. Chính ông, người có toàn quyền vào thời điểm Cách Mạng Tháng 8 và nhiều năm sau đó, đã góp phần quyết định nhất đưa đất nước vào nội chiến. Trong lịch sử Việt Nam không ai gây thiệt hại cho đất nước bằng ông.
Chúng ta đều muốn quên đi những trang sử đau buồn của dân tộc để hòa giải với nhau và cùng hướng về tương lai, nhưng khi, như trong dịp kỷ niệm này, đảng cộng sản huênh hoang kể công và tâng bốc ông Hồ Chí Minh như một con người vĩ đại, một tấm gương đạo đức và một ân nhân cho cả dân tộc thì bi kịch của đất nước và ký ức của hàng triệu nạn nhân buộc chúng ta phải sòng phằng. Sòng phẳng với quá khứ là điều kiện cần thiết để hòa giải dân tộc và xây dựng tương lai. Đó cũng là thái độ phải có để rút ngắn lộ trình dân chủ hóa vì chế độ cộng sản đang cố dựa trên vinh quang giả tạo của Cách Mạng Tháng 8 và thần tượng Hồ Chí Minh để kéo dài thêm thời gian thống trị.
Chỗ đứng nào cho Cách Mạng Tháng 8?
Không ai thay đổi được quá khứ. Cách Mạng Tháng 8 và Quốc Khánh 2 tháng 9 phải được giữ lại như những ngày lễ lớn. Nhưng không phải để huênh hoang và hớn hở mà để suy nghĩ và rút ra những bài học từ những câu hỏi lớn.
Thí dụ như tại sao một chủ nghĩa sai lầm đã bị vất bỏ trên quê hương của chính nó từ gần một thế kỷ rồi lại có thể làm mê cuồng một số đông đảo người Việt nam, kể cả nhiều trí thức? Nếu không phải là vì chúng ta đã thiếu một tầng lớp trí thức chính trị? Tại sao vào thời điểm 1945 đảng được hưởng ứng mạnh nhất lại là đảng kêu gọi hận thù giai cấp và theo đuổi một chủ nghĩa mà một trong những chủ trương nền tảng là xóa bỏ quốc gia? Nếu không phải là vì tinh thần dân tộc của ta thấp và nước ta đã chín muồi cho một tiếng gọi thù hận? Và nếu như thế thì tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của chúng ta là những điều cần được nâng niu, xây dựng và củng cố, hay để vận dụng và lạm dụng?

(8/2013)
Nguyễn Gia Kiểng 

Phạm Chí Dũng: Việt Nam sẽ "xoay trục" sang phương Tây?

Thụy My
Chia sẻ bài viết này




Nguyễn Phương Uyên được chào đón khi vừa ra khỏi trại giam Long An tối 16/08/2013. FB
Ngày 16/08/2013 vừa qua người ta đã chứng kiến việc Phương Uyên được trả tự do một cách hết sức bất ngờ ngay tại tòa án. Sự kiện này có thể dẫn đến vận hội mới mẻ nào cho xã hội Việt Nam?
RFI Việt ngữ đã đặt câu hỏi này với nhà báo tự do Phạm Chí Dũng ở Thành phố Hồ Chí Minh.
RFIThân chào nhà báo Phạm Chí Dũng, rất hân hạnh lại có dịp trao đổi với anh trên làn sóng của đài RFI. Thưa anh, anh nhận xét như thế nào về bất ngờ đến khó tin của phiên phúc thẩm xử Phương Uyên và Nguyên Kha vừa qua ?
Nhà báo Phạm Chí DũngNếu tôi nhớ không lầm thì từ năm 1975 đến nay mới diễn ra một sự kiện đặc biệt, quá sức đặc biệt như vụ Phương Uyên, khi một phạm nhân chính trị được trả tự do ngay tại tòa. Từ năm 1975 đến nay, có lẽ sự kiện Phương Uyên là một chứng nghiệm rõ nhất cho quy luật khoa học biện chứng lịch sử: khi chính thể mạnh, “nhập kho” tăng và “xuất kho” giảm; còn khi chính thể yếu, “nhập kho” giảm còn “xuất kho” tăng.
Việc được trả tự do ngay tại tòa của Phương Uyên là một sự kiện mang tính tín hiệu rõ nét nhất, phản ánh xu hướng “xuất kho” và chính thể Việt Nam đang khởi động cho định hướng “xoay trục”. Nếu chính sách gần gũi nhất của Hoa Kỳ là “xoay trục” về khu vực Đông Nam Á thì Nhà nước Việt Nam chuyển động theo chiều ngược lại”: hướng sang phương Tây.
Hiện tượng này lại phản ánh một quy luật khác: độ mở dân chủ tỉ lệ thuận với độ mở đối ngoại.
Còn trong nhãn quan của cộng đồng quốc tế, đúng là có một chuyện gì đó hình như đang xoay chuyển. Và nếu lạc quan hơn như giáo sư người Anh Jonathan London - người chuyên nghiên cứu về Việt Nam và có thiện chí đến mức bất ngờ với nhân dân đất nước này - thì “tình hình chính trị ở Việt Nam hiện nay đang biến động rất nhanh”. Thậm chí ông còn phóng ra một câu hỏi rất sốt ruột: “Bây giờ thì sao?”.
Tất nhiên nhiều người và nhiều giới trong nước và quốc tế đều muốn được thỏa mãn những câu hỏi thiết thân như: Sự kiện tự do của Phương Uyên hàm ý điều gì? Liệu có phản ánh một sự thay đổi lớn về chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với tù nhân lương tâm, chính sách dân chủ nương theo quan điểm đối ngoại? Sau sự kiện này liệu có thể dẫn tới những những sự kiện thả tù và cởi mở dân chủ nào khác? Hoặc, sự kiện Phương Uyên có phản ánh một tấm lòng thành thực nào đó của một hoặc một số lãnh đạo đảng và nhà nước đối với cộng đồng quốc tế và giới dân chủ trong nước? Kinh tế việt Nam có hy vọng nào được phục hồi nếu giới đấu tranh dân chủ trong nước không còn bị đưa vào các trại “phục hồi nhân phẩm”?...
RFINgay sau khi Phương Uyên được trả tự do, đã có nhiều dư luận về sự kiện chưa từng có này. Anh có bình luận gì về những dư luận ấy?
Người Việt Nam không bao giờ bỏ phí tinh thần “lạc quan cách mạng”. Tôi chỉ muốn nêu lại một vài câu chuyện hài hước trên các diễn đàn mạng, trong các quán cà phê “dân chủ” và ở cả những bàn nhậu.
Một trong những câu chuyện trào phúng nhất thuộc về nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh. Chỉ mới cách đây chưa đầy hai tháng, người nhận giải thưởng “Công dân mạng toàn cầu 2013” của Tổ chức Phóng viên Không biên giới còn không giấu nổi tâm trạng lo ngại về triển vọng “nhập kho”, nhưng nay tại mang tâm thế khác hẳn.
Tiếu lâm nhất là việc Huỳnh Ngọc Chênh đã nêu ra hai giả định sau chuyến trở về không thể tưởng tượng được của nữ sinh áo trắng Phương Uyên, trong đó có giả định 1 - lạc quan nhất - mà tôi xin lược lại như sau: “Các người đứng đầu đảng Cộng sản Việt Nam thấy rằng đến lúc phải thực lòng thay đổi để nhanh chóng hội nhập (…) nên đã quyết định tìm cách trả lại tự do ngay cho Phương Uyên, và từ từ trả lại tự do cho Nguyên Kha. Việc giảm án cho Uyên - Kha là bước đi "Amstrong" rụt rè đầu tiên hướng về ánh sáng dân chủ nhưng sẽ là bước tiến vĩ đại của dân tộc trong nay mai.
Những bước đi tiếp theo là sẽ thả hết các tù nhân lương tâm còn lại vào dịp đặc xá ngày 2/9 sắp đến, rồi tiến đến thay đổi Hiến pháp bỏ đi điều 4, chấp nhận đa nguyên, đa đảng... Nếu đúng với giả định nầy, tôi tin rằng toàn dân sẽ tôn 16 ông bà trong Bộ Chính trị thành những thánh nhân, dựng tượng khắp mọi nơi để thờ cúng. Riêng tôi nguyện sẽ mỗi ngày viết một bài báo hàng ngàn chữ để ca ngợi công đức của các vị cho đến khi tôi không còn viết được nữa.
Tôi cũng tin rằng nhân dân sẽ khép lại quá khứ, tha thứ tất cả, đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục được ủng hộ, nhân dân sẽ dồn phiếu cho các vị trong bầu cử tự do để tranh đua sòng phẳng và thắng lợi tuyệt đối các đảng phái mới lập khác… Tôi hay tin người và tin vào điều tốt đẹp nên rất tin vào giả định 1”.
Tất nhiên một số độc giả “ngây thơ” đã “ném đá” Huỳnh Ngọc Chênh vì cái được gọi là “lòng tin chiến lược” như thế. Chỉ có điều, số độc giả ít tường tận về tính cách ông Chênh hình như đã chẳng mấy quan tâm đến giả định thứ hai mà ông nêu ra: “Do áp lực phải vào TPP, phải vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, phải mua được vũ khí sát thương của Mỹ, phải tìm các nguồn tài trợ cho nền kinh tế đứng bên bờ vực thẳm... các vị lấy việc giảm mức án vài năm cho Uyên - Kha làm món hàng trao đổi để lừa bịp dư luận và thế giới.
Sau khi đạt được các yêu cầu chiến thuật đó các vị lại “đâu trở về đó”, lại tiếp tục vùi dập nhân quyền, đàn áp người yêu nước... như đã từng làm sau khi vào WTO. Nếu giả định nầy là sự thật thì nhân dân sẽ không để yên, lịch sử sẽ đời đời nguyền rủa, thế giới sẽ không ngu ngơ để các vị tiếp tục dối trá”.
RFIAnh có tin vào giả định nào của nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh?
Hơi khác với Huỳnh Ngọc Chênh, tôi không tin người lắm, đặc biệt đối với các chính khách thời nay. Do vậy tôi hoài nghi đối với mọi giả định, cho dù đã xác định được tính xu thế về độ mở chính trị tỉ lệ thuận với độ mở đối ngoại.
Tôi cũng muốn nêu ra một giả định khác, có thể mang tính trung dung giữa hai giả định của nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, nhưng được nhìn từ góc độ biện chứng lịch sử.
Hãy trở lại với quy luật nhập kho – xuất kho, chúng ta có thể tự hỏi là với sự kiện Phương Uyên diễn ra chưa có tiền lệ, thế mạnh của chính thể đã diễn biến đến mức nào và đang ở điểm ngoặt nào? Phải chăng đã xảy ra một sự thay đổi đủ lớn từ đối nội và đối ngoại, hoặc hơn nữa là tính cộng hưởng giữa hai yếu tố này mà khiến chính quyền buộc phải thả người?
Cần nhắc lại là vào đầu năm 2013, sau chuyến đi của người đứng đầu Đảng Nguyễn Phú Trọng đến Roma, đã xảy ra một sự kiện chưa có tiền lệ ở Việt Nam. Một nhóm nhân sĩ, trí thức gồm 72 người đã ký tên vào một bản văn bản được gọi tượng trưng là “Kiến nghị 72” với nhiều đề nghị liên quan đến Hiến pháp, Luật biểu tình, Luật lập hội, Luật trưng cầu dân ý và cả đề nghị thay đổi điều 4 Hiến pháp về cơ chế độc đảng. Nhưng sau đó, rất nhiều người dân và công chức đã ngạc nhiên về chuyện đã không một ai trong nhóm “Kiến nghị 72” bị “kiểm soát đặc biệt”, trong khi nếu sự kiện này xảy ra vào những năm trước đó thì không biết hậu quả nào đã xảy đến, thậm chí còn có thể có chuyện bắt bớ.
“Kiến nghị 72 “ ra đời cùng với chuyến đi của Tổ chức Ân xá Quốc tế đến Việt Nam - cũng là lần đầu tiên tổ chức này được Nhà nước Việt Nam cấp “quota” cho gặp trực tiếp những nhân vật bất đồng chính kiến theo yêu cầu. Cũng vào thời gian này, giới quan sát còn ghi nhận một vài chuyến đi và những cuộc gặp gỡ của các quan chức Cộng đồng châu Âu, những nghị sĩ đấu tranh cho vấn đề dân chủ và nhân quyền và đã có những tiếp xúc với các quan chức Bộ Ngoại giao, Bộ Công an ở Hà Nội. Mà đó là những cuộc gặp được công khai cho báo chí, trong khi dư luận còn cho rằng có những cuộc tiếp xúc kín đáo hơn nhiều, đã dẫn đến cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ ở Hà Nội vào trung tuần tháng 4/2013.
Vậy thì câu chuyện của Phương Uyên cũng rất có thể là một logic tiếp theo của chuỗi vận động đối ngoại – đối nội diễn ra từ đầu năm 2013 đến nay, chứ không phải là đột biến hay ngoại lệ, cho dù sự kiện này đã làm kinh ngạc rất nhiều người.
RFI : Nhưng đợt bắt bớ các blogger ở Việt Nam xảy ra vào tháng 5 và tháng 6 năm 2013 có đi ngược lại tính logic của lộ trình mở cửa chính trị như anh phân tích?
Chúng ta hãy nhìn vào cái gọi là “Danh sách 20”, tức một tin tức được tung ra cùng với đợt bắt ba blogger Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy. Có thể nhận ra điều đó giống như một động tác giả hơn, xuất phát từ một cơ quan đặc biệt nào đấy nhằm tác động đến tâm lý và hành vi của giới blogger và hoạt động dân chủ nhân quyền, chứ thực ra từ đó đến nay đã không diễn ra một sự bắt bớ nào nữa.
Mà vụ việc của hai trong ba blogger lại được đánh giá thiên về màu sắc nội bộ và với mục đích tìm ra nguồn tin hơn là một “cú đánh” trực tiếp vào hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Còn với Đinh Nhật Uy, tin tức gần nhất cho thấy blogger này có khả năng sắp được trả tự do. Thực ra, vấn đề của Uy là quá nhỏ bé trong tổng thể bàn cờ chính trị ở Việt Nam.
Nhân đây, cũng cần làm rõ một đánh giá cho rằng vào nửa đầu năm 2013, số người bất đồng chính kiến bị bắt giữ ở Việt Nam bằng cả hai năm trước cộng lại. Nếu nhìn lại và rạch ròi về thời điểm bắt giữ thì có thể thấy những vụ bắt người tập thể như 14 thanh niên Công giáo, Tin lành và vụ Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn đều xảy ra vào năm 2012 chứ không phải 2013. Người ta cũng còn nhớ vụ bắt giữ luật sư công giáo Lê Quốc Quân vào cuối năm 2012 là vụ cuối cùng của năm đó. Còn đến năm 2013, những vụ “tồn kho” của năm trước được đưa ra xét xử và có án. Như vậy, thực ra số người bất đồng chính kiến bị bắt vào nửa đầu năm 2013 là giảm hẳn so với nửa cuối năm trước, phản ánh biểu đồ kiểm soát chính trị đang võng dần xuống theo một đường thoai thoải, hoặc làm thành “một đường mỏng manh” (a delicate line) – như cụm từ mà đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear đã dùng để chỉ về mối quan hệ “đi dây” của Hà Nội giữa Bắc Kinh và Washington.
Mà như thế, đáng lý ra dư luận trong nước và cả các tổ chức nhân quyền quốc tế đã không phải quá ngạc nhiên khi chứng kiến Phương Uyên được thả đột ngột. Nhất là sự kiện trả tự do chưa có tiền lệ này lại diễn ra chỉ gần ba tuần sau cuộc gặp giữa hai nguyên thủ quốc gia của Mỹ và Việt Nam.
Vấn đề chỉ còn là thời gian, thả sớm hay muộn hơn mà thôi.
RFI Cho tới nay vẫn có nhiều luồng ý kiến khác biệt về nguyên nhân và động lực dẫn tới sự tự do của Phương Uyên. Anh đánh giá ra sao về vấn đề này?
Tôi nhìn thấy một ảnh hưởng không nhỏ, hoàn toàn không mờ nhạt từ phía Nhà Trắng. Có thể coi thái độ của Washington mới là ảnh hưởng có tính quyết định.
Ngay sau khi Phương Uyên được thả, khẩu khí của đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là David Shear có vẻ càng cứng rắn hơn: “Chúng tôi đã khẳng định rất mạnh mẽ rằng chúng tôi muốn các tù nhân chính trị phải được thả”.
Cũng sau khi Phương Uyên được thả, một viên chức chính trị của Đại sứ quán Hoa Kỳ là Michael Orona đã trả lời báo chí rằng đây là sự đấu tranh không ngừng nghỉ từ nhiều phía. Ông Orona cho biết ngay từ đầu tiên, Tòa đại sứ đã ra thông cáo báo chí về việc này và tiếp tục lên tiếng bằng nhiều kênh đối thoại.
Cách bày tỏ thái độ của các quan chức ngoại giao Hoa Kỳ cũng không kém logic với cách tiếp đón Chủ tịch Sang của Tổng thống Obama. Kín đáo trong hội đàm, nhưng bên ngoài vẫn liên tục diễn ra nhiều cuộc vận động của các nghị sĩ Mỹ và châu Âu cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Làn sóng vận động này lại bắt nguồn từ giới hoạt động dân chủ và nhân quyền trong nước.
Nhưng cũng không thể nói rằng cuộc biểu tình ngày 16/8/2013 ở Long An của hàng trăm người ủng hộ Phương Uyên là vô nghĩa. Cũng không thể nói là công an Long An không thuần thục phương án phòng chống biểu tình, bạo loạn mà đã để cuộc biểu tình diễn ra một cách đầy đặn đến khó tả, đến mức mà nhà văn Nguyễn Tường Thụy còn mô tả “vừa đi vừa binh vận lẫn dân vận”. Còn trước đó một ngày, hàng chục người bị xem là “đối tượng chính trị” đã có thể cùng với gia đình Phương Uyên và Nguyên Kha gặp gỡ các phạm nhân mà không bị cán bộ trại giam Long An làm khó dễ gì…
Những tín hiệu cứ tiếp nối sinh ra, sinh sôi một cách thầm lặng, nhưng trên hết vẫn là tính tín hiệu. Mà đó chỉ là đà tiếp nối cho một sự cộng hưởng trong – ngoài để dẫn đến một tác động can thiệp nào đó từ phương Tây đối với trường hợp Nữ sinh áo trắng.
RFINhư vậy là chính phủ Hoa Kỳ vẫn quan tâm đến chủ đề dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, khác với dư luận cho rằng Tổng thống Obama đã quay lưng?
David Shear là một trong những dấu chỉ lộ thiên cho câu hỏi này. Trong cùng thời gian Phương Uyên được thả, David Shear đã có một cuộc tiếp xúc với cộng đồng người Việt ở Little Sài Gòn, và một ít thông tin xuất hiện từ đấy đã cho thấy ông Shear xác nhận: chính Tổng thống Obama đã nói thẳng với ông Trương Tấn Sang trong chuyến viếng thăm vào ngày 25/7/2013, là hiện nay Việt Nam đang cần Hoa Kỳ nhiều hơn trong các vụ mua bán về vũ khí sát thương, và hồ sơ nhân quyền sẽ trở thành điều kiện ràng buộc trong việc mua bán vũ khí, phát triển quan hệ đối tác.
Dấu chỉ đã khá rõ: sau gần ba tuần diễn ra cuộc gặp Obama – Sang, công luận được biết đến những điều “thầm kín” trong phòng Bầu dục. Nếu người Việt ẩn dụ bằng bản sao bức thư của ông Hồ Chí Minh viết cho Tổng thống Mỹ Harry Truman gần bảy chục năm về trước, thì người Mỹ hiện tại lại không cần giấu diếm quan điểm của mình. Và đúng như David Shaer đã ẩn dụ trước cuộc gặp Obama- Sang, “Mỹ có ưu thế để đặt ra vấn đề này(dân chủ và nhân quyền)”.
Vậy ưu thế đó là cái gì?
Ít lâu sau cuộc gặp Obama- Sang, vị đại sứ từng trải, ít nói và được xem là có nhiều kinh nghiệm đối thoại với Hà Nội đã có một cuộc họp báo với cái nhìn tương đối lạc quan về triển vọng quan hệ “đối tác toàn diện” giữa hai quốc gia, khác khá nhiều với thái độ lắng tiếng của chính ông vào năm trước, nhất là lúc cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ bị đình hoãn đột ngột vào cuối năm 2012.
Tuy thế, thái độ của vị quan chức cao cấp nhất đón phái đoàn lên đến 200 người của Chủ tịch Sang ở sân bay Washington vẫn không quá lạc quan. Trong cuộc gặp với người Việt ở Little Sài Gòn mới đây, ông David Shear tái khẳng định tình hình nhân quyền Việt Nam vẫn không có sự cải thiện nào đáng kể như sự mong đợi của Hoa Kỳ. “Thời gian” là một trong những khái niệm mà David Shear đề cập nhiều nhất, liên quan đến TPP và vũ khí sát thương là hai thứ mà Hà Nội đang muốn có.
Tất cả đều phải có thời gian. Cách nói của David Shear cũng có thể khiến người ta nhớ lại lời nhắc của Bộ trưởng Thương mại Mỹ với ông Sang vào cuối tháng 7/2013, cho rằng Việt Nam đã đạt được một số yêu cầu về thủ tục TPP, nhưng sẽ còn phải mất nhiều thời gian nữa để hoàn thiện việc gia nhập hiệp định này.
Cũng cần nhắc lại, vào tháng 2/2013, một đại sứ châu Âu đã tiếp xúc với Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn và nhận được câu trả lời “Chúng tôi hiểu, nhưng hãy cho chúng tôi thời gian”.
RFILiệu có thể hy vọng thời gian sẽ làm cho Hà Nội nghĩ đến việc phóng thích các tù nhân lương tâm, trong đó đặc biệt là trường hợp Điếu Cày vừa gây nên cuộc tuyệt thực chấn động?
Đó cũng là ẩn số mà nhiều người đang chờ đợi được giải mã.
Mới đây, một thông tin được công bố chính thức trên báo đài nhà nước cho biết sẽ có trên 15.000 phạm nhân đủ điều kiện được đặc xá trong dịp lễ 2/9 ở Việt Nam. Trong khi vào năm ngoái, giới tù nhân đã phát hoảng vì tin tức không chính thức cho rằng trong hai năm 2013-2014 và thậm chí có thể đến cả năm 2015 sẽ không có chuyện đặc xá.
Tin tức lại dẫn đến đồn đoán. Hiện thời, người ta đang hỏi nhau liệu có diễn ra một đợt thả tù nhân lương tâm cùng trong đợt đặc xá hay không, và những ai là đối tượng được “ưu ái”. Thậm chí một dự đoán lạc quan lan truyền trong giới blogger cho là nhà cầm quyền có thể phóng thích hàng chục tù nhân chính trị vào dịp lễ quốc khánh 2/9.
Với tình cảm gần gũi, giới blogger đang nhắc lại những nhân vật đang bị “cầm cố” có triển vọng “xuất kho” như Anh Ba Sài Gòn, Phạm Viết Đào, Đinh Nhật Uy…
Nhưng trên hết vẫn là một người có biệt danh là Điếu Cày. Sau sự kiện Phương Uyên được trả tự do, Đại sứ David Shear đã cho biết đây là nhân vật nằm đầu bảng trong sự đòi hỏi của Hoa Kỳ, và hiện nay Tòa đại sứ đang theo dõi sát tình hình sức khỏe cũng như điều kiện giam cầm của nhân vật này.
Cần nhắc lại, tù lương tâm Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đáng lý đã có thể được phóng thích từ vài năm trước, nếu không bị kết án lại với một mức án quá trầm trọng. Cuộc tuyệt thực đến hơn một tháng và ngoài sức tưởng tượng của Điếu Cày đã còn hiện thực và lay động hơn cả chuỗi nhịn ăn của Cù Huy Hà Vũ, khiến cho Nguyễn Văn Hải trở nên hoàn toàn tương xứng với lời tri ân của Tổng thống Obama vào tháng 5/2012 nhân ngày Tự do Báo chí Quốc tế.
Có thể hy vọng cho việc phóng thích. Cũng đã có một vài tín hiệu nào đó đối với Điếu Cày. Những người thạo tin trong giới blogger còn hy vọng sẽ được đón chào người tù nhân có án hàng chục năm này trong không bao lâu nữa.
Khách quan nhìn nhận, việc thả người là một quy luật đặc thù trong bối cảnh hiện nay, tương xứng với những vận động đối ngoại và cả sức ép từ trong nước. Sức ép trong nước lại còn đến từ chính những người đã có bề dày tham gia chế độ.
Không phải vô cớ mà trước cuộc biểu tình đòi trả tự do cho Phương Uyên ở Long An, một trong những thủ lãnh máu lửa nhất của Lực lượng thứ ba – Phong trào học sinh, sinh viên ở Sài Gòn trước năm 1975, người đã từng lãnh án tử hình và hiện thời đang phải đối mặt với bạo bệnh – luật gia Lê Hiếu Đằng, đã phát động một phong trào có tên “Đảng Dân chủ Xã hội”.
Chỉ để đối phó với một Lê Hiếu Đằng, Nhà nước đã phải dùng đến ít nhất 6 tờ báo và vài chục bài công kích, chỉ trích. Điều đó cho thấy những lãnh đạo cao nhất ở Việt Nam có thể không còn đánh giá thấp truyền thông xã hội và những nhân tố có tính đột biến trong lòng “lề trái”, nhất là khi giới “lề trái” đang nhận được sự hậu thuẫn ngày càng trực tiếp và song ánh của giới truyền thôing và dân chủ nhân quyền quốc tế.
Và nếu quy luật khoa học “nhập kho, xuất kho” ứng nghiệm vào hoàn cảnh này, sắp tới sẽ diễn ra cảnh đoàn tụ giữa những tù nhân lương tâm với gia đình của họ ở ngay trong sân các trại giam. Nếu không khí trùng phùng đó diễn ra, người dân có quyền hy vọng là Nhà nước sẽ nương tay không nỡ “nhập kho” thêm trong ít ra vài năm tới.
Cũng cần đối chiếu đôi chút với trường hợp Miến Điện. Tại quốc gia này vào thời gian trước năm 2011, chẳng có mấy ai dám hy vọng vào một tương lai sáng sủa đối với số tù nhân chính trị còn nhiều hơn ở Việt Nam hiện thời. Tuy nhiên, sự quyết đoán của Tổng thống Thein Sein trong việc nắm triều chính và những bước đi quả quyết hướng về phương Tây đã không chỉ khiến bà Aung San Suu Kyi được giải chế, mà trong năm 2012 và đặc biệt trong nửa đầu năm 2013 đã có hàng trăm tù nhân chính trị được trả tự do, trong đó bao gồm cả những tù nhân chính trị có mức án lên đến hàng trăm năm. Cho tới giờ, con số thống kê chính thức cho thấy trong các nhà tù Miến Điện chỉ còn khoảng 70 tù nhân chưa được trả tự do.
Bởi thế ứng với Việt Nam, ngay cả những trường hợp đã chịu án nặng như Điếu Cày vẫn có cơ may thoát vòng lao lý, nếu độ mở dân chủ song trùng với điều kiện thả tù chính trị.
Trong dịp lễ 2/9 này, mặc dù công bố của các trại giam là chưa có đặc xá cho những trường hợp như Điếu Cày, nhưng tôi vẫn nghĩ là có thể có những hy vọng, nếu không phải là vào dịp lễ 2/9 này thì sau đó, và có lẽ không lâu nữa. Vì Điếu Cày có thể nhận một mức đặc xá giảm án nhiều, hoặc thậm chí có thể được trả tự do.
RFIAnh có lạc quan quá không, khi trong số 15.000 người được đặc xá lần này không có những tù nhân chính trị nổi tiếng ?
Tôi không quá lạc quan, nhưng không hẳn là bi quan. Tại vì rõ ràng là sự kiện Phương Uyên đã mở ra một điểm sáng cho khung trời dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Mà điều đó cho phép người ta có thể hy vọng là có những chuyện sẽ mở ra hơn. Ở Việt Nam không phải luôn luôn và lúc nào cũng có chuyện thả tù nhân chính trị một cách ồ ạt như Miến Điện, tại vì Việt Nam không phải là Miến Điện. Mà ở đây người ta thả lặng lẽ.
Mà tôi cũng nhớ là trường hợp của tôi cũng thả rất là lặng lẽ, trong một bầu không khí hoàn toàn yên lặng, không ai biết gì hết. Và khi tôi ra khỏi trại giam thì tôi leo lên xe ôm đi thẳng về nhà, không có một ai đón tôi cả. Điều đó khác xa với trường hợp của Phương Uyên.
Cái cung cách như vậy làm cho tôi cũng hy vọng là mặc dù trong danh sách 15.000 người chưa công bố một số nhân vật được coi là tù nhân lương tâm đặc biệt – những người khá nổi tiếng, những blogger, nhà đấu tranh dân chủ nhân quyền trong đó có Điếu Cày, nhưng vẫn có thể có hy vọng là trong một sắc thái lặng lẽ kín đáo nào đó, thì dần dần, từng người một sẽ ra khỏi trại giam trong những ngày sắp tới. Không nhất thiết là phải đúng ngay dịp lễ 2/9 này mà có thể sau 2/9
RFITuy thế, vẫn không ngớt dư luận lo ngại về thái độ đối xử thiếu hòa nhã của công an Việt Nam đối với giới hoạt động dân chủ hay nghị định 72 về cấm đoán Internet…
Trong những ngày gần đây, dư luận cho rằng một số thành viên dân chủ theo phương châm hành động từ nhà ra đường phố đã bị sách nhiễu, và còn có cả dấu hiệu công an sử dụng côn đồ để gây hấn và xúc phạm những người này. Nhưng xét trong xu thế khách quan và độ mở chính trị đang dần hình thành ở Việt Nam, tôi cho rằng những hành động bị coi là sách nhiễu, gây khó của ngành công an chỉ nằm trong chiến thuật phân hóa, kiểm soát, khống chế nhưng rất hạn chế mục tiêu bắt bớ. Nhìn chung, những hành động như thế chỉ mang tính gián tiếp về tác động tâm lý hơn là mục tiêu cô lập trực tiếp về hành vi.
Mặt khác từ thực tế khách quan, sự lo lắng của giới blogger ở Việt Nam đối với nghị định 72 về “quản chế” Internet của nhà nước sẽ phát huy tác dụng sau tháng 9/2013 có thể không có nhiều cơ sở. Một tiêu chí đo lường tương đối chính xác cho hiệu ứng này là mật độ và hàm lượng thông tin của truyền thông nhà nước, mà cụ thể là trên mặt báo đảng. Nếu so sánh tần suất đưa tin và bình luận về vụ phúc thẩm Uyên – Kha với nghị định 72, người ta có thể nhận ra mức độ thông tin gần như tương đương, nghĩa là không ồ ạt, thậm chí khá lắng tiếng so với thời điểm cuối năm 2012 và ngay trước phiên sơ thẩm Uyên – Kha cách đây mấy tháng.
Sự lắng tiếng rõ nét của báo đảng nói lên điều gì? Người ta đang đặt dấu hỏi về một thái độ không đồng nhất, thậm chí có thể là trái chiều giữa các cơ quan tố tụng hoặc thậm chí ở cấp cao hơn, dẫn đến tình trạng lúng túng và bất động của một số cơ quan tuyên truyền đặc biệt và có thể cả với cơ quan an ninh ở một số địa phương. Tình trạng có vẻ như bất động như thế lại đang chịu sự chỉ trích không nhỏ về nghị định 72 của giới hoạt động dân chủ nhân quyền quốc tế như Tổ chức phóng viên không biên giới hay Liên minh trực tuyến…
Sự bất động ấy cũng dường như đang chìm trong chờ đợi về một tương lai không đoán định được.
RFITương lai khó đoán định ấy sẽ diễn ra nhanh hay chậm?
Không phải tất cả mọi chuyện đều diễn ra suôn sẻ và nhanh chóng. Điều mà giáo sư người Anh Jonathan London kỳ vọng là tình hình chính trị ở Việt Nam đang chuyển biến khá nhanh, thực ra lại có thể làm vị trí thức nhiệt thành này bị thất vọng đôi chút.
Non sông dễ chuyển, bản tính khó dời… Đơn giản là nếu nền chính trị Việt Nam không nằm trong một bối cảnh đầy chông gai về suy thoái kinh tế và phân hóa tư tưởng như hiện thời, sẽ khó có một độ mở dân chủ nào được thực hiện đúng nghĩa, theo lộ trình như đã được Hà Nội cam kết với Mỹ và phương Tây từ khi gia nhập Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 12 năm về trước.
Bầu không khí xã hội – chính trị ở Việt Nam như đang trở lại thời điểm năm 2004, khi chủ đề CPC về các quốc gia cần đặc biệt được quan tâm về nhân quyền và tôn giáo được áp dụng với Việt Nam. Truớc đây trong hai năm liên tiếp từ năm 2004 đến năm 2006, sau khi bị xếp vào CPC, tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam lại có những cải thiện mà trước đó quá đỗi hiếm hoi, như trả tự do cho một số tù nhân, mở rộng phạm vi bảo vệ của pháp luật đối với một số các cộng đồng tôn giáo được nhà nước thừa nhận… Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế cũng ghi nhận phần lớn các lãnh đạo tôn giáo ở Việt Nam cho rằng những thay đổi tích cực này đến từ sức ép của CPC với Việt Nam.
Tuy thế, có lẽ bài học mà người Mỹ không thể quên là từ năm 2006 khi nước Mỹ nhấc Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, cho đến nay tình trạng nhân quyền và tôn giáo ở Việt Nam lại không có dấu hiệu khả quan hơn, nếu không muốn nói là bị cộng đồng quốc tế đánh giá “thụt lùi sâu sắc”.
RFITuy không bị xếp vào danh sách CPC trong năm 2013, nhưng Nhà nước Việt Nam lại phải chịu sức ép không hề nhỏ của hai dự luật nhân quyền và chế tài nhân quyền dành cho quốc gia này. Theo anh dự đoán, tình hình hoạt động dân chủ nhân quyền và xã hội dân sự sẽ như thế nào ở Việt Nam trong thời gian tới?
Quy luật “giảm nhập kho, tăng xuất kho” sẽ ứng nghiệm cho đến khi nào mà quan hệ giữa hai nhà nước Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn tạm nồng ấm, với nhu cầu thuộc về Việt Nam nhiều hơn, liên quan chủ yếu đến một lợi thế so sánh mà có lẽ các quan chức lãnh đạo cao cấp của Việt Nam cho là “cân bằng chiến lược Đông – Tây”, TPP và kể cả gia cố uy tín cho hình ảnh của giới lãnh đạo trong con mắt dân chúng và cộng đồng quốc tế. Trước mắt, lộ trình làm thủ tục gia nhập TPP có thể kéo dài từ một đến hai năm, nghĩa là có thể kéo đến cuối năm 2014 hoặc sang cả năm 2015.
Và nếu không có gì thay đổi, trục Mỹ -Trung -Việt sẽ là một thế cân bằng chiến lược, nằm trong chính sách “xoay trục” của Washington về Đông Nam Á trong nhiều năm tới và quan hệ thương mại không thể thiếu giữa Bắc Kinh và Washington. Đó cũng là lý do để Hà Nội có thể tự thân “xoay trục”, nhưng không quá thiên về Bắc Kinh như trước đây, mà về hướng kẻ cựu thù.
Hầu như rõ ràng, chuyến đi của một quan chức cao cấp Việt Nam là Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Xuân Phúc đến Washington để “làm việc với đại học Havard”, hoặc cuộc gặp giữa hai bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Mỹ, rất có thể đóng vai trò “tiền trạm” cho một chuyến đi khác đến New York của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, dự kiến vào cuối tháng 9/2013. Tất nhiên, những chuyến đi như vậy đang nằm trong chuỗi logic với sự kiện Phương Uyên và có thể cả những nhân vật hậu Phương Uyên.
Từ năm 1975 đến nay, có lẽ từ thời điểm giữa 2013 mới bắt đầu chứng nghiệm một “lòng thành chính trị” nào đó của Hà Nội. Và cứ chiếu theo quy luật khách quan, giới hoạt động dân chủ nhân quyền ở Việt Nam có nhiều khả năng sẽ không bị “nhập kho”, trừ trường hợp một ít vụ việc bị chính quyền xem là “rất quá khích”.
Cũng theo quy luật khách quan, có thể đến cuối năm 2013, một số nhóm dân chủ bạo dạn nhất sẽ có thể tiến đến công khai hóa hoạt động của họ, hình thành những hội đoàn và có thể nâng lên tầm phong trào, làm đà cho sự hình thành và phát triển một mảng nào đó của xã hội dân sự ở Việt Nam trong năm 2014.
Còn về chân đứng của xã hội dân sự ở Việt Nam, một số người hoạt động dân chủ đã đề nghị lấy ngày 16/8 là ngày khai sinh và kỷ niệm về sự hình thành đầu tiên của xã hội dân sự ở Việt Nam. Đó cũng là ngày mà Phương Uyên được trả tự do, ngày được xem là sự kết tinh của nhiều cố gắng đối nội và đối ngoại trong suốt một thời gian dài.
Bước ngoặt của vận động chính trị - xã hội ở Việt Nam gần như chắc chắn đang khởi động. Nếu người Mỹ xoay trục về Đông Nam Á và Việt Nam được xem là quốc gia “gần sát trung tâm” của chính sách đó, còn Nhà nước Việt Nam cũng đang hướng đến “xoay trục” sang phương Tây, thì rất có thể giới hoạt động dân chủ còn mỏng manh và phân tán ở đất nước này đang chú tâm đến một hình ảnh “xoay trục” về xã hội dân sự tương lai, đấu tranh ôn hòa và bất bạo động, thay cho những manh động đốt cháy giai đoạn mà dễ bị dập vùi.
Nếu mọi chuyện diễn ra một cách ôn hòa và có tính kết nối cao, thì như người đời thường luận, phía trước là bầu trời.
RFIXin chân thành cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng ở Thành phố Hồ Chí Minh đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ.

Cái ghế...

Phan Dong
Chia sẻ bài viết này


Có vẻ như các quan chức của chúng ta ngày nay quá coi trọng “cái ghế”, nói về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Nghĩa bóng đã được phản ánh một cách không thể thuyết phục hơn qua hiện tượng chạy chức, chạy quyền, mua chức, mua quyền, thậm chí “chiến đấu sinh tử” với nhau để kiếm được quyền cao chức trọng.
Nghĩa đen có vẻ ngày càng thể hiện rõ, khi mà các quan chức rất coi trọng chiếc ghế mình đang ngồi. Ghế càng to, chạm trỗ rồng phượng càng nhiều thì mới thể hiện quyền uy, chức trọng.
Trong một cuộc họp, ghế của thủ trưởng hoặc người chủ toạ phải cao hơn, to hơn, đẹp hơn ghế của những cử toạ khác có chức vụ thấp hơn. Họp chính phủ cũng thể hiện hiện tượng này khi ghế của Thủ tướng phải to hơn, cao hơn ghế của các phó thủ tướng và các bộ trưởng. Sự ngăn cách cũng bắt đầu từ đó...

Cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2013 - Ảnh từ trang baodienthu.chinhphu.vn
Tìm hiểu cuộc họp mới đây của tổng thống Mỹ Barack Obama để bàn về vấn đề Syria sử dụng vũ khí hoá học, thấy rằng ông Obama đang ngồi trên một chiếc ghế thông thường và không có gì khác biệt so với những chiếc ghế bên cạnh. Sự bình đẳng thể hiện ngay từ chiếc ghế mà người lãnh đạo Nhà Trắng đang ngồi. Sự gần gũi, hợp tác cũng bắt đầu từ đó...

Ảnh chụp từ video clip của trang CNN ngày 31/8/2013

Bất bình cái bọn Thế Giới

Minh Văn
Chia sẻ bài viết này


Thế gian vạn sự bất như thường”, đó là một triết lý sống hay mà nhiều người hằng theo đuổi, nhất là trong bối cảnh đương thời. Quan niệm ôn hoà tuyệt diệu này cũng được nhiều bậc thức giả ẩn dật lựa chọn, vì nó mang lại sự yên ổn và thanh thản trong tâm hồn. Như vậy không chỉ người sở hữu chủ thuyết mà cộng đồng nhân loại cũng được hưởng thái bình. Lối ứng xử đó rất tốt và đáng được khuyến khích, khen ngợi. Tuy nhiên trong một số trường hợp người ta không thể tránh khỏi bất bình, vì sự việc diễn ra quá đổi vô lý. Đến lúc đó thì chúng ta cũng nên bỏ quá cho những bậc thức giả đã trót lựa chọn triết lý “Thế gian vạn sự bất như thường”, vì thực ra họ cũng là những con người. Mà đã con người thì ai cũng phải có tình cảm đời thường cả.
Hai bác Nhân - Quyền vốn là đôi bạn già tri kỷ ở cùng thôn. Bác Nhân là nông dân chính hiệu, vì phải vất vả vật lộn nuôi 5 đứa con khôn lớn nên trông bác già hơn nhiều so với cái tuổi 60. Khác với bạn của mình, bác Quyền lại được người ta mệnh danh là nhà thông thái ẩn dật. Có người ngưỡng mộ quá còn gọi bác là “Quân sư Ngô Học Cứu” (tức là Trí đa tinh Ngô Dụng – vị Quân sư đắc lực trong cuộc khởi nghĩa Lương Sơn Bạc đời nhà Tống bên Tàu). Hai bác làm bạn với nhau, cùng sẻ chia những vui buồn thế sự, mặc cho hoàn cảnh và nhận thức khác nhau xa. Tuy vậy, khác biệt đó lại là sự bổ sung hoàn hảo cho đôi bạn già. Người ta thấy hai người lúc nào cũng tâm đầu ý hợp, như là Tử Kỳ và Bá Nha vậy. Đôi bạn hoà hợp về tâm hồn nhưng lại có vẻ bề ngoài tương phản gần như đối lập. Bác Nhân thì cơ thể rắn chắc như cây gỗ lim vững vàng trước sương gió cuộc đời, nước da cháy nắng với khuôn mặt khắc khổ kiên nghị. Những nét đó như chở che, nâng đỡ cho vóc dáng thư sinh trắng trẻo với vầng trán cao uyên bác của người bạn hiền vốn là trí thức nghỉ hưu. Họ đại diện cho hai tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng điểm chung đáng quý là tâm hồn luôn hướng thiện và ưu ái cho cái tốt, cái đẹp ở đời.
Thường ngày đôi bạn già vẫn chọn một góc tĩnh lặng nơi vườn cây ăn trái của bác Nhân để mà uống trà đàm đạo, xa lánh cái ồn ào bụi bặm của thế nhân. Tại đây có kê bộ bàn ghế đá thật hoà hợp với môi trường thiên nhiên chung quanh. Những cành quả trĩu nặng sà xuống góc bàn nơi hai người ngồi, như một xứ sở thần tiên mơ mộng vậy. Điều đối lập duy nhất được tạo ra cho khung cảnh là cái Loa Xã trên cột điện gần nhà, mà ngồi tại đây, hai bác có thể nghe rõ mồn một những gì nó nói. Mỗi lần Loa Xã phát, cái không khí yên tĩnh hiếm hoi quý báu của hai bác lại bị phá vỡ, lúc này những nếp nhăn trên trán bác Quyền dường như lại hằn sâu hơn. Theo bác thì cái Loa xã (ở thành phố thì gọi là Loa Phường) vốn là đặc trưng của chế độ Cộng Sản chủ nghĩa, một chế độ tồn tại dựa trên sự tuyên tuyền và lừa dối. Ngày xưa bác xin nghỉ hưu sớm cũng vì chán ghét cái nhà nước nói một đàng làm một nẻo này. Nay về quê thấy cái Loa thì như là gặp lại “cố nhân” vậy, nó tượng trưng cho sự cưỡng bức thông tin mà chế độ áp đặt lên mọi người dân. Điều đó khiến bác nhớ lại một thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết đã bị người ta lợi dụng cho một mục tiêu dối trá.
Một buổi sáng yên bình, hai bạn già lại chọn góc vườn như mọi hôm để ngồi thưởng trà và đàm đạo. Chuyện xóm làng, chuyện thế sự lãng đãng trong không khí êm đềm của tiết thu. Vừa lúc đó thì tiếng Loa Xã cất lên, mở đầu là bản nhạc “19 tháng 8” hào sảng, kế đó là bài tuyên truyền kỷ niệm quốc khánh 2/9 do tay phát thanh viên của xã đọc. Cuối bài có đoạn “... Toàn dân tộc chúng ta nguyện trung thành và đi theo con đường đúng đắn mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Với mục tiêu: xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cả nước ta nhất định sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa Cộng Sản...”. Theo như đó thì ý của họ muốn nói là: Cả thế giới sai bét cả, chỉ có Karl Marx là đúng thôi.
Nghe đến đây, bác Nhân quay sang hỏi bạn:
- Tôi hỏi bác câu này nhé...
Bác Quyền vồn vã:
- Có việc gì ông cứ hỏi.
Chút đắn đo, rồi bác Nhân rụt rè:
- Cả thế giới có bao nhiêu nước ông nhỉ?
- Có hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ ông ạ.
Nghe bạn trả lời như vậy, bác Nhân liền đỏ mặt lên vì bực tức:
- Càng nghĩ tôi lại càng thấy bất bình...
Ít khi thấy bạn mình có thái độ nóng nảy lạ lùng như vậy, điều này trái với bản tính điềm tĩnh hàng ngày. Thoáng chút lo lắng, bác Quyền hỏi:
- Ông bất bình chuyện gì vậy? Ít khi tôi thấy ông bực tức như hôm nay?...
Ánh mắt bác Nhân như toé lửa, nhưng vẻ mặt lại toát lên vẻ thiểu não chán chường. Bác đấm tay xuống chiếc bàn đá mà dường như không có cảm giác đau, rồi gằn giọng:
- Tôi thấy bất bình cái bọn thế giới!...
Bác Quyền liền phì cười khiến cho ly nước trà đang uống dở bắn tung toé. Rồi dường như thấy sự vô duyên của mình, bác lấy khăn lau mặt rồi nghiêm nghị hỏi:
- Bác bất bình bọn thế giới thì biết tìm ai, họ nhiều thế cơ mà, những mấy trăm quốc gia?...
Bác Nhân lại đấm tay xuống bàn mà không cảm thấy đau:
- Thì thế mới tức, những mấy trăm nước mà chỉ có 5 nước theo Cộng Sản, như thế có ngu không chứ? Tại sao họ lại không theo Cộng Sản như Việt Nam ta cho sướng cái đời nhỉ?...
Thoáng chút ngạc nhiên, nhưng liền hiểu ngay ý của bạn, bác Quyền cúi đầu chua chát:
- Số những nước kia họ khổ thì phải chịu thôi ông ạ. Họ đâu được may mắn hạnh phúc như dân Việt Nam mình, có Đảng và Bác Hồ dìu dắt tới nơi tới chốn?...
Mấy từ cuối “...có Đảng và Bác Hồ dìu dắt tới nơi tới chốn...” bác nói gằn từng tiếng một, với một vẻ đắng cay vô bờ bến.
Bác Nhân nói thêm:
- Cả thế giới rộng lớn thế mà không ai biết suy nghĩ sao? Tại sao lại không nhân rộng mô hình chế độ Cộng Sản như ở Việt Nam để cho loài người tiến bộ, nhân loại được hạnh phúc. Ít nhất cũng phải để lãnh đạo các quốc gia Cộng Sản nói chuyện để bày cho họ cách lãnh đạo đất nước chứ?...
Nhắp chén trà để xua tan đi cái u mê lúc này đang tràn về xâm chiếm lấy tâm hồn, khi đầu óc đã tỉnh táo, bác Quyền khẳng định với một vẻ chí lý chưa từng thấy:
- Thì người ta vẫn nói “Chủ nghĩa Cộng Sản” là đỉnh cao của trí tuệ loài người mà. Đã là đỉnh cao trí tuệ thì chỉ có số ít người đủ thông minh để lĩnh hội được thôi ông ạ, còn với số đông nhân loại thì vẫn không “giác ngộ” được. Vì thế không có gì là lạ khi số quốc gia Cộng Sản chỉ đếm được trên đầu ngón tay...
Lần này thì đôi bạn già tâm đắc với ý kiến của nhau thực sự, cả hai cùng vỗ tay mà cười vang. Rồi họ lại rót cho nhau những tuần trà ngon sóng sánh để mà thưởng thức cái phát kiến tư duy mới của hai người. Nhưng có lẽ niềm hạnh phúc đó chỉ là khiên cưỡng, vì nó chứa đựng trong đó sự chua chát đắng cay. Nổi niềm này là của cả một dân tộc, chứ nào có riêng gì đôi bạn già đáng kính của chúng ta?
01/9/2013

Phạm Chi Lan - “Họ có tự trọng không?”

Phạm Chi Lan
Chia sẻ bài viết này


TT - Câu chuyện lương cao không mới ở các công ty nhà nước, nhất là những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công, một mình một mảng.
Ảnh châm biếm. Nguồn: FB Hoàng Dũng Cdvn

Tiền trả cho các công ty này từ phí và thuế dân đóng hoặc từ ngân sách nhà nước. Vì vậy trước thông tin lãnh đạo các công ty thoát nước, chiếu sáng... lương tới trên 2 tỉ đồng/năm một lần nữa đặt ra yêu cầu phải minh bạch hóa hiệu quả và cách thức đãi ngộ ở những doanh nghiệp dạng này.
Hình ảnh những công nhân lấm lem móc cống ở dưới những hố ga đen thui với mức lương khoảng 8 triệu đồng/tháng so với thông tin vị giám đốc của họ lương khoảng 200 triệu đồng/tháng quả thật sinh ra rất nhiều cảm xúc bức bối. Quỹ lương là chung, nếu người này có quyền lấy nhiều thì người khác sẽ phải chịu phần ít đi... Tất nhiên, đã qua rồi thời bình quân chủ nghĩa. Những người lao động trí tuệ, kỹ thuật đặc thù và đóng góp lớn vào sự phát triển của doanh nghiệp xứng đáng được hưởng lương gấp hàng chục lần người khác. Nhưng mức lương phải căn cứ vào kết quả công việc. Câu hỏi đặt ra ở đây là so với thực trạng hiện nay, lãnh đạo công ty thoát nước, công ty chiếu sáng đã xứng đáng được nhận mức lương như trên chưa? TP.HCM vẫn còn nhiều điểm ngập úng ai cũng biết. Hay chiếu sáng, tình trạng đóng đèn muộn, tắt đèn sớm vẫn diễn ra. Vì vậy, khi thông tin lãnh đạo các công ty trên nhận tới trên 2 tỉ đồng/năm thì nhiều người dân đặt câu hỏi “họ có tự trọng không?” là điều dễ hiểu.
Các công ty như thoát nước không chịu áp lực cạnh tranh, công khai minh bạch cũng chưa có, nên kiểu gì thì tiền của dân cũng chảy về chỗ họ. Với mức lương tiền tỉ kể trên, câu hỏi mà cơ quan chức năng cần đặt ra là có phải tiền đang chảy về chỗ họ quá dễ dãi? Mức phí thu của dân hay khoản đầu tư từ ngân sách cho các công ty trên đã hợp lý chưa, có được kiểm soát tốt không, có thể giảm không? Thỏa ước lao động, cơ chế tiền lương đã được xây dựng một cách dân chủ hay người lao động hoặc hoàn toàn không biết, hoặc chỉ có quyền... gật đầu trước những vị lãnh đạo đầy uy lực?
Giải quyết vấn đề tiền lương ở VN không đơn giản, bởi nhiều nơi lương quá thấp, giá của lao động không tương xứng, trong khi một số vị trí lại quá cao, chưa kể những khoản ngoài lương. Song giải quyết cũng không quá khó. Các tổ chức quốc tế đã khuyến cáo VN nhiều lần, có hàng loạt tài liệu, tập huấn để thúc đẩy trả lương dựa trên kết quả. Xác định danh mục đầu việc và yêu cầu cho từng chức danh; trả lương dựa trên kết quả thực hiện các mục tiêu lợi nhuận, doanh thu, mở rộng thị trường, nâng cao đời sống người lao động... là điều hoàn toàn có thể làm được để giảm bất công.
Để tránh những chuyện như lương khủng tại các công ty công ích này, không nên duy trì cách trả lương theo chức vụ, thâm niên, trên tiêu chí hoàn thành nhiệm vụ chung chung. Bởi thế sẽ rất khó công bằng cho cả người dân đóng thuế, phí và những người thấp cổ bé họng trong doanh nghiệp, khi mà thành tích thì lãnh đạo nhận, kém cỏi, thua lỗ thì đổ tại khách quan. Cần sớm đưa ra tiêu chí cụ thể để trả lương theo kết quả. Bên cạnh đó là công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước có trách nhiệm giám sát họ. Nếu hiệu quả kinh doanh, lương, thưởng của các doanh nghiệp nhà nước được minh bạch thì có lẽ vừa qua người dân đã không phải giật mình trước mức lương khủng của lãnh đạo một số doanh nghiệp công ích ở TP.HCM.
PHẠM CHI LAN
C.V.K. ghi

Hạnh phúc của dân phải quý, mạng sống của dân phải trọng

Thục Quyên
Chia sẻ bài viết này


Đúng ngày 11/03/2013, ngày kỷ niệm 2 năm thảm họa Fukushima, chính phủ Nhật và Công ty Tepco phải khởi sự trực diện đơn khiếu kiện trước tòa án của một nhóm 1650 nạn nhân, gồm những người đã di tản hay còn đang sống tại những vùng miền đông nước Nhật (1): các nạn nhân đòi hỏi phải được bồi thường sao cho họ có thể trở lại đời sống bình thường của họ như trước ngày 11/03/2011 (Số tiền tương đương với những thiệt hại được ước lượng lên tới 5.3 tỷ ¥en hay 55.2 triệu US$) và chính phủ phải xây cất lại cũng như tẩy uế phóng xạ nơi sinh sống cũ của họ.

Người dân khiếu kiện và các luật sư đang giăng biểu ngữ tại thành phố Chiba đòi hỏi chính quyền và công ty Tepco chịu trách nhiệm về sự cố tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi 1 (Atsuko Kawaguchi)
Tổng số đơn kiện 1650 gồm 800 nộp tại tòa án huyện (Ken) Fukushima. Những người đầu đơn là dân sống tại Miyagi, Yamagata, Tochigi và Ibaraki khi thảm hoạ xảy ra.
Con số lớn nhất là 822 đơn tại toà án nam-Fukushima của những người dân thành phố Iwaki.
Còn lại là 8 đơn tại tòa án Tokyo do những người đã di tản về Tokyo và đầu đơn tại nơi sinh sống tạm của họ, cũng như 20 đơn tại tòa án huyện Chiba.
Tiếp nối là làn sóng kiện thứ hai của khoảng 140 nạn nhân đã di tản về miền tây nước Nhật, được đầu đơn tại tòa án Osaka và Kyoto (17/09/2013) và toà án Kobe (cuối tháng 9) đòi bồi thường thiệt hại tổng cộng là 1 tỷ ¥en hay 10 triệu US$. Đó là 12 người dân thuộc Minami-Soma, Namie và Tomioka cùng khoảng 130 người dân tỉnh Fukushima, Miyagi và Ibaraki.(2).

Ông Katsutoshi Sato, một người đứng đơn kiện chính phủ Nhật và công ty Tepco, đang trả lời báo chí ngày 26/08 tại Osaka. (Gen Okamoto)
Theo tin chính thức của Cơ quan tái thiết (Fukkō-chō) cho tới ngày 12/08/2013 có tổng cộng 61.355 dân tỉnh Fukushima, Miyagi và Iwate đã rời bỏ nơi sinh sống cũ. Làn sóng người dân đứng đơn kiện chính phủ và Tepco do đó chắc chắn sẽ còn tiếp tục tăng thêm, đòi bồi thường cho những tổn thương tinh thần và tâm lý cũng như thiệt hại vật chất của họ.
Những người dân đã đồng loạt buộc Tepco (3) tội đã gây ra tai nạn nhà máy Điện Hạt Nhân và ban giám đốc điều hành TEPCO có thể sẽ phải ra tòa hình sự vì đã cố tình hạ thấp nguy cơ sóng thần để tránh những khó khăn về mặt xin giấy phép cũng như giảm thiểu chi phí.
Tuy cho tới nay không có trường hợp tử vong do thảm họa nhà máy chính thức được ghi nhận, một báo cáo quốc hội năm ngoái đã kết luận rằng tai nạn Fukushima là kết quả của nền văn hóa "vâng lời phản xạ" Nhật, và đặt nó trong danh mục của những thảm họa nhân tạo, đưa đến việc chính phủ Nhật bị dân kiện vì tội không cung cấp "các biện pháp an toàn đầy đủ" và nhất là vì đã lựa chọn lập trường ủng hộ điện hạt nhân trong chính sách quốc gia của mình.
Mục đích tối thượng của những vụ kiện là gây áp lực buộc chính phủ Nhật phải hòan tòan chấm dứt xử dụng Điện Hạt Nhân để tránh hiểm họa và cấp tốc đẩy mạnh những chương trình năng lượng tái tạo.
Sau những loạt tự tử vì không còn đường thóat của những người nông dân thấp cổ bé miệng khi chính phủ Nhật ra lệnh cấm bán những thực phẩm nhiễm phóng xạ như gạo, sữa, rau, quả....người dân Nhật với dân trí cao đã biết hợp lực để tự bênh vực, và tranh đấu cho sức khỏe, quyền sống của họ và con cháu họ.
Có bao giờ một dân tộc Việt Nam tự nhận là con Rồng cháu Tiên lại có thể có được những quyết định sáng suốt và những hành động trách nhiệm như họ?
Thục Quyên
__________________________________________________________________
(1)http://ajw.asahi.com/article/0311disaster/fukushima/AJ201303120094
(2)http://ajw.asahi.com/article/0311disaster/fukushima/AJ201308270069
(3)http://japandailypress.com/fukushima-victims-file-lawsuit-against-japanese-government-tepco-1224946/

Một chút vui vì đời còn có nhiều người tốt, nhiều người hảo tâm..

Cuộc sống mới của gia đình 'bố ở cống nuôi con đại học'

Căn phòng trọ rộng 12 m2 trở nên chật hẹp khi cả 5 thành viên gia đình thủ khoa ĐH Y Nguyễn Hữu Tiến quây quần bên bữa cơm tối. Người bố Nguyễn Hữu Định từ nay không ở cống hoang nữa mà về nhà sum họp. 
Mâm cơm chỉ có bát canh rau và đĩa đậu phụ rán nhưng ai nấy đều ăn ngon lành.Vài ngày trước cả nhà đã chuyển về sống ở phòng trọ này, nhờ sự giúp đỡ của chủ nhà trọ. Sau khi về huyện Ứng Hòa dự lễ tuyên dương thủ khoa, chiều 30/8 Tiến và mẹ lên Hà Nội, tiện thể “khuân” thêm ít rau, lương thực ở nhà. 
Suốt bữa ăn tối, bà Thanh, mẹ Tiến, ngồi gắp thức ăn cho các con và không quên kể chuyện được nhiều người nhận ra khi đi ôtô. Ăn xong, hai anh em Tiến thích thú khám phá chiếc laptop vừa được nhà hảo tâm tặng. Cậu em hào hứng khoe với cả nhà vừa thi vào lớp cử nhân tài năng của ĐH Bách khoa…
Gần chục năm mưu sinh ở thủ đô, vợ chồng ông Định (thôn Động Phí, Ứng Hòa, Hà Nội) chưa bao giờ nghĩ có ngày cả nhà lại được cùng ăn bữa cơm ấm cúng trong căn phòng sáng điện như thế này. Suốt một thập kỷ lao động tự do, ông Định chỉ biết tới vỉa hè, hiên nhà vệ sinh công cộng hay ống cống tối tăm làm chỗ ngả lưng để nuôi con ăn học.
thu-khoa-1-1377923388.gif
Bữa cơm tối đơn giản nhưng sum vầy ấm cúng của gia đình thủ khoa Nguyễn Hữu Tiến trong căn nhà mới. Ảnh: Bình Minh.
Căn phòng tiện nghi ở chung cư mini trên phố Pháo Đài Láng này được một chủ nhà trọ tốt bụng mời cả gia đình ông Định về ở miễn phí trong 3 năm, sau khi biết được người cha phải ở ống cống để dành tiền nuôi các con học đại học. Ông Định cũng được chủ nhà mời làm quản lý chung cư gồm hơn chục phòng trọ này với lương 2,5 triệu đồng một tháng. 
Ngoài quản lý chung cư, ông Định và các con còn nhận trông xe cho khách ra vào. Số tiền trông xe gia đình ông được giữ cả. Trong phòng, ngoài chiếc giường một và khoảng trống vừa đủ trải thêm chiếc chiếu, ở góc còn có tủ lạnh, tivi được chủ nhà cho mượn. Diện tích còn lại để bếp gas và chiếc bàn đầy ắp sách vở của anh em Tiến.
Hàng tháng, gia đình ông được miễn phí một số tiền điện nước sinh hoạt, wi-fi, dùng quá định mức mới phải trả tiền. Hiện tại, chỉ có vợ chồng ông Định và hai con trai sống ở nơi ngụ cư mới. Cuối tuần, hai chị gái Tiến bắt xe buýt sang chỗ bố mẹ và em chơi.
Ông Định chia sẻ ban đầu rất đắn đo khi nhận được lời mời làm quản lý phòng trọ. "Sau thấy công việc ổn định, có lương, gia đình lại được tạo điều kiện ở miễn phí trong căn phòng khép kín dưới tầng 1, vợ chồng tôi mới tạm yên lòng", người cha cho biết.
thu-khoa-2-1377923388.gif
Lần đầu tiên trong hàng chục năm mưu sinh nằm vỉa hè, sống ống cống hoang, gia đình Tiến mới được ở căn phòng khang trang tại Hà Nội. Ảnh: Bình Minh.
Thủ khoa Tiến đã nhập học được hai buổi. Nhà cách trường tầm 4-5 km, chưa mang được xe đạp từ quê lên, cậu tạm thời đi học bằng xe buýt. Tân sinh viên rất hào hứng với trường lớp và bạn bè mới. Tiến khoe một chị khóa trên còn cho cậu mượn toàn bộ sách vở nên cũng đỡ phần nào.
Tiến cũng được nhiều phụ huynh mời làm gia sư môn Toán, Sinh cho con mình. Do chưa thông thạo đường sá ở Hà Nội nên cậu chưa dám nhận lời. Tiến chia sẻ, ngoài việc học, cậu muốn đi làm thêm để đỡ đần bố mẹ.
Mấy hôm rồi mẹ Tiến nghỉ việc vặt lông vịt ở quê lên Hà Nội lo cơm nước cho hai con trai. Thu nhập của cả gia đình giờ trông vào tiền lương 2,5 triệu đồng hàng tháng và tiền trông xe chung cư. Nhắc tới tiền học phí của cả 4 đứa con học đại học sắp phải đóng, bà tâm sự: “Lo lắm chứ nhưng không sao, ‘cháo nóng húp quanh’. Thiếu đâu vợ chồng tôi lại vay mượn rồi trả dần. Miễn là cả 4 đứa còn học được thì chúng tôi vẫn cho học”.
thu-khoa-3-1377923388.gif
Thủ khoa Nguyễn Hữu Tiến với chiếc máy tính xách tay vừa được nhà hảo tâm tặng. Kế hoạch của chàng trai là sẽ đưa xe đạp lên Hà Nội để đi học và đi dạy thêm kiếm tiền phụ giúp bố mẹ. Ảnh: Bình Minh.
Quay sang chồng, bà chia sẻ mong muốn lo cho hai đứa con gái học để sau này cuộc sống đỡ vất vả như bố mẹ. Nhiều người từng khuyên ông bà chỉ nên đầu tư cho hai con trai, còn con gái “học ít thôi” rồi làm “vài chục mâm” (cưới) là xong. Bỏ ngoài tai những lời đó, vợ chồng ông Định vẫn quyết tâm chắt chiu cho các con ăn học.
Mẹ Tiến tâm sự, hồi lớp 2, lớp 3, hai anh em Tiến và Tiền xin bố mẹ cho học lớp chọn như các chị. Biết học lớp chọn sẽ tốn kém hơn, cả hai bảo mẹ “ghi sổ nợ”, sau này thành tài sẽ báo đáp. Tới giờ, bà Thanh vẫn nhắc đến chuyện “ghi sổ nợ” từ cấp 1 cho tới đại học của hai con như câu chuyện vui.
Có việc làm, lại không phải lo chỗ ở, nhìn các con vui vẻ, vợ chồng ông Định mừng vui lẫn lộn. Công việc quản lý chung cư nhàn hạ nên ông Định dành cho vợ, còn mình thì tính vẫn làm nghề cũ, ra đường bơm vá xe, ai thuê gì làm nấy kiếm thêm ít tiền.
Với số điểm 29,5, Nguyễn Hữu Tiến trở thành thủ khoa trong kỳ thi tuyển sinh 2013 của ĐH Y Hà Nội. Cậu em song sinh với Tiến là Nguyễn Hữu Tiền cũng thi đỗ vào ĐH Bách khoa Hà Nội.
Tiến và Tiền luôn là học sinh giỏi toàn diện, đoạt giải Nhì môn Toán cấp thành phố. Bản thân Tiến nhiều năm được chọn là học sinh tiêu biểu cho trường THPT Ứng Hòa để tham gia các kỳ tuyên dương gương học tốt của thành phố. Hai chị gái của Tiến hiện cũng là sinh viên ở Hà Nội.
Với 6 miệng ăn và 4 người con đi học, gia đình Tiến là một trong những hộ cận nghèo của xã. Để có tiền cho con đi học, mẹ Tiến nhổ lông vịt thuê từ đêm đến sáng, phụ hồ kiếm thêm. Bố Tiến, ông Nguyễn Hữu Định, chấp nhận cuộc sống màn trời chiếu đất ở Hà Nội suốt 10 năm để dành dụm gửi tiền về nuôi con. Để tiết kiệm, ông Định ngủ dưới gầm cầu, vỉa hè, dưới hiên nhà vệ sinh công cộng hay trong ống cống bỏ hoang.
Bình Minh