Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

Kinh tế củ mài ăn xuông

Ngô Nhân Dụng 

Trong hai tuần rồi, mục này trình bày những bước cải tổ kinh tế mới của đảng Cộng sản Trung Quốc. Chúng ta đã thấy, Tập Cận Bình đang cố thay đổi cơ chế để “thị trường hóa” nền kinh tế nhiều hơn. Còn ở Việt Nam thì họ thấy sao?
Hãy nghe ông Bùi Quang Vinh, bộ trưởng Kế hoạch và Ðầu tư nói chuyện ở Quốc hội vào cuối tháng Mười, năm 2013.

Ông Vinh tuyên bố: “Việt Nam phải đổi mới, không đổi mới thì không tiến lên được. Tôi đã báo cáo trước chính phủ…

Nhiều thứ lộn xộn, mệt mỏi lắm, nên tôi nói với các đồng chí là nếu chúng ta không đổi mới thì chúng sẽ chết thôi, chúng ta sẽ củ mài ăn xuông thôi.” Nghe ông Vinh nói, thấy là ở nước ta cũng có nhiều người đồng ý phải thay đổi cơ chế. Nhưng không làm được. Tại sao? Cũng ông Bùi Quang Vinh nói: “Bộ máy nhà nước xây dựng chính sách mà dốt thì làm sao có chính sách tốt được.”

Ông Bùi Quang Vinh đã thành khẩn khai báo với Quốc hội về công việc của ông kể từ khi lên làm bộ trưởng, cuối năm 2011. Nói chung: Bi đát. Ông cũng biết rằng: “Chúng ta phải đổi mới căn bản, triệt để thể chế kinh tế của chúng ta… Thể chế kinh tế ở đây là gì, là tạo ra môi trường cho tất cả mọi thành phần kinh tế để người ta có điều kiện thuận lợi nhất để phát huy tất cả những gì trong khả năng người ta có thể làm được, để cho mỗi một chủ thể kinh tế mang toàn bộ tài năng, tâm huyết của mình ra làm cho đất nước phát triển.” Nhưng đảng Cộng sản Việt Nam chưa dám đổi mới như vậy. Chính ông Vinh thú nhận: “Nền kinh tế của chúng ta chưa thể thay đổi được. Gọi là tái cơ cấu nhưng đã làm được gì đâu mà tái cơ cấu, mới loe hoe thôi.”

Vì tình trạng “cải tổ loe hoe” như thế, cho nên ông Vinh cũng báo động: “Chúng ta sẽ tụt hậu rất nhanh so với các nước bên cạnh. Chúng ta còn đang lo lắng là chúng ta tụt hậu so với những nước mà trước đây, bây giờ không dám so với Thái Lan, Indonesia, Malaysia đâu, tôi đang lo rằng là (sẽ tụt hậu) cả với những nước Campuchia, Lào…”

Cơ chế kinh tế Việt Nam hiện vẫn bị đảng Cộng sản kìm hãm theo lối kinh tế chỉ huy từ thời chịu ảnh hưởng của Stalin và Mao Trạch Ðông; tức là “bao cấp.” Thí dụ, giá điện được bao cấp cho nên rẻ, chỉ bằng 70% giá trên thị trường thế giới.

Cho nên người nước ngoài không ai bỏ tiền đầu tư vào ngành điện. Nhưng, “những ngành như xi măng, thép nó nhảy vào ào ạt, không cản được,” lời ông Vinh nói. Tại sao: Vì các xí nghiệp này đều dùng điện trong công việc sản xuất. Họ kiếm được lời chính là vì họ được hưởng giá điện rẻ. Ông Vinh phân tích: “Nhà nước bù cho điện thì doanh nghiệp nước ngoài và trong nước lấy tất. Nhân dân không được gì, nhà nước thì mất đơn mất kép. Ông hỏi: “Vậy xã hội chủ nghĩa ở đâu?”

Và ông tự trả lời: “Hội đồng lý luận cứ tranh luận mãi, cứ muốn tìm ra mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cứ loay hoay mãi mà có tìm ra đâu.”

Làm bộ trưởng lo chuyện đầu tư, nhưng ông Vinh thú thật rằng số vốn đầu tư ở nước ta đang tụt dần, tụt dần. Vì nhà nước cạn tiền! Ông Vinh nói: “Ngân sách đang thâm hụt một cách nghiêm trọng, chưa từng có.” Ông cho các con số. Trong những năm từ 2006 đến 2010, tổng chi đầu tư phát triển chiếm khoảng 37% đến 40% của GDP (Tổng sản lượng nội địa).

Nhưng “năm 2013 chỉ còn 29,1% tổng đầu tư toàn xã hội, tức là mọi nguồn vốn huy động của dân, tư nhân, nhà nước, đầu tư nước ngoài chỉ có được như thế.” Không có tiền, cho nên, “Từ lúc tôi lên bộ trưởng,… toàn là đi chữa cháy cái cũ đang làm dở…” Ông Vinh nhậm chức đã được hai năm, mà chính phủ không có mục đầu tư nào mới cả. Trong khi đó những “dự án đầu tư từ những năm trước để lại thì suốt nhiệm kỳ của tôi gánh vác cũng không hết.”

Khi chính quyền Việt Nam không có tiền góp làm vốn, thì cũng mất luôn không hưởng được những món tiền do các nước khác giúp để đầu tư, gọi là ODA, cho vay với lãi suất rất thấp. Việt Nam không có tiền góp vốn đối ứng, khoảng hai đến ba phần mưới của tổng số vốn, thì sẽ không thể rút số tiền mà họ đã hứa cho! Hậu quả là có thể sẽ mất 16-17 tỷ đô la Mỹ, vi người ta cho mà không được dùng.

Ông Vinh hỏi: Mà đây là những công trình đầu tư nào? Trả lời: “Ðó là cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống, cầu Nhật Tân, sân bay Nội Bài, sân bay Long Thành… Những công trình khổng lồ.” Nếu chính phủ Việt Nam không thể góp 20%, 30% tiền vốn thì các công trình đó sẽ không được bắt đầu. Ông Vinh nói thêm: “Cả đất nước có mỗi cái đường Quốc lộ 1 và quốc lộ 14 nói mãi mà không làm được.” Mà các con đường đó, “thật ra đến hôm nay phải xong rồi.”

Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chấp nhận mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho năm 2014 chỉ là 5.8%. Nhưng ông Vinh lo rằng tỷ số khiêm tốn này cũng không đạt được; vì tổng số đầu tư thấp quá. Vì “mức 5,8% thì cũng chỉ đạt trong điều kiện tổng vốn đầu tư toàn xã hội phải đạt từ 30% trở lên,” ông Vinh giải thích. Với “dự báo tổng mức đầu tư toàn xã hội (năm 2014) chỉ còn 26-27% thôi… như vậy thì không bao giờ chúng ta có thể đạt được mức tăng trưởng 5.8%. Chúng tôi đã tính ra là cố gắng lắm thì chỉ đạt được 5%.”
Ông Vinh nhắc đến những thứ cần đầu tư nhiều nhất ở Việt Nam: giáo dục, y tế; cả hai đều là đầu tư vào con người. Ông nhận xét rất đúng: Trong đời sống kinh tế hiện nay, tài nguyên quan trọng nhất là con người. Nhân đó, ông cũng cho biết:

“Tôi nói thật 5 năm nữa hết dầu khí là không còn cái gì để bán mà thu tiền vào. Chúng ta đào bới tài nguyên thô đi bán hết rồi. Dầu khí từ 18 triệu tấn, xuống dần 17, 15, 14 rồi 1 triệu và cuối cùng là (sẽ) đóng cửa. Và chúng ta sẽ tụt hậu.”

Nhưng trong nền kinh tế Việt Nam bây giờ, hai ngành giáo dục và y tế đang xuống, cũng vì đảng Cộng sản chủ trương can thiệp, không cho thị trường tự do điều chỉnh. “Vậy thì làm sao mà thu hút và sử dụng nhân tài” và kết luận: “Một nền kinh tế như thế thì không bao giờ có thể phát triển được.”

Khi ông Bùi Quang Vinh chê bộ máy nhà nước làm chính sách dốt, cho nên không làm sao có chính sách tốt được, chắc ông cũng gồm cả một bánh xe trong bộ máy làm chính sách đó, là quốc hội. Ông Vinh nhắc nhở các đại biểu quốc hội họ đã nhầm lẫn dốt nát như thế nào. Năm ngoái, ông Vinh đưa sang quốc hội một dự thảo nghị quyết phát hành trái phiếu chính phủ; nhưng “Ðến khi Quốc Hội thông qua chả hiểu thế nào nó lại (biến) thành trái phiếu Chính phủ bảo lãnh” (thêm có hai chữ, bảo lãnh). Chỉ có thể giải thích là các ông bà ở quốc hội nghị gật chẳng thấy hai thứ đó khác nhau thế nào. Ông Bùi Quang Vinh phải dạy cho họ một bài học tại chỗ: Một bên là các trái phiếu phính phủ, do chính phủ đứng tên vay tiền. Bên kia là trái phiếu phính phủ bảo lãnh, tức là do các công ty đứng vay, nhưng được chính phủ bảo đảm sẽ đền nếu người vay không trả được nợ. Các ông bà quốc hội không phân biệt được hai thứ, cho nên trông gà hóa quốc! Bùi Quang Vinh kể, “Tôi bảo anh Giàu là ông đọc thế nào mà nó lại sửa mẹ nó thành trái phiếu chính phủ bảo lãnh. Hai cái khác nhau hoàn toàn!… Vậy mà Quốc hội thống nhất 90% chả mấy ai phản đối.”

Một ông bộ trưởng nói trước Quốc hội mà lại văng tục “nó lại sửa mẹ nó thành…” thật là cảnh hiếm khi xảy ra. Nhưng đứng trước cái dốt nát của con người, rất đông người, lắm lúc cũng đáng nổi giận mà văng tục thật! Ông Giàu kể trên chắc là ông Nguyễn Văn Giàu, đại biểu tỉnh An Giang, chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Ông Giàu được nghe văng tục; vì các dự luật về kinh tế phải đi qua bàn giấy của ông trước. Nhưng chính ông Giàu này đã từng làm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam! Không lẽ một thống đốc Ngân hàng Nhà nước mà không phân biệt được hai loại trái phiếu đó khác nhau hay sao?
Cái dốt của bộ máy chính quyền không nằm riêng trong quốc hội mà ở khắp mọi nơi. Như ông Vinh kể, bây giờ họ bầy đặt sẽ bỏ phiếu tín nhiệm các bộ trưởng. Ðiều mâu thuẫn là “thể chế thì một đảng, lại học bỏ phiếu theo kiểu phương Tây đa đảng!”

Trở lại câu hỏi trên đầu bài: Trung Cộng tiến thêm một bước trên đường cải tổ kinh tế, còn Việt Nam thì sao?

Ông Bùi Quang Vinh có câu trả lời. Ông than rằng ông không có quyền quyết định: “Mình có quyết được cái quái gì. Mình đề xuất bao nhiêu chế độ, chính sách nhằm đổi mới đất nước, cuối cùng chả thấy đâu. Vậy thì quyết cái gì? Làm sao mà chịu được, làm sao mà đổi mới được.”

Nếu không đổi mới ngay bây giờ thì trong tương lai, nước Việt Nam sẽ chịu thua kém không những các nước Thái Lan, Malaysia, Indonesia mà còn lẹt đẹt đi sau cả Lào và Campuchia. Ðất nước đang tiến tới nền Kinh tế Củ mài Ăn xuông, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ông Bùi Quang Vinh đã báo trước.

Tưởng Năng Tiến - Phiên bản tình yêu

Tôi (trộm) nghe nói rằng quân tử ba ngày mà không đọc sách thì diện mạo dơ dáng, và trò chuyện khó nghe. Tôi vốn bẩm sinh mặt mũi không mấy dễ coi, và chuyện trò thì vô cùng nhạt nhẽo nên (lắm khi) đến vài ba năm cũng chả nhìn đến một cuốn sách nào mà vẫn cứ sống phây phây – chả có (trăng) sao gì ráo trọi.
phien ban tinh yeu
Tháng trước, tôi được nhà xuất bản Tiếng Quê Hương gửi cho một bộ sách to đùng, dầy hơn ngàn trang (thấy mà ớn chè đậu) tựa là Phiên bản tình yêu [1]. Bìa trước và bìa sau đều có hình của hai phụ nữ khỏa thân, và (hơi) gợi dục!

Tên tác giả (Vũ Biện Điền) thì hoàn toàn xa lạ. Trong tình yêu, cũng như tình dục, tôi rất ngại chuyện “phiêu lưu” nên lẳng lặng đẩy luôn cái “của nợ” trông rất “ướt át” này vào một góc!

Tuần rồi, chả may,  giáp mặt người tặng sách – nhà báo Uyên Thao:
“Cậu nghĩ sao về cuốn Phiên bản tình yêu của Vũ Biện Điền?”
Tôi đỏ mặt, ấp úng: “Dạ, em chưa đọc chữ nào.”
Dù không nghe nhưng tôi cảm được một tiếng thở dài (cố nén của người đối diện. Với đôi chút áy náy, ngay tối hôm ấy, tôi đọc hơn bốn trăm trang sách. Sáng hôm sau, cáo bệnh, nằm nhà “chơi” luôn hơn bẩy trăm trang nữa với rất nhiều ngạc nhiên và thích thú.
Mấy thế hệ người Việt liên tiếp vừa qua, ít nhiều, đều là nạn nhân của thời cuộc hay của chế độ hiện hành nhưng chắc chưa có ai ngồi cặm cụi (nhiều năm trời) để ghi lại những nhận xét tỉ mỉ và chính xác của mình về “những loại nhà nước” hiện nay – như Vũ Biện Điền:
Trong số đó  đáng kể hơn cả là nhà nước Đảng, còn gọi là nhà nước Quỷ hoặc Siêu Chính phủ vì nó biến hóa như một cái bóng ma khổng lồ tác nghiệp lên tất cả các nhà nước khác. Ở trung ương, đứng đầu nhà nước này có Tổng Bí thư, nội các cơ mật là Bộ Chính trị. Ở địa phương, đứng đầu nhà nước này có Bí thư Tỉnh ủy, nội các cơ mật là Ban Thường vụ… Nó là đầu mối của mọi nhũng nhiễu, tai họa và tội ác nhưng rất có tài bẻm mép phủi tay.
Tiếp theo là nhà nước Hành chánh, còn gọi là nhà nước Hành dân vì bộ nào của nhà nước này cũng có chức năng làm dân khổ cực do đặc tính cửa quyền, nó vâng lệnh Đảng như một thứ đầu sai quản lý đất đai và điều hành nô lệ cho chủ nhân, thu gom vô tội vạ tài sản trong nhân dân, sau khi trích nạp cho chủ, nó được quyền chi tiêu xả láng. Ở trung ương, đứng đầu nhà nước này có một Chủ tịch không thực quyền, nội các cơ mật là Thủ tướng và các Bộ trưởng. Ở địa phương, đứng đầu nhà nước này có Chủ tịch, nội các cơ mật là Ban Thường trực và các Giám đốc sở…
Thứ ba là nhà nước Quốc hội, còn gọi là nhà nước Phường Chèo hoặc nhà nước Kỳ Nhông vì đặc tính hát ca véo von theo cách dàn dựng của Đảng, nhanh nhạy thay vai đổi màu tùy từng vị trí – ở trung ương nó là lập pháp, ở tỉnh nó là hành pháp, ở tòa án nó là tư pháp. Hình thái nhà nước Quốc hội về đến địa phương gọi là Hội đồng Nhân dân, đặc tính véo von và đổi màu vẫn lưu cữu.….
Thứ bốn là nhà nước Mặt trận Tổ quốc, còn gọi là nhà nước Chịu Trận, vì nó là một thứ bung xung vĩ đại hứng đòn – phản đòn – đỡ đòn cho các nhà nước kia. Nhà nước này còn có một chức năng định kỳ như một lò hộ sinh, phù phép hiệp thương ba lên bốn xuống trong mỗi mùa bầu cử, cho ra những đứa con đúng kiểu mẫu đặt hàng của Đảng… Quá trình vận động, thành tích cao nhất của Mặt trận Tổ quốc là tạo ra Mặt trận Việt Minh trước 1954, và Mặt trận Giải phóng Miền Nam trước 1975 – hai lá bài này khá ăn khách, nhưng tới hồi lật tẩy thì vô cùng bỉ ổi!
Thứ năm là nhà nước Quân đội, còn gọi là nhà nước Vũ trang… Nhà nước này làm bằng sức người và của nả của nhân dân nhưng chỉ trung với Đảng. Nên chi nó khu trú ở đâu là lãnh thổ riêng ở đó, từa tựa như một quốc gia trong một quốc gia. Khi cần, nó mạo danh quốc phòng, đưa quân chiếm hữu đất đai, rồi đặt ra định chế tự cấp tự quản… Ở trung ương, đứng đầu nhà nước này có Quân ủy, hội đồng cơ mật bao gồm các tổng cục chuyên ngành… Nhà nước này hội đủ tính chất phong kiến trung cổ La Mã, sỹ quan là giai cấp đảng viên gọi là cán bộ, bổng lộc hậu hĩ – hạ sỹ quan và lính (con em nhân dân thi hành nghĩa vụ), gọi là chiến sỹ, chỉ được hưởng sinh hoạt phí vừa đủ cầm hơi tới ngày phục viên…
Thứ sáu là nhà nước Công an, còn gọi là nhà nước Tam Đại vì mỗi thành viên phải có lý lịch ba đời bần cố,… vừa nghèo vừa ngu từ đời ông đến đời cháu. Đây là nhà nước bán vũ trang, thừa quan thiếu lính, quyền hành vô giới hạn, bổng lộc vô bờ bến. Không những nhân dân kinh sợ mà một số viên chức các nhà nước khác cũng chùn bước trước những đặc quyền đặc lợi của các ấm tử viên tôn. Lịch sử nhân loại từ xưa đến nay, chỉ dưới thời phát xít Đức-Ý-Nhật và các nước xã hội chủ nghĩa mới có thứ nhà nước kỳ lạ này. Nó đồng hóa mình với đảng chuyên chính, tự quyết tất cả và không chịu một quyền lực nào ràng buộc, một tổ chức nào kiểm soát.
Vũ Biện Điền cũng “tính sổ” rành mạch từng vụ một, cùng với  tên tuổi rõ ràng của những tên chính phạm.  Xin đơn cử vài vụ tiêu biểu:
Công hàm 1958:
Tôi mới lần ra danh sách Bộ Chính trị Đảng CSVN từ 1951-1960. Đó là Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, và Lê Văn Lương. Phạm Văn Đồng chỉ là nhân vật hàng thứ sáu, chỉ bậc trung thôi… Án chung không thể tội riêng, một mình Phạm Văn Đồng mà dám qua mặt chủ tịch Hồ Chí Minh a? Dám qua mặt Đảng Cộng sản a?
Thảm sát Mậu Thân 1968
Tôi đào được danh sách của Bộ Chính trị nhiệm kỳ ba của Đảng Cộngsản Việt Nam 1960 -1976. Nhìn chung, chẳng ai xa lạ, Hồ Chí Minh Chủ tịch, Lê Duẩn Bí thư Thứ nhất, Trường Chinh Chủ tịch Quốc hội, Phạm Văn Đồng Thủ tướng, Phạm Hùng Phó Thủ tướng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng, Nguyễn Chí Thanh mất năm 1967, Nguyễn Duy Trinh Phó Thủ tướng, Lê Thanh NghịPhó Thủ tướng, Hoàng Văn Hoan Phó Chủ tịch Quốc hội, Trần Quốc Hoàn và Văn Tiến Dũng, hai thành viên này được bổ sung từ năm 1972.
Cách nhìn của Vũ Biện Điền về những người đồng thời với mình – qua lời những nhân vật của ông – cũng khá khắt khe, và rất có thể gây ra tranh cãi gắt gao:
Nhưng người Hà Nội đến lạ! Họ biết Xã hội Chủ nghĩa là cái bánh vẽ cực kỳ thối tha mà cứ hớn hở ngồi vào lột lá bóc ăn và xơn xớt khen ngon khen ngọt đến nỗi người ngoài nhìn vào phát thèm. Họ biết Hồ Chí Minh gian manh xảo trá mà cứ ngoác miệng ngợi ca lúc ông ta còn sống và khóc khô nước mắt khi ông chết. Họ biết bè lũ kế thừa đang đi tiếp con đường của ác quỉ mà vẫn tranh nhau làm tôi mọi, cúc cung tận tụy. Họ biết lịch sử đang rao giảng là thứ cực kỳ giả dối nhưng học thuộc vanh vách, nếu có ai mạnh dạn đính chính thì phồng mang trợn mắt, cãi cối cãi chầy như sợ mất đi độc quyền làm thân sáo vẹt. Họ nhận quá nhiều đau khổ do độc tài đảng trị nhưng không dám đối mặt với kẻ thù cứ ươn hèn đổ vạ cho phong kiến, cho tư sản, cho địa chủ, cho Mỹ Ngụy, xua con em vào chết ở miền Nam mà không biết đang hiến máu cho hung thần và đang hy sinh cho một thiên đường mù…
Ngoại trừ một số rất ít sớm thức tỉnh như Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Trần Xuân Bách, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang, Dương Thu Hương, Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc… tôi chưa thấy một tổ chức nào bi phẫn, chưa thấy một đoàn thể nào muốn nắm tay nhau liên kết xuống đường biểu tình, họp mít-tinh  vạch mặt chỉ tên bè lũ tay sai Nga – Hoa, tập đoàn phi nhân bản, phản nhân quyền, bọn bán nước cầu vinh …
Một tác phẩm mang đậm mầu sắc chính trị như thế sao lại có cái tựa trữ tình và ướt át là Phiên bản tình yêu? Trong phần lời tựa, nhà văn Trần Phong Vũ đã giải thích (phần nào) như sau:

Như nhan sách, Phiên bản tình yêu là một chuyện tình –mà là một chuyện tình xuyên thế hệ, mang nhiều kịch tính với những tình tiết éo le, ngang trái, chuyển biến bất ngờ. Nhưng Tình Yêu ở đây chỉ là lớp vỏ, là mặt nổi của một tảng băng sơn giữa đại dương mờ mịt …

Cuộc tình xuyên thế hệ ở đây có thể được hiểu như một thứ “thang” để dẫn “thuốc”, một chất xúc tác, tạo hấp lực lôi cuốn người đọc đi sâu vào những âm mưu, những màn đấu đá, những trò lường gạt, thay bậc đổi ngôi trong một xã hội người ta nhân danh đủ thứ với những mặt nạ khóc cười, hỉ nộ đã được mã hóa khi thực chất chứa đầy tâm thái tham lam, ích kỷ, độc ác, chỉ vụ thỏa mãn những lợi ích cá nhân, bè nhóm, bất chấp sự an nguy của tiền đồ quốc gia dân tộc. Và trong chừng mực nào đó, với tư cách người chứng, tác giả đã đạt được mục đích của ông.

Tôi cũng tin là Vũ Biện Điền hoàn toàn đạt được mục đích của mình nhưng e rằng ông không thành công (lắm) khi dùng hình thức tiểu thuyết như “một chất xúc tác, tạo hấp lực lôi cuốn người đọc đi sâu” vào “chuyện tình xuyên thế hệ” này. Những nhân vật trong Phiên bản tình yêu (e) hơi quá nhiều kịch tính, nhất là qua những mẩu đối thoại rất dài và (rất) trí tuệ nhưng cũng rất xa lạ với đời thường hay đời thật.
Tất nhiên, đây chỉ là suy nghĩ hoàn toàn chủ quan (và có thể là hoàn toàn sai lạc) của một thường dân mà trình độ thưởng ngoạn nghệ thuật còn nhiều giới hạn.  Mong được đón nhận những nhận định khác, từ những người đọc khác, về công trình tâm huyết và đồ sộ này của Vũ Biện Điền.
Tưởng Năng Tiến


[1] Quý độc giả muốn có tác phẩm xin viết chi phiếu 25 MK (20 MK tiền sách + 5 MNK cước phí bưu điện) trả cho VLAC/TQH (Vietnamese Litterary & Artistic Club of Washington) và gửi về địa chỉ: Mr Trần Phong Vũ, 4 Sand Pointe, Laguna Niguel, CA 92677. Liên lạc: tphongvu@yahoo.com. ĐT: (949) 485 – 6078.

Xờ sờ - “sờ chim” & “sờ bướm”

Cười một chút cho đời đỡ khổ...
Tình trạng nhầm lẫn giữa chữ X và chữ S quá phổ biến. Ngay cả trong sách, báo, công văn, giấy tờ… đến các biển báo công cộng thỉnh thoảng vẫn có sự nhầm lẫn tệ hại này. 
VD: Đúng ra là “THÔ SƠ” thì biển báo này lại viết là “THÔ  XƠ”
 
 
Bộ GDĐT đã phải yêu cầu giáo viên giảng giải, phân biệt thật kỹ S và X cho các em nhỏ ngay khi mới bước vào trường. Để dễ phân biệt, giáo viên gọi S là “sờ nặng” vì phát âm nặng hơn, X là “sờ nhẹ” vì phát âm nhẹ hơn. Các em vẫn thấy khó phân biệt giữa S và X.
 
Từ hình dáng của 2 chữ cái, giáo viên sáng kiến vẽ thêm vào chữ S để thành hình 1 con chim và S được gọi là “sờ chim”, cũng có nghĩa là “sờ nặng” . Còn chữ X, giáo viên vẽ thêm cánh trông giống con bướm và X được gọi là “sờ bướm” , cũng có nghĩa là “ sờ nhẹ”.Từ đó giáo viên bắt đầu áp dụng để các em dễ nhớ và dễ phân biệt:
GV hỏi : - Sờ chim là sờ gì ?
Các em: - Sờ chim là sờ nặng ạ !
GV hỏi : - Sờ bướm là sờ gì ?
Các em: - Sờ bướm là sờ nhẹ ạ !
 
GV lại viết chữ S và chữ X to lên bảng và khoang tròn chữ X. Lúc này chữ X nằm bên trong vòng tròn còn chữ S nằm ngoài vòng tròn.
 
GV hỏi : - Sờ trong là sờ gì ?
Các em: - Sờ trong  là sờ bướm  ạ !
GV hỏi : - Sờ ngoài  là sờ gì ?
Các em: - Sờ ngoài  là sờ chim  ạ !
 
Áp dụng vào các câu, từ cụ thể
 
- GV hỏi : - Sung sướng là sờ gì ?
-  Các em: - Sung sướng là sờ chim ạ !
- GV hỏi : - Xấu Xa là sờ gì ?
-  Các em: - Xấu Xa là sờ bướm ạ !
- GV hỏi : - Sản Xuất là sờ gì ?
-  Các em: - Sản Xuất là sờ cả chim, sờ cả bướm ạ !
 
Theo cách đó, tự các em phân biệt S và X trong mọi câu-từ khác như :
 
  -  Sẵn sàng là sờ chim
  -  Xa xỉ  là sờ bướm
  -  Xuyên Suốt  là sờ cả bướm , sờ cả chim 
  -  Sâu Sắc  là sờ chim
  -  Xinh xắn là sờ bướm
  -  Xuất Sắc là sờ cả bướm , sờ cả chim 
  -  Sáng Suốt là sờ chim
  -  Xao Xuyến là sờ bướm
  -  Xài Sang  là sờ cả bướm , sờ cả chim 
  -  Lịch Sự (*) là sờ chim
  -  vân vân...
 
Cứ thế các em phân biệt rất rõ S và X.
 
Tuy nhiên 1 em lại hỏi: “ Thưa thầy, bố em thường gọi thủ trưởng là Sếp còn mẹ em thì gọi là Xếp. Vậy thủ trưởng là Sờ gì ạ ?
 
Thầy (suy nghĩ 1 lúc) trả lời: “ Đã là thủ trưởng rồi thì Sờ gì mà chẳng được ! Chính vì thế mà ai cũng muốn lên làm lãnh đạo đấy các em ạ ! ”
 
***********************
 
           (*) Trong khi lớp của thầy đang học phân biệt S và X với từ  « Lịch Sự » là Sờ Chim thì lớp bên cạnh, một cô giáo lại giảng nghĩa về từ «  Lịch Sự » (Polite) 
            Cô giáo hỏi :
            - Các em cho cô biết lịch sự là gì ?
            Qủa là câu hỏi khó với học sinh lớp 1. Các em suy nghĩ mãi rồi Thắng giơ tay xin trả lời :           
            - Thưa cô, lịch sự là cái ở trong quần của bố em ạ !
            Cô giáo đỏ mặt.
            - Thắng , sao em lại trả lời như vậy ?
            - Thưa cô, vì mỗi lần có khách tới nhà, em nghe mẹ luôn bảo bố là mặc quần vào cho khỏi mất lịch sự. Như vậy rõ ràng là lịch sự là cái ở trong quần của bố em và nó dễ bị mất ạ !
 
************************
Miền Bắc có 1 số nơi lẫn lộn hai chữ N và L nữa - Họ viết đúng nhưng phát âm lại nghịu  L và N. Họ viết được : “Nó hót líu lo” nhưng lại đọc là “Ló hót níu no”. Họ viết được “ Thằng ấy luôn luôn năng nổ”  ” nhưng lại đọc là “Thằng ấy nuôn nuôn lăng lổ”. ”Lòng lợn luộc”  thì nói là “nòng nợn  nuộc” vv…
 
PVT: Có một ông lãnh đạo lên lớp giảng cho các cán bộ cấp dưới. Ông này nói ngọng như sau:
 
Bác đã dạy “Nàm cán bộ thì phải no trước cái no của dân, phải vui sau cái vui của dân”.
 
Người Tháiland và người Nhật không nói được chữ R mà  mà chữ R  họ phát âm thành chữ L. “ Road nói là “Load” , “Salary” nói là “Salaly”… Chữ L thật lắm chuyện.  Ai có chuyện về 2 chữ cái này thì kể cho vui nào ? )
 
PVT: Anh Hiền chắc biết anh chuyên gia Kohei Toda đang làm việc cho WHO ở Hà Nội hiện nay. Anh Toda lấy bằng tiến sỹ ở London.
 
Hồi anh còn làm ở Viện Pasteur TP.HCM, nhiều lần em thảo luận với anh ta về Thanh toán bệnh bại liệt. Anh trả lời “You are Light” thay vì “You are Right”. Hôm nào gặp anh cứ để ý mà xem.
 
Bàn tiếp về CHIM và BƯỚM
 
Việt Nam chúng ta là CHIM, chứ không phải là Bướm. Vì bản đồ Việt Nam là sờ nặng S.
 
 Phân biệt được Chim nhà, Chim rừng, Bướm nhà, Bướm rừng:
 
Bướm rừng sờ cái là bay
Bướm nhà sờ cái lăn quay ra giường
Chim rừng bóp cái chết ngay
Chim nhà mà bóp càng ngày càng to
 
Chim rừng có cánh, nhiều lông
Chim nhà không cánh nhưng lông vẫn nhiều
 
Bướm rừng như chiếc lá đa
Bướm nhà như chiếc bàn là Liên Xô
 
Chim khôn chim ngẩng cao đầu
Bướm khôn bướm đậu trên đầu con chim
 
Bướm chim là chuyện đời thường
Chim bay, bướm lượn vấn vương suốt đời
 
Mong sao tất cả mọi người
Bướm chim đều khỏe tiếng cười dài lâu
 
           (Nguyễn Thành Đông)

Những Tình Huống Trung Quốc Tấn Công Việt Nam

Đào Văn Bình

Việc Trung Quốc hạ thủy và đưa vào sử dụng tàu sân bay Thi Lang và ngày 22/11/2013 thử nghiệm thành công máy bay chiến đấu tàng hình không người lái J-20 (có hình dạng giống như B-2 của Mỹ) tạo thêm lo sợ cho khu vực Đông Nam Á và trực tiếp đe dọa Việt Nam. Trực tiếp đe dọa Việt Nam có nghĩa là Trung Quốc có khả năng tấn công Việt Nam bất cứ lúc nào bằng hỏa lực áp đảo và đánh chiếm luôn phần còn lại của Trường Sa khi đó làm chủ Biển Đông. Tháng 10/2013, Trung Quốc lại tiến hành một cuộc tập trận quy mô mang tên “Sứ Mệnh Hành Động 2013” ngòai khơi Phúc Kiến với sự phối hợp của Quân Khu Quảng Đông và Hạm Đội Hải Nam thực tập bắn đạn thật với hỏa tiễn không-đối-hải và ngược lại để răn đe Nhật Bản và Đông Nam Á.

Trước tình hình đó, câu hỏi đặt ra ở đây là kế họach “Tái Cân Bằng Lực Lượng” (trước gọi là Xoay Trục) và sự hiện diện của Hàng Không Mẫu Hạm Washington của Mỹ tại Biển Đông có ý nghĩa gì? Cho đến giờ phút này vì Hoa Kỳ là “con nợ” của Trung Quốc, do kinh tế suy thoái, làm ăn buôn bán , hợp tác chiến lược với Trung Quốc, mới đây lại tập trận hải quân chung với Trung Quốc tại Hạ Uy Di (Hawaii) cho nên luôn luôn tuyên bố “không đứng vào phe nào” trong tranh chấp Biển Đông. Việc tàu sân bay Washington ghé ngòai khơi Đà Nẵng năm 2011, mời các giới chức Việt Nam lên thăm và mới đây vào Tháng 11, 2013 lại ghé thăm Mã Lai, Singapore và Phi Luật Tân …chỉ có tác dụng trấn an các quốc gia Đông Nam Á vì Hoa Kỳ cần sự hậu thuẫn của các quốc gia này, hiện tại cũng như khi xảy ra cuộc chiến tranh với Trung Quốc trong tương lai xa. Do đó khi Hải Quân Trung Quốc tấn công Việt Nam, tàu sân bay Washington nếu đựợc gửi tới Biển Đông hay có đóng tại căn cứ Oyster Bay, Palawan đang được xây dựng cách Trường Sa khoảng 160km…thì cũng chỉ đứng nhìn vì không có lý do gì Hoa Kỳ lại tấn công Trung Quốc khi Trung Quốc không đụng chạm đến họ (Ngoại trừ Phi Luật Tân vì Phi Luật Tân có hiệp ước an ninh hỗ tương với Hoa Kỳ). Chuyến viếng thăm Trung Quốc ngày 17/8/2011 của Phó Tổng Thống Joe Biden, đem theo cả đội bóng rổ đấu giao hữu rồi cuộc gặp gỡ giữa Ô. Tập Cận Bình và Obama vào Tháng 2, 2012 cho thấy Hoa Kỳ thực sự muốn hòa dịu với Trung Quốc và không muốn tình hình căng thẳng thêm. Do đó niềm tin cho rằng tàu sân bay Washington và tàu chiến Hoa Kỳ sẽ bảo đảm nền an ninh, biển đảo cho Việt Nam là hoàn toàn sai lầm.Việt Nam phải tự lo liệu lấy. Đó là sự thực hiển nhiên.

Vì Trung Quốc không phải là một cường quốc có trách nhiệm và tuân thủ luật pháp quốc tế mà là một con khủng long đầy tham vọng, cho nên có thể làm bất cứ điều gì mà một quốc gia văn minh không bao giờ dám làm. Thực ra thì không ai có quyền ngăn cản ai trở thành bá chủ thế giới. Nhưng điều mà mọi người quan tâm là “cách” anh trở thành bá chủ và “cách” anh đối xử với thế giới. Vươn lên để tranh ngôi “minh chủ võ lâm” với Hoa Kỳ không phải là đìều cấm kỵ. Nhưng thay vì theo vương đạo tức tôn trọng và thỏa hiệp với các quốc gia Đông Nam Á, Hoa Lục theo con đường bá đạo của Tần Thủy Hoàng ỷ mạnh hiếp yếu. Sau đây là những tình huống Trung Quốc có thể tấn công Việt Nam:

1. Mở cuộc chiến tranh biên giới như năm 1979
Tôi hoàn toàn bác bỏ khả năng này vì Trung Quốc không có lợi gì khi mở một cuộc tấn công như vậy. Nếu làm thế Trung Quốc sẽ lộ rõ bộ mặt xâm lược và cũng không thể lấy lý do rất “hỗn láo” là “dạy cho Việt Nam một bài học” như năm 1979. Việt Nam đã ký hiệp ước biên giới với Trung Quốc và là thành viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Uy tín của Trung Quốc về mặt chính trị, ngoại giao và kinh tế sẽ tổn thương nghiêm trọng và thế giới sẽ lên án khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam bằng đường biên giới. Nhưng Trung Quốc có thể sẽ liên tục duy trì áp lực bằng cách tập trung quân đội, khiêu khích, quấy rối không ngoài mục đích đe dọa, khiến Việt Nam lo sợ, lúng túng, từ đó suy yếu trên mặt trận chính là Biển Đông. Đây là kế “Dương đông kích tây” và chiến tranh cân não. Nhưng lịch sử cho thấy các danh tướng của Đại Việt ta khôn ngoan và mưu trí hơn con cháu Tần Thủy Hoàng rất nhiều.

2. Mở một cuộc không kích và bắn phá quy mô các hải cảng, quân cảng, căn cứ hải quân, các giàn khoan/thăm dò dầu khí của Việt Nam
Muốn thế, Hải Quân Trung Quốc phải trải dài dọc theo bờ biển từ Hải Phòng tới Đà Nẵng, Cam Ranh, Vũng Tàu, Phú Quốc, Trường Sa v.v..Nếu liều lĩnh mở một cuộc chiến tranh hạn chế (trong nước gọi là cục bộ) như vậy, Trung Quốc sẽ gây một số thiệt hại lớn cho Việt Nam, nhưng phải trả một giá rất đắt vì hệ thống hỏa tiễn phòng thủ ven biển, phòng không, không quân và hải quân của Việt Nam. Tôi không tin Trung Quốc sẽ tiến hành giải pháp này vì Trung Quốc sẽ khó ăn khó nói với dư luận quốc tế về việc bắn phá, oanh tạc các cơ sở trên đất liền và ven biển Việt Nam vì các vùng này vốn không có tranh chấp. Đây là hành vi xâm lược trắng trợn.

3. Tấn công và nuốt gọn Trường Sa
            Đây chính là tham vọng và ý đồ của Trung Quốc trong một tương lai rất gần và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Khi tấn công và nuốt gọn Trường Sa, Trung Quốc có lý do biện minh là: Chúng tôi chỉ “lấy lại” những gì của chúng tôi. Bằng cớ là chúng tôi đã công bố cho thế giới biết “Đường Lưỡi Bò” xác định chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của chúng tôi trước đây. Như thế, thêm một lần nữa, từ cuộc xâm lăng, Trung Quốc lèo lái dư luận qua một cuộc tranh chấp chủ quyền rất dai dẳng mà không có một tổ chức quốc tế nào có khả năng giải quyết. Để thực hiện ý đồ nham hiểm này, Trung Quốc phải xử dụng ưu thế vừa mới có là tàu sân bay Thi Lang. Cộng thêm với sự hộ tống của khoảng 5 khu trục hạm, 3 tuần dương hạm và đội tầu ngầm khoảng 6 chiếc và dăm ba tàu đổ bộ hạng nặng. Hỏa lực của hạm đội này dư sức nghiền nát hệ thông phòng thủ của Việt Nam trên Quần Đảo Trường Sa. Và lực lượng thủy bộ khoảng 4000 trên tàu sân bay sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh phần còn lại của Trường Sa. Vậy Việt Nam phải làm sao đây? Theo các chiến lược gia về quân sự:

Thứ nhất: Việt Nam cần phải theo dõi từng bước di chuyển của tàu sân bay Thi Lang qua hệ thống vệ tinh, đồng thời chia xẻ tin tức tình báo quân sự với Nhật Bản, Úc Châu, Ấn Độ và nhất là Hoa Kỳ về mọi động tĩnh của tàu sân bay này. Tôi tin chắc rằng với sức mạnh hiện tại của Hải Quân Việt Nam, nếu không có tàu sân bay, Trung Quốc sẽ không dám mở một cuộc tấn công quy mô để nuốt gọn Trường Sa.

Thứ hai: Cũng theo các nhà quân sự, để phân tán bớt lực lượng trên biển của Trung Quốc, Việt Nam cần ngụy tạo tin tức về cuộc tái chiếm Hoàng Sa nếu nổ ra chiến tranh. Nắm được tin tức này chắc chắn Trung Quốc sẽ phải dàn mỏng tàu chiến để bảo vệ Hoàng Sa. Nếu Trung Quốc lơ là, Việt Nam có thể nhân đó tấn công tái chiếm Hoàng Sa, chặn đường về của tàu chiến Trung Quốc.

Thứ ba: Tương kế tựu kế. Tăng cường phòng thủ Trường Sa và biến Trường Sa thành mồi nhử để tiêu diệt tàu sân bay Thi Lang. Muốn thế Hải Quân Việt Nam cần phải bí mật, linh hoạt. Ngay từ phát súng đầu tiên, hỏa lực phải tập trung để tiêu diệt tàu sân bay này. Một khi tàu sân bay Thi Lang bị đánh hỏng, tất cả máy bay chiến đấu trên boong cũng bị tiêu hủy, chiếc nào đã cất cánh sẽ rớt xuống biển vì không đủ nhiên liệu bay về Hải Nam.Tin này sẽ làm rúng động thế giới. Phần còn lại của hạm đội Trung Quốc như rắn mất đầu, mất tinh thần, phải thoái lui về Hoàng Sa và sẽ bị Hải Quân và Không Quân Hải Việt Nam ở Cam Ranh, Khánh Hòa, Đà Nẵng chặn đánh. Lúc đó, Việt Nam dễ dàng giải phóng Trường Sa. Hiện nay Việt Nam đã có một lữ đòan thủy quân lục chiến (trong nước không còn dùng danh từ “lính thủy đánh bộ” nữa). Nhiệm vụ chính của lữ đòan này là tấn công tái chiếm các đảo bị chiếm. Nói tóm lại theo các chuyên viên quân sự:  Chiến lược sinh tử của Việt Nam là tiêu diệt cho bằng được tàu sân bay Thi Lang, dù phải trả giá đắt. Không tiêu diệt được tàu sân bay Thi Lang thì không sao giữ được Trường Sa. Đây là kế hoạch hết sức táo bạo nhưng thiết nghĩ không còn phương cách nào hơn. Một khi tàu sân bay Thi Lang bị tiêu diệt, phải đợi ít nhất năm, muởi nữa Trung Quốc khi đóng được tàu sân bay khác mới dám gây sự với Việt Nam. Lúc đó Hải Quân Việt Nam đã mạnh hơn và tình hình thế giới đổi khác.

Hiện nay tình hình tại Biển Hoa Đông và Biển Đông mỗi lúc mỗi trở nên căng thẳng và biến chuyển khôn lường. Rõ ràng Nhật Bản đang tăng cường binh bị và liên kết với Hoa Kỳ và các quốc gia Đông Nam Á để chống lại Hoa Lục. Ngày 8-8-2013 Nhật Bản cho hạ thủy tàu sân bay khổng lồ Izumo là chiếc tàu chiến lớn nhất của tính từ Thế Chiến II tới giờ. Rồi vào ngày 31/10/2013 Nhật lại trình làng chiếc tàu ngầm Soryu tối tân trị giá khoàng 540 triệu đô-la làm Hoa Lục choáng váng. Còn về phía Việt Nam, liên tiếp trong thời gian qua đã có khá nhiều cuộc đối thọai quốc phòng Việt-Mỹ - khi ở Hà Nội, khi  ở Hoa Thịnh Đốn. Những vấn đề như tìm kiếm hài cốt lính Mỹ, rà phá bom mìn, tiêu hủy chất độc da cam, cứu cấp, ứng phó với biển đổi khí hậu v.v.. chỉ là bề nổi. Không biết bên trong hai bên bàn tính những gì. Xin nhớ Mỹ là vua về đi đêm/mật đàm. Không hiểu Mỹ có bỏ lệnh cấm bán vũ khi sát thương để Việt Nam có thể mua máy bay săn tàu ngầm Orion P-3 để tăng cường khả năng phòng thủ biển đảo hay không? Trong khi Mỹ còn đang do dự thì cuộc viếng thăm Việt Nam của Ô. Putin ngày 12/11/2013 đã tạo sự chú ý đặc biệt của các nhà quan sát thế giới. Ô. Putin đã dành cho Việt Nam những ưu đãi đặc biệt về quân sự như: Mở rộng các hạng mục về vũ khí và thiết bị bán cho Việt Nam, hợp tác chế tạo tàu chiến và hỏa tiễn chống hạm, bàn giao căn cứ huấn luyện và sửa chữa tàu ngầm và các lọai tàu chiến chế tạo tại Nga. Tất cả những căn cứ này đều ở Cam Ranh. Thiết lập trường đại học công nghệ để Việt Nam lần hồi tự chủ về kỹ nghệ chế tạo cơ khí dành cho quốc phòng. Tàu ngầm Kilo 636 đầu tiên mang tên Hà Nội (NATO gọi là Hố Đen) ngày 7/11/2013 đã lên đường vể Việt Nam. Chiếc thứ hai chuẩn bị bàn giao. Chiến thứ ba đã khởi công. Theo dự tính khoảng cuối năm 2014 ba con cá kình lợi hại này sẽ tham gia lực lượng phòng thủ biển đảo…và dĩ nhiên làm cho Hoa Lục vô cùng khó chịu.

Trước tình thế sự việc có thể “trở nên quá trễ” Trung Quốc có thể phải ra tay trước. Nếu phải ra tay trước thì Hoa Lục lựa chọn đánh ai đây? Theo tôi nghĩ Hoa Lục sẽ đánh Việt Nam trước, bởi vì dầu sao Việt Nam cũng là đối thủ yếu hơn. Nếu đánh Nhật trước, Hoa Lục sẽ “bươu đầu sứt trán”, còn sức đâu để đánh Việt Nam nữa? Ngòai ra, khi đánh Việt Nam, nuốt gọn Trường Sa, Hoa Lục sẽ khống chế tòan bộ Biển Đông- tức “một công đôi việc”. Lúc đó Nhật Bản chắc chắn phải quỳ gối hay nhựợng bộ.

Thế nhưng khi tấn công Việt Nam thì Hoa Lục đã tiến hành một cuộc viễn chinh xâm lược. Bản chất của viễn chinh xâm lược phi chính nghĩa, xa xôi, tiếp vận tốn kém, người dân thường chống đối cho nên không thể kéo dài vô tận. Trong khi chiến tranh phòng vệ - tức chiến tranh bảo vệ tổ quốc đầy chính nghĩa, người dân chấp nhận hy sinh và hy sinh cho đến ngày tòan thắng. Do đó nếu Hoa Lục liều lĩnh mở cuộc tấn công nhằm nuốt gọn Trường Sa thì chưa biết “mèo nào cắn mỉu nào”.
Hơn thế nữa, căn bản của chiến tranh viễn chinh xâm lược… là phải tốc chiến tốc thắng và phải có khả năng phòng thủ vững chắc phần đất hay các hòn đảo vừa đánh chiếm…hầu tạo “chuyện đã rồi trước dư luận quốc tế. Nếu cuộc chiến bất phân thắng bại, kéo dài khoảng một tuần lễ thì hải lộ quốc tế xuyên qua Biển Đông tắc nghẽn. Lúc đó Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn và cả Hoa Kỳ nữa lâm nguy vì hải lộ này là con đường huyết mạch và là “nồi cơm hũ gạo” của thế giới. Để bảo vệ hải lộ chiến lược và “nồi cơm hũ gạo” này, có thể một lực lượng hải quân quốc tế hùng hậu sẽ kéo tới lấy cớ “bảo vệ an tòan hàng hải” . Khi đó thì Hoa Lục sẽ “xôi hỏng, bỏng không”. Về sức mạnh của Hoa Lục - kinh tế lẫn quân sự thì không ai phủ nhận. Nhưng Hoa Lục không phải không ở vào tình thế tiến thóai lưỡng nan./.
Đào Văn Bình

Người Trung Quốc lập xóm, lập phố và sẽ lập gì nữa?

Lê Chân Nhân

(Dân trí) - Tại phiên thảo luận về Dự án Luật nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam chiều 28.11, các đại biểu Quốc hội nêu lên một vấn đề rất đáng lo ngại, lao động nước ngoài, đông nhất là từ Trung Quốc, nhập cư vào Việt Nam, đang “lập xóm, lập phố ở một vài địa phương”.

clip_image001
(Minh họa: Ngọc Diệp)
Theo đại biểu Trần Ngọc Vinh, có hàng ngàn lao động phổ thông nước ngoài vào làm việc tại các công trình xây dựng, nhất là các dự án do Trung Quốc trúng thầu như Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh, Hải Phòng, Cà Mau, Xi măng Ninh Bình, Tây Ninh, bauxite Lâm Đồng...
Nói là lao động nước ngoài chung chung, nhưng ai cũng biết chủ yếu là người Trung Quốc. Họ có mặt từ các tỉnh biên giới phía Bắc vào đến Cà Mau, lên tận Tây Nguyên, rải dài các tỉnh duyên hải miền Trung, các tỉnh Đông Nam Bộ. Có những nơi, họ sống theo xóm, theo phố. Dân mình cũng lập phố đưa biển hiệu như phố Tàu. Mới đây, báo chí đưa tin phố Tàu ở Bình Dương là một ví dụ.
Người Trung Quốc sang Việt Nam bằng con đường du lịch, rồi ở lại làm việc cho các công trình của nhà thầu Trung Quốc. Số lao động được cấp phép và không được cấp phép khó nắm được hết. Chỉ riêng ở khu kinh tế Vũng Áng, chỉ có 1.100 người nước ngoài được cấp phép lao động, nhưng tại đây có đến 2.600 lao động nước ngoài, trong đó lao động Trung Quốc là 1.526 người.
Các nhà thầu Trung Quốc nhận thầu tại Việt Nam, họ tìm cách đưa người của họ sang để “tranh” việc làm. Lao động phổ thông trong nước thất nghiệp ngày càng cao, nhưng kiếm một chỗ làm ở các nhà thầu Trung Quốc là rất khó.
Ở các thành phố, bác sĩ Trung Quốc (chưa biết thật giả) sang mở phòng khám chui lấy tiền dân mình, để lại nhiều hậu quả kinh hoàng, nhưng không hiểu vì sao chỉ chuyện này thôi cũng không quản được.
Ở các dự án bauxite Tây Nguyên cũng vậy, lao động Trung Quốc sang lập thành khu vực riêng biệt, làm việc và sinh sống trên cao nguyên. Ngoài giờ làm việc, đàn ông Trung Quốc cũng chẳng ngại gì mà không tìm vợ Việt Nam khi có cơ hội, thế là gia đình Hoa - Việt ngày càng nhiều, người Trung Quốc cắm rễ trên đất Việt Nam với tư cách là chàng rể. Lấy vợ, sinh con rồi cất nhà, sinh sống ở Việt Nam. Từ lao động bất hợp pháp thành công dân hợp pháp.
Với việc đưa dân sang lao động như các nhà thầu Trung Quốc đang làm, chỉ cần chục năm nữa, người Trung Quốc ở Việt Nam sẽ nhân lên gấp nhiều lần hiện nay, lúc đó sẽ không chỉ là xóm, là phố, mà cả khu người Hoa khắp đất nước này.
Các nhà quản lý không thể không nhận thấy phương cách “gặm nhấm” trên đất theo cách này của họ.
L.C.N.
Nguồn: dantri.com.vn
*****************

Lao động phổ thông nước ngoài lập cả xóm, phố...

Sự thiếu chặt chẽ trong phối hợp giữa các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài và cơ quan quản lý xuất nhập cảnh trong nước đang dẫn đến tình trạng gia tăng lao động phổ thông nước ngoài vào Việt Nam.
clip_image002
ĐB Nguyễn Anh Sơn cho rằng, do các quy định của VN chưa chặt nên nhiều người nước ngoài dùng hộ chiếu du lịch để làm việc trong các dự án. Ảnh: TTXVN
Đây là khuyến cáo đầy quan ngại của đại biểu Nguyễn Anh Sơn (Nam Định) tại phiên thảo luận về Dự án Luật Nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam chiều 28.11.
Dùng hộ chiếu du lịch để làm việc
Số liệu từ các bộ, ngành cho hay từ năm 2001 đến nay, số người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú tại Việt Nam mỗi năm tăng khoảng từ 20-30%. Chỉ riêng số khách du lịch vào Việt Nam hơn 10 năm qua đã là hơn 23 triệu người. Thậm chí, trong số này có nhiều người nước ngoài lang thang, vi phạm pháp luật như lừa đảo, tham gia các tệ nạn xã hội - đại biểu Nguyễn Anh Sơn cho biết.
“Có trường hợp dễ dãi trong cấp thị thực du lịch, thị thực D về tìm kiếm cơ hội đầu tư, để nhiều đối tượng người nước ngoài vào VN tìm kiếm việc làm. Số này có rất nhiều ở Hà Nội cũng như TP HCM và một số địa phương khác, nên rất khó quản lý” – theo ông Sơn. Đại biểu này cho rằng, do các quy định của VN chưa chặt chẽ nên nhiều người nước ngoài dùng hộ chiếu du lịch để làm việc trong các dự án. Số này chủ yếu là lao động phổ thông. “Thậm chí, những lao động này còn lập xóm, lập phố ở một vài địa phương với nếp sinh hoạt rất khác biệt. Nhiều khi xảy ra những xô xát với người địa phương, việc xử lý cũng rất khó khăn” – ông nói.
Nhà thầu Trung Quốc đưa vào hàng nghìn lao động
Theo con số do Thứ trưởng Bộ Công an Tô Lâm công bố trước Ủy ban Thường vụ QH tại phiên họp thứ 10, có tới 39,9% số lao động nước ngoài ở VN hiện chưa được cấp phép và số lượng này lên tới trên 31.000 người. Theo đại biểu Trần Ngọc Vinh, thực tế có hàng ngàn lao động phổ thông nước ngoài vào làm việc tại các công trình xây dựng, nhất là các dự án do Trung Quốc trúng thầu, như Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh, Hải Phòng, Cà Mau, ximăng Ninh Bình, Tây Ninh, bauxite Lâm Đồng.
Ông nêu thực trạng một số doanh nghiệp lợi dụng tư cách pháp nhân để làm dịch vụ cấp thị thực cho người nước ngoài vào làm việc, hoạt động trái mục đích nhập cảnh và vi phạm pháp luật VN. “Tôi đề nghị quy định rõ trong luật trách nhiệm của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức bảo lãnh người nước ngoài nhập cảnh vào VN phải chịu trách nhiệm liên đới, nếu như người nước ngoài do họ mời vi phạm luật trong thời gian ở tại VN. Phải quy định rõ trách nhiệm cụ thể, chứ không phải khi vụ việc xảy ra thì mới ngồi xem trách nhiệm đó thuộc về ai” – ông nói.
Theo Phương Thùy (Lao động)

Nói Láo Từ Trong Bụng Mẹ

Mấy ngày qua nghe anh em bạn bè trong nước bàn tới bàn lui về những tin tức láo của Nhà cầm quyền Cộng sản Hà nội, chúng tôi bổng nhớ lại vào năm 2007, chúng tôi có phản ứng một debate giữa hai người về một nhận định về cái tật cố hữu của Đảng Cầm quyền nước ta. 
Nay xin gởi lại quý độc giả gọi là góp phần cái nhìn của chúng tôi vào việc ấy.

Tham luận Về Cái Tật Nói Láo Của Đảng Cộng Sản Việt Nam: Nói Láo Từ Trong Bụng Mẹ

Nhơn tình cờ đọc tờ Việt Today Vancouver số 21, tuần lễ từ 8 đến 14 tháng 8 năm 2007, tôi chú ý đọc bài viết của ông Nguyễn Anh Minh chất vấn ông Nguyễn Văn Trần về một câu trong một bài viết của ông ấy: “Việt Cộng nói dối từ trong bụng mẹ”.
Câu nói nầy rất dao to búa lớn, để cắt nghĩa cái tại sao của một chế độ mà “ Nói láo” được đặt lên hàng quốc sách của Đảng Cộng sản đang cầm quyền ở Việt Nam.
Khi ông Lê Duẩn lúc bấy giờ là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, người đứng đầu cả nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, quyền năng chức vụ to hơn cả một ông vua, phán một câu xanh dờn là “Nhân Dân Việt Nam là Anh hùng, là Đỉnh cao trí tuệ loài người”. Khi nói câu đó, ông có nói sự thật không ?
- Anh hùng cái gì, cả nước đi đánh giặc mướn (mercenaires – soldiers of fortune) cho phe Cộng sản Chủ nghĩa Nga Tàu để Cộng sản hóa thế giới.
- Đỉnh cao trí tuệ cái gì mà không biết dùng cơ giới, máy cày không chế tạo được phải dùng sức người, sức súc vật. Và “Ruộng cao ta tát gàu dai, ruộng thấp ta tát gàu sòng.”.
- Văn hóa cái gì mà thế kỷ thứ 21 vẫn em bé cỡi trâu, chồng cầm cày, vợ kéo cày. Cả chế độ được huấn luyện tuyên truyền trên sự “Nói láo”. “Nói láo” để cường điệu, “nói láo” để mỵ dân, lúc nào cũng phấn đấu, lúc nào cũng chỉ tiêu, lúc nào cũng sửa sai, trong khi dân đói dài dài thì Đảng ta cứ bỏ tiền liên hoan, Đại hội, họp hành, học tập. Nói láo biến thành quốc sách, nói láo mãi thành bẩm sanh, bẩm tánh, nói láo luôn với cả mình nữa. Nếu không được huấn luyện từ trong bụng mẹ thì làm sao có đời sống đàng hoàng được. Phải con của đảng viên, mẹ Đảng nhé, Cha Đảng nhé, dối tượng Đoàn nhé, Đoàn viên, rồi Đảng viên. Có phải nói dối từ trong bụng mẹ không ? Cá nhơn ông Lê Đức Anh, lý lịch thế nào, nhờ nói dối lên chức thế nào. Có phải nhờ nói láo không ?
“ Nói láo từ trong bụng mẹ”, phải, đúng vậy, khi mẹ có đứa con trong bào thai, phải tập suy nghĩ nói láo rồi để con sanh ra trong “bầu không khí nói láo”. Vì chỉ có nói láo mới có thể sống được, sanh tồn được. Ông Nguyễn Anh Minh cũng nói rằng vì ông không phải thành phần nói láo nên ông không được học lên cắp Đại học, và vì vậy, ngày nay ông mới là người tỵ nạn ở Canada.
Ông Nguyễn Anh Minh đang tỵ “ nạn ”tại Canada . Vậy thì nạn của ông là nạn gì ? Có phải là nạn “ nói láo ” không ? Ông đã đi trốn cái nạn nói láo để ngày nay ông làm người nói thật.
Lạ nhỉ? Khi ông so sánh hai anh em ông Phan Huy Quát. Ông Quát vào Nam, thành người miền Nam, hưởng không khí nói thật của người miền Nam, đứng đắn, đàng hoàng nên được trọng dụng, làm đến chức Thủ Tướng mà không cần phải vào Đảng cầm quyền. (Ông Phan Huy Quát đã bị đi cải tạo – ông là người nói thật không cải tạo thành người nói láo được nên phải chết).
Ông em ông Phan Huy Quát ở miền Bắc thành công to trong chế độ mà ông Nguyễn Anh Minh đã chứng minh rằng “vì không biết nói láo nên không học được đến bằng đại học ”. Thế mà ông Phan Huy Lê thành công, chắc chắn ông Phan Huy Lê nói láo hay lắm. Chế độ nói láo !. Chế độ nói ngọng !. Tôi được ông bạn cựu cán bộ to của Hà nội, biểu diển cho tôi xem một tấn tuồng: trước mặt người khác thì ông cứ nói ngọng l thành n, và ngược lại. Nhưng sau khi quen thân với tôi thì ông không nói ngọng nữa và thú thiệt với tôi rằng anh là dân Hà nội chánh hiệu con nai. Nhưng ông bảo “ tao phải nói ngọng vì nói ngọng là vấn đề giai cấp”. Lúc ấy là thời gian vừa sau tháng tư 1975, thời gian của cái thuở xa xưa, chưa có tỵ nạn chánh trị, chưa có vượt biển, vượt biên gì cả, chưa có thuyền nhơn, cũng chẳng có HO, chì có “ nói láo” và “ thành thật khai báo ” thôi. Nhưng các bạn cũng biết “thành thật khai báo” là bỏ mạng Sa trường, là “mút mùa Lệ Thủy”.
Ngày nay, đã có những người tỵ nạn chánh trị, nghĩa là từ bỏ một chế độ “nói láo ”để được ra ngoài này ở với Tây, đi tìm cái gọi là tự do, nhưng vẫn cứ thắc mắc về cái tự do. Vậy thì Tự Do là gì ? Hồ Chí Minh vẫn nói “Không gì quý hơn Độc lập và TỰ DO”, và Hồ Chí Minh cùng đàn em đệ tử đã “giải phóng ” ( lại láo nữa – xâm chiếm mới đúng nghĩa) đất nước Việt Nam “ đem lại tự do” cơ mà !.
Thế sao Ông Nguyễn Anh Minh phải Dzọt ? Vậy phải chăng cái Tự do của HCM là “Tự do láo” rồi?
Nói láo phải từ trong bụng mẹ ra. Đó là phương cách duy nhứt để sống còn ở Việt Nam.
Không thì, cũng như Ông Nguyễn Anh Minh, Ông Nguyễn Văn Trần, cũng như cá nhơn chúng tôi, và gần 3 triệu đồng bào Việt Nam đâu phải nhảy xuống thuyền một ngày đẹp trời, hay một đêm tối trời? Cứ trong số bốn người đi, có một người chết, để đi tìm “ cái quyền ” từ nay “nói thiệt ” và cái quyền “ các bà mẹ không phải suy nghĩ láo trong lúc mang thai để “ luyện cho con mình thành người nói dối như thiệt vậy ”!
Câu viết của ông Nguyễn Văn Trần có một tác dụng lớn là đã làm sáng sủa cái câu hỏi lẫn quẫn “tại sao Hà nội phải nói dối với dân chúng mình mãi ?” Nói thật với dân, quản lý dân trong một tinh thần trong sáng có phải dân chủ hơn không? Nhưng không được. Vì nói láo là một bản chất bẩm sanh của người cầm quyền Cộng sản.
Ông Nguyễn Văn Trần viết “ Việt Cộng nói láo tư trong bụng mẹ.” Ông Nguyễn Anh Minh việc gì phải thắc mắc. Ông Nguyễn Anh Minh đâu có phải Việt Cộng. Ông Nguyễn Anh Minh là người tỵ nạn Chánh trị “nói láo” cơ mà!
Lạ nhỉ?
Hồi Nhơn Sơn năm 2007 
Hiệu đính Tuần 4 tháng 11 2013
TS. Phan Văn Song