Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

Việt Nam bị Trung Quốc đe dọa tại Lào và Cam Bốt ?

Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào (T) và Thủ tướng Cam Bốt Hun Sen (P) chứng kiến lễ ký
thỏa thuận hợp tác song phương tại Phnom Penh ngày 31/03/2012.
Vào lúc Trung Quốc ngày càng lộ rõ tham vọng đặt toàn bộ Biển Đông dưới quyền khống chế của Bắc Kinh, phớt lờ chủ quyền được tuyên bố của Việt Nam đối với hai vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trên đất liền cũng diễn ra một tình hình đáng ngại khác cho Việt Nam : Trung Quốc càng lúc càng tăng cường thế lực tại Lào và Cam Bốt, hai nước láng giềng cho đến nay là đồng minh truyền thống, nằm trong vòng ảnh hưởng của Việt Nam.
Câu hỏi đặt ra là uy thế ngày càng lớn của Trung Quốc tại Lào và Cam Bốt phải chăng đang trở thành một mối đe dọa cho Việt Nam, đặc biệt trong lãnh vực an ninh, vì nếu Lào và Cam Bốt thực sự rơi vào quỹ đạo của Bắc Kinh, thì rõ ràng là Việt Nam đã lọt vào trong gọng kềm của Trung Quốc.

Phải nói là trong thời gian qua, Trung Quốc không ngừng gia tăng các khoản viện trợ và đầu tư vào Lào và Cam Bốt. Các khoản trợ giúp của Bắc Kinh cho Phnom Penh đã từng được nêu bật cách nay hai năm sau khi Cam Bốt không ngần ngại chiều theo quan điểm của Trung Quốc và đối kháng với Việt Nam và Philippines trong hồ sơ Biển Đông. Riêng những khoản đầu tư của Trung Quốc vào Lào ít được nói tới dù rất đáng kể.

Cuối 2013, Trung Quốc vượt qua Việt Nam để thành nhà đầu tư số một ở Lào

Tuy nhiên, ngày 30/01/2014, Đại sứ Trung Quốc tại Lào Quan Hòa Bình (Guan Huaping) cho biết là tổng trị giá đầu tư của Trung Quốc tại Lào vào cuối năm 2013 đã đạt mức 5,1 tỷ đô la, qua mặt Việt Nam trong tư cách là nhà đầu tư lớn nhất tại Lào.

Cho đến giữa năm 2013, Việt Nam còn là nhà đầu tư số một tại Lào với khoảng 5 tỷ đô la, theo sau là Thái Lan với 4,8 tỷ, còn Trung Quốc chỉ đứng thứ ba với 4 tỷ.

Việc Trung Quốc vượt qua Việt Nam trong vai trò nhà đầu tư lớn nhất tại Lào không phải là điều đáng ngạc nhiên trong bối cảnh từ hơn một chục năm nay Bắc Kinh không ngừng nỗ lực dùng lá bài kinh tế để chiêu dụ các nước Đông Nam Á nói chung, và hai nước Lào và Cam Bốt nói riêng.

Trong một công trinh nghiên cứu về quan hệ giữa Trung Quốc với Lào và Cam Bốt vừa được Viện Thống nhất Quốc gia của Hàn Quốc tại Seoul công bố (Carlyle A. Thayer, “China’s Relations with Laos and Cambodia", in Jung Ho Bae and Jae H. Ku, eds., China’s Internal and External Relations and Lessons for Korea and Asia), Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia kỳ cựu về châu Á tại Học viện Quốc phòng Úc đã nêu bật một số lý do chính thúc đẩy Bắc Kinh tăng cường đầu tư vào hai nước Đông Nam Á này cả kinh tế lẫn chính trị :
« Trung Quốc đã làm như vậy chủ yếu vì lý do kinh tế : Họ tìm cách tiếp cận vào các sản phẩm nông nghiệp và nguồn tài nguyên thiên nhiên rất cần cho nền kinh tế đang phát triển nhanh của họ, đồng thời tìm cách phát triển một thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của Trung Quốc. Đa phần viện trợ phát triển và đầu tư của Trung Quốc được hướng vào lãnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, năng lượng và công nghiệp khai khoáng ở cả Lào lẫn Cam Bốt ».

Mặt khác, theo giáo sư Thayer, Trung Quốc cũng muốn tỉnh Vân Nam của họ hội nhập được vào khu vực Đông Nam Á lục địa, do đó, đầu tư và viện trợ của Bắc Kinh cũng tập trung vào việc thành lập một mạng lưới giao thông từ miền Nam Trung Quốc tỏa xuống vùng Đông Nam Á.

Động cơ chính trị : Thông qua Lào và Cam Bốt để tác động lên ASEAN

Bên cạnh quyền lợi kinh tế, theo giáo sư Thayer, Bắc Kinh cũng có động cơ chính trị. Ông giải thích :
« Trung Quốc tìm cách phát triển mối quan hệ thân thiện với Lào và Campuchia để thu hút sự ủng hộ cho một loạt chính sách quan trọng của Bắc Kinh. Ví dụ, tất cả các thỏa thuận hợp tác song phương dài hạn mà Trung Quốc đã ký kết với các thành viên ASEAN trong những năm 1999-2000 đều có điều khoản liên quan đến chính sách Một nước Trung Quốc duy nhất.

ASEAN đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Yếu tố đó đã nâng cao tầm quan trọng của Lào và Cam Bốt trong một khuôn khổ đa phương. Lợi ích của Trung Quốc là làm sao có được quan hệ tốt với Lào và Cam Bốt (và với tất cả các thành viên ASEAN khác) để họ làm cầu nối cho ảnh hưởng chính trị và kinh tế của Trung Quốc.

Trong năm 2012 chẳng hạn, khi Cam Bốt làm chủ tịch ASEAN, Trung Quốc đã sử dụng ảnh hưởng của mình trên chính quyền Phnom Penh để tác động đến cuộc thảo luận về Biển Đông trong khối ASEAN. Cam Bốt đã được khen thưởng vì đã hợp tác. Sắp tới đây, vào năm 2016, đến lượt Lào lên làm chủ tịch ASEAN ».

Đối với Giáo sư Thayer, dù rất hữu hảo với Trung Quốc để tranh thủ các quyền lợi về kinh tế, nhưng Lào và Cam Bốt vẫn cố gắng duy trì quyền độc lập tự chủ của mình. Trong lãnh vực này, Lào có vẻ thành công hơn Cam Bốt. Giáo sư Thayer phân tích :
« Lào dường như đã thành công hơn Cam Bốt trong việc duy trì quyền tự chủ của mình nhờ sự hiện diện mạnh mẽ về kinh tế của Thái Lan và Việt Nam… Cam Bốt thì gặp khó khăn nhiều hơn vì quan hệ với Thái Lan thì bị các tranh chấp biên giới khuấy động, trong lúc bang giao với Việt Nam thì lại là một vấn đề chính trị gây tranh cãi trong nước. Chính quyền của đảng Nhân dân Cam Bốt của ông Hun Sen đã không theo đuổi được một chính sách cân bằng mà đã trở thành phụ thuộc vào Trung Quốc. »

Ảnh hưởng không ngừng gia tăng của Trung Quốc tại hai láng giềng phía Tây và Tây Nam Việt Nam phải chăng là một mối đe dọa cho nền an ninh của Việt Nam ? Trả lời phỏng vấn của RFI bằng thư điện tử, Giáo sư Thayer cho rằng trong lãnh vực an ninh thuần túy, xu thế đó không phải là điều đáng ngại đối với Việt Nam.

Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn :

RFI : Giáo sư có nghĩ rằng việc quan hệ được tăng cường giữa Trung Quốc với Cam Bốt và Lào đang là (hoặc sẽ là) một mối đe dọa đến an ninh của Việt Nam hay không ?

Thayer : Quan hệ song phương của Trung Quốc với Cam Bốt và Lào không tạo nên một mối đe dọa an ninh trực tiếp nào đối với Việt Nam hiện nay, và trong tương lai, tình hình hoàn toàn có thể sẽ cũng như vậy.

Cả Cam Bốt lẫn Lào đều tìm cách bảo đảm cho mình một quyền tự do hành động nhất định. Quan hệ giữa Cam Bốt và Lào với Trung Quốc, trong một chừng mực nào đó, cũng sẽ được điều hòa thông qua khối ASEAN mà cả hai nước này đều là thành viên.

Hai mục tiêu của Bắc Kinh tại Cam Bốt và Lào

Trung Quốc tìm kiếm lợi ích kinh tế tại Cam Bốt và Lào. Riêng tại Lào, Trung Quốc phải cạnh tranh với Thái Lan và Việt Nam.

Bắc Kinh cũng hy vọng là không nước nào đề ra một chính sách đối ngoại thiếu thân thiện và chống lại lợi ích của Trung Quốc. Cho đến giờ không có bằng chứng nào cho thấy là Bắc Kinh đã gây áp lực để buộc Phnom Penh hay Vientiane phải chọn lựa giữa Bắc Kinh và Hà Nội.

Quan hệ quân sự của Trung Quốc với Cam Bốt và Lào rất hạn chế, do đó không tạo thành một mối đe dọa cho Việt Nam. Sĩ quan quân đội Trung Quốc có mặt trên cả lãnh thổ Cam Bốt lẫn Lào để quản lý các chương trình hợp tác quốc phòng. Số lượng của của họ không đông lắm, nên không có gì là đáng ngại cho Việt Nam.

Trong thực tế, Việt Nam có mối quan hệ hợp tác quốc phòng tương đối mạnh mẽ với cả hai nước Lào và Cam Bốt trong lãnh vực đào tạo sĩ quan.

Lào giữ một vị trí đặc biệt trong mối quan hệ an ninh với Trung Quốc bỏi vì hai bên chia sẻ một đường biên giới chung và đều phải đối phó với các mối đe dọa xuyên quốc gia. Tuy nhiên, đấy cũng là tình hình giữa Lào và Việt Nam.

Cam Bốt đang hướng trở lại Việt Nam

Ngoại trừ thời kỳ cách nay hai năm, khi Cam Bốt - trong tư cách là Chủ tịch ASEAN - đã tìm cách ngăn không cho nhắc đến vấn đề Biển Đông trong Thông cáo chung của các Ngoại trưởng ASEAN, Cam Bốt không còn bị Trung Quốc sử dụng như một con tốt chính trị nhằm gây thiệt hại cho Việt Nam.

Có những dấu hiệu cho thấy là Trung Quốc bắt đầu giữ khoảng cách với Thủ tướng Hun Sen do kết quả kém cỏi của Đảng Nhân dân Cam Bốt trong cuộc bầu cử Quốc hội mới đây. Bắc Kinh không muốn là tình trạng bất ổn định tại Cam Bốt lan rộng và đe dọa các lợi ích kinh tế của Trung Quốc.

Bắc Kinh như đang kín đáo điều chỉnh sách lược để giảm thiểu rủi ro trong trường hợp đảng Nhân dân Cam Bốt bỏ rơi ông Hun Sen, hay trong trường hợp lãnh tụ đối lập Sam Rainsy lật đổ chế độ của đảng Nhân dân Cam Bốt.

Thủ tướng Hun Sen dường như đã nhận thấy sự thay đổi đó, và đã chuyển hướng quay sang tìm kiếm một quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản và tăng cường trở lại quan hệ với Việt Nam.

RFI : Nhiều người cho rằng Trung Quốc hiện đang áp dụng một chính sách ép Việt Nam từ hai phía, trên biển là từ Biển Đông, còn trên bộ là củng cố thế lực tại hai nước sát cạnh Việt Nam là Lào và Cam Bốt. Ý kiến của giáo sư ra sao ?

Thayer : Vấn đề thực sự nghiêm trọng giữa Việt Nam và Trung Quốc là tranh chấp lãnh thổ giữa hai bên tại vùng Biển Đông. Không thấy có dấu hiệu là Trung Quốc đang tìm cách kềm chế Việt Nam, trái lại, Bắc Kinh còn đẩy mạnh thêm quan hệ với Hà Nội. Trung Quốc thường tìm cách làm dịu các chính sách hay hành động nào của Việt Nam mà có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của họ.

Mục tiêu lớn của Bắc Kinh là làm sao kết nối các tỉnh miền Nam Trung Quốc với vùng lục địa Đông Nam Á. Trung Quốc lợi dụng sức mạnh kinh tế của mình và mong muốn phát triển của cả ba nước Lào, Cam Bốt và Việt Nam để thực hiện mục tiêu trên.

Tuy nhiên, trong phương trình đó, lại có sự tồn tại của Mỹ trong tư cách là thị trường xuất khẩu lớn nhất cho Việt Nam và Cam Bốt.

Phản ứng bất bình của người dân trước cung cách làm ăn của Trung Quốc

RFI : Giáo sư đánh giá thế nào về phản ứng của Việt Nam trước đà vươn lên của Trung Quốc tại Lào và Cam Bốt ? Bởi vì Hà Nội tất nhiên là đã thấy rõ sự gia tăng nhanh chóng của ảnh hưởng của Bắc Kinh tại Lào và Cam Bốt ?

Thayer : Việt Nam nhận thức rất rõ về ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc tại Cam Bốt và Lào. Thế nhưng, ảnh hưởng của Trung Quốc cũng gia tăng khắp nơi, và Việt Nam hiểu rõ xu thế đó.
Đối với Lào, Việt Nam có duy trì các mối quan hệ hữu hảo giữa hai đảng cầm quyền. Các tầng lớp chính trị Lào cũng tìm cách duy trì mối quan hệ lịch sử với Việt Nam. Cho dù trong Đảng Nhân dân Cách mạng Lào có một số quan điểm cho rằng đất nước này sẽ có lợi nhiều hơn nếu đứng hẳn về phía Trung Quốc, nhưng các thành phần này đã không thắng được phía chủ trương tìm kiếm một sự cân bằng trong mối quan hệ với Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam.

Cũng cần phải lưu ý rằng hiện đang có một làn sóng ngầm - hoặc một phản ứng ngược - của một bộ phận quan trọng trong dân chúng ở cả Lào lẫn Cam Bốt, chống lại công việc kinh doanh của người Trung Quốc tại hai quốc gia này.

Nguyên nhân bắt nguồn từ cung cách làm ăn thô bạo của các doanh nghiệp Trung Quốc, trong đó có việc lấy đất của người dân, và đưa lao động Trung Quốc đến làm việc ở các nước đó.

Việt Nam có vai trò đối trọng với thế lực Trung Quốc tại Lào và Cam Bốt

RFI : Tầm mức quan trọng hiện nay của Việt Nam tại hai nước láng giềng Lào và Cam Bốt là như thế nào ?

Thayer : Việt Nam rất quan trọng đối với Lào và Cam Bốt về phương diện kinh tế, vì lẽ Việt Nam là một tác nhân kinh tế lớn trong khu vực. Gần đây, lượng hàng hóa Việt Nam đổ vào Cam Bốt đã tăng vọt nhờ vào khủng hoảng biên giới giữa Cam Bốt và Thái Lan.

Việt Nam cũng rất quan trọng đối với hai láng giềng trên bình diện an ninh do các hoạt động tội phạm xuyên quốc gia dọc theo đường biên giới chung giữa hai bên.

Sau cùng, Việt Nam quan trọng đối với Lào và Cam Bốt trong vai trò một đối trọng tiềm tàng cho hai nước này trước Trung Quốc.

Suy cho cùng, cả ba nước đều là thành viên của ASEAN và đã xây dựng một kiểu liên minh đặc biệt (bao gồm cả Miến Điện) để vận động toàn khối dành cho họ một cách đối xử đặc biệt trong tư các là các nước kém phát triển của ASEAN.

Cả ba nước đều chia sẻ một quan tâm chung đến tình trạng tốt của vùng hạ nguồn sông Mêkông và sự phát triển của khu vực được gọi là Đại Tiểu vùng sông Mêkông.

Trọng Nghĩa/RFI  

Trung Quốc đang có âm mưu gì ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?

Hình:internet
1. Đâu chỉ là tài nguyên, khoáng sản

Việc Trung Quốc trúng thầu và thâu tóm hơn 90% các công trình trọng điểm quốc gia trải dài khắp mọi miền đất nước Việt Nam thì ai cũng biết. Mới đây, khoảng giữa tháng 1/2014, các báo của Nhà nước còn cho biết, 60% doanh nghiệp phía Bắc có người Trung Quốc đứng sau lưng. 

Lâu nay, người ta hay dùng danh từ “xâm lược” để chỉ về một cuộc chiến tranh quân sự, do nước A thực ahiện đối với nước B, thì hôm nay, cần được nghĩ khác. Theo tư duy này, ta có thể khẳng định: Trung Quốc đã và đang xâm lược Việt Nam một cách toàn diện. Theo đó, không chỉ hàng ngày, hàng giờ, họ đang gặm nhấm, lấn dần từng tấc đất nơi biên giới (mặc dù giữa hai nước đã cắm mốc), tấc biển ngoài khơi xa, mà họ còn xâm lược rất thành công về kinh tế, chính trị, và đặc biệt là về ngoại giao… Việc Việt Nam không chính thức kỷ niệm 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa (19/01/1974-19/01/2014), 35 năm ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17/02/1979-17/02/2014) cho thấy, cuộc xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam đã và đang hết sức thành công, không hề tốn một viên đạn mà thực hiện được mục tiêu một cách, ngoạn mục, mỹ mãn…


Câu hỏi được đặt ra ở bài này là: tại sao Bắc Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?
a. Đối với cảng Cửa Việt, Quảng Trị

Ngày 14/02/2014, đài VOA, trong bài viết có tựa đề “Báo động: Người Trung Quốc lại sắp lập căn cứ ở Quảng Trị”, tác giả là Blogger Lê Anh Hùng, cho biết:

“Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam (một công ty sản xuất thức ăn gia súc, thuỷ sản và chăn nuôi hàng đầu Việt Nam, trước đây thuộc tập đoàn C.P. Group của Thái Lan, nhưng đã bị Trung Quốc thâu tóm kể từ năm 2011) sắp được giao 96,1ha đất, kéo dài hơn 2km dọc theo bờ biển và chỉ cách cảng Cửa Việt chưa đầy 1km”(1).
 
Cũng trong bài viết này, về vị trí chiến lược và sự nhạy cảm của cảng Cửa Việt, tác giả dẫn lời nhà văn Xuân Đức, một người con của tỉnh Quảng Trị, đã viết về thời kỳ chống Mỹ như sau: “… cuộc chiến trên cảng Cửa Việt và sông Cửa Việt nói riêng đã trở thành quyết chiến điểm khốc liệt nhất có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cả chiến trường Miền Nam”.

b. Đối với cảng Vũng Áng, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh

Tháng 4/2006, Khu Kinh tế Vũng Áng được thành lập, theo Wikipedia có diện tích tự nhiên 227,81 km2 (22.781 ha). Các hoạt động kinh tế được ưu tiên phát triển tại khu kinh tế Vũng Áng bao gồm: dịch vụ cảng biển, công nghiệp luyện kim gắn với lợi thế về tài nguyên và nguồn nguyên liệu (mỏ sắt Thạch Khê, mỏ titan,...).

Đáng chú ý là, Khu Kinh tế Vũng Áng đang được đầu tư Dự án nhà máy gang thép Formosa Hà Tĩnh (2) là một trong những dự án trọng điểm và lớn nhất của Tập đoàn Formosa (tiền thân là của Đài Loan, nhưng đã nhượng lại 100% cổ phần cho Trung Quốc?!) với tổng mức đầu tư 15 tỷ USD (gồm hai giai đoạn), nằm trên diện tích trên 3.300ha, trong đó diện tích đất liền là hơn 2.000 ha và diện tích mặt nước trên 1.200 ha.

Với quy mô lớn như vậy, thì người Trung Quốc có thể ăn nằm tại khu vực này khoảng 25 đến 30 năm, vừa để đầu tư xây dựng công trình vừa để khai thác vận hành nhà máy, vậy là đủ để một thế hệ người Tàu lấy vợ, lập thành phố người Tàu tại khu vực Kỳ Anh, Hà Tĩnh; sâu xa hơn, có thể là lực lượng địa phương sau này trong mưu đồ chia cắt Việt Nam thành hai miền.

Tháng 10/2013, đài RFA, đăng bài “Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc”, báo động tình trạng cát cứ của người Trung Quốc tại Vũng Áng, mà hậu quả về an ninh xã hội tại nơi này qua ý kiến của một người dân được bài báo trích đăng là: 

“… Bây giờ, phần đông gia đình đã bán hết đất cho người Tàu, đất thì không còn nữa mà con cái thì nghiện ngập, hư hỏng, như vậy, chỗ an thân cũng không còn mà niềm hy vọng vào tương lai cũng bị đứt gãy. Điều này phải xem lại âm mưu của người Trung Quốc”.

Và đây là nhận định tổng quát của bài báo, khi tác giả nghe từ một phụ nữ:

“Có thể nói rằng có đến 70% thanh niên hư hỏng, nghiện nập. Và bà tỏ ra hoài nghi sự có mặt của những người Trung Quốc. Bà nghĩ rằng họ đến Kỳ Anh mua đất làm ăn không đơn thuần, họ có ý đồ không tốt và họ rất nguy hiểm”.

Nhưng đáng chú ý nhất, báo động đỏ cho tình hình tại Vũng Áng, phải là một comment (của một người địa phương nơi đây) trong bài: “Nhà văn Phạm Xuân Nguyên: Cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung là một sự thật lịch sử không thể xóa bỏ”, đăng trên Blog Dân Quyền (Diễn đàn XHDS) hôm 14/02/2014, toàn văn như sau:

“Cảm ơn nhà văn Phạm Xuân Nguyên đã nói lên những suy nghĩ của tôi và bạn bè tôi – những người đã chiến đấu có người đã anh dũng hy sinh, có người bị thương…. trong cuộc chiến chống Tàu cướp nước 2/1979, tại Bắc luân (Quảng ninh), ở Trung đoàn 288-Quân khu 3.

Tôi cũng rất đau lòng khi vùng đất quê Kỳ Anh (Hà Tĩnh) của anh Nguyên và chúng tôi đã được cầm quyền ĐCSVN bán cho Trung Quốc hơn 80 km2 thành khu căn cứ riêng mà chỉ có chức sắc Tỉnh ủy Hà Tĩnh và Đảng TƯ mới có thể được Tàu cho vào, còn chủ tịch tỉnh lấy chức danh đó cũng không được vào [? – NHQ]. Trung Quốc xây tường và nhà cao tầng dọc đường quốc lộ 1 từ Kỳ Anh đến Cẩm Xuyên hơn 20 km, chiếm hoàn toàn biển phía Đông đường Quốc lộ 1, để làm gì cũng không ai được biết.

Dân Kỳ Anh (Hà Tĩnh) mất đất, không việc làm. Trai thì cờ bạc, đề đóm, chích choác ma túy. Gái thanh niên, trung niên cặp nón, ô… môi son, má phấn, mắt xanh mỏ đỏ vẫy, gọi khách đi xe bắc Nam, công khai làm điếm vì không có việc làm, đất ở, đất ruộng, cả mồ mả cha ông… nay ĐCSVN BÁN CHO TÀU rồi . Trai Tàu lấy vợ Kỳ Anh, là mơ ước của gái Kỳ Anh ngày nay, vì đi làm điếm còn khổ hơn. Người Trung Quốc ở Kỳ Anh không cần theo luật CHXHCNVN là đi xe máy họ không cần đội mũ, mà công an còn cười chào thân thiện. Người Kỳ Anh mà đi xe máy không đội mũ thì chỉ có đi theo ông Trịnh Xuân Tùng - Hà Nội” (4).

Rõ ràng, Trung Quốc đang thực hiện cuộc di dân rất âm thầm, nhưng quyết liệt và hiệu quả vào lãnh thổ Việt Nam một cách hợp pháp, có sự tiếp tay của quan chức Việt Nam ở cấp cao, thông qua chính sách đầu tư xây dựng và khai khoáng.

Vũng Áng quả là một vị trí lý tưởng không chỉ để khống chế Việt Nam về mặt đường bộ, mà toàn bộ đường biển đi vào Vịnh Bắc Bộ. Một nguy cơ không thể không được báo động!

2. Tam giác căn cứ quân sự Du Lâm - Vũng Áng - Cửa Việt

clip_image002
Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, thì rất có thể thông qua tam giác căn cứ quân sự Du Lâm - Vũng Áng - Cửa Việt, Trung Quốc dễ dàng chia cắt Việt Nam cả về đường biển và đường bộ, thậm chí chia Việt Nam thành hai miền.

Căn cứ hải quân Du Lâm(5) của Trung Quốc, được Bách khoa toàn thư Wikipedia giới thiệu: là căn cứ tàu ngầm, nằm ở thành phố Tam Á, ở cực Nam trên đảo Hải Nam, “là một mối lo an ninh cho các nước ASEAN cũng như Ấn Độ”. Theo bản đồ (kèm theo), từ Du Lâm đến Vũng Áng và Cửa Việt của Việt Nam, có chiều dài đường chim bay khoảng 320-350 km, trong khi khoảng cách giữa Vũng Áng đến Cửa Việt theo QL1A là 190 km. Ba đỉnh này tạo thành một tam giác, và với lực lượng hùng mạnh về tàu ngầm và tàu chiến mặt nước, Trung Quốc rất dễ dàng chia cắt hai miền của Việt Nam ở khu vực Vũng Áng và tỉnh Quảng Bình. Kể cả đường bộ và đường biển.

Phải chăng việc cấm người Việt Nam ra, vào Vũng Áng và Cửa Việt, bộc lộ ý đồ Trung Quốc muốn xây dựng hai vị trí này thành căn cứ quân sự bí mật của họ, phục vụ cho việc chia cắt Việt Nam bằng lực lượng hải quân khi chiến sự xảy ra. Đây chính là đáp án trả lời cho câu hỏi: tại sao Bắc Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị.

(Nên nhớ, Quảng Bình, nơi nằm giữa Vũng Áng và Cửa Việt, là vùng đất hẹp nhất trên dải đất hình chữ S của Việt Nam, bề rộng chỉ hơn 40 km tính từ bờ biển đến biên giới Việt-Lào).

3. Vũng Áng - Cửa Việt và việc thực hiện “đường lưỡi bò”

clip_image003
“Đường lưỡi bò” (màu đỏ) và luồng vận chuyển hàng hải quốc tế (màu trắng)

Ta dễ dàng nhận thấy, phần lớn chiều dài về phía Nam của “đường lưỡi bò” nằm trên lãnh hải chủ quyền của Việt Nam và Philippines; trong khi, do khu vực Quần đảo Trường Sa gồm nhiều đảo nhỏ, biển nông, luồng tàu hẹp… cho nên, theo bản đồ trên đây, ta thấy luồng vận chuyển của các tàu viễn dương quốc tế chỉ đi trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (đường màu trắng mờ).

Liệu Trung Quốc có thể khống chế diện tích theo “đường lưỡi bò” mà họ đã tuyên bố hay chăng? Tất nhiên, chỉ với điều kiện Trung Quốc khống chế được Việt Nam. Xin dẫn một đoạn về tham vọng của Mao Trạch Đông: “Chủ tịch Mao Trạch Đông (còn) khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo… Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”. (Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, 1979).

Như vậy, tham vọng chia cắt Việt Nam một lần nữa như đã nói trên, không phải là không có căn cứ, với bọn Bá quyền Đại Hán Bắc Kinh, thì mọi việc đều có thể. 

4. Vài lời kết
1. Không ngẫu nhiên mà Trung Quốc thực hiện đầu tư lớn vào hai vị trí Vũng Áng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh và cảng Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị. Thời gian đầu tư dài, trên một dải đất hẹp nhất của Việt Nam, đủ điều kiện để Trung Quốc thay người Việt ở hai địa phương này bằng người Tàu. Rất có thể có nguy cơ đến một thời điểm thích hợp (sau 15-25 năm), Trung Quốc sẽ phát động chiến tranh và chia đôi Việt Nam một lần nữa để mưu chiếm toàn bộ Biển Đông.

2. Nếu vẫn tiếp tục để Trung Quốc lộng hành và không kiểm soát được họ tại hai địa điểm nói trên thì đó là sai lầm mang tính lịch sử. Nhân dịp 35 năm ngày xảy ra chiến tranh Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17/02/1979-17/02/2014), việc để Trung Quốc bất ngờ phát động và xâm lược trên toàn cõi biên giới phía Bắc đêm 16 rạng sáng ngày 17/02/1979, mà phía Việt Nam không hề hay biết, là bài học cảnh giác, nếu như còn muốn Việt Nam tồn tại như một quốc gia độc lập, mà không muốn bị chia cắt một lần nữa hoặc tự biến thành một tỉnh của Trung Quốc.

Ngày 15 và 16/02/2014
N.H.Q.


Nguồn: BVN
-------------------
Ghi chú:
(1) Báo động: Người Trung Quốc lại sắp lập căn cứ ở Quảng Trị
(2) Khởi Công xây dựng Nhà máy gang thép Formosa Hà Tĩnh
(3) Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc
(4) Nhà văn Phạm Xuân Nguyên: Cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung là một sự thật lịch sử không thể xóa bỏ
(5) Căn cứ hải quân Du Lâm

Tù chính trị, kinh kệ, và mộ bia…


My Lai, VietnamDọc Nam Bắc thì những khu mộ gia đình thi nhau… hoành tráng. Đường vào kinh rạch thì mái nhà vẫn thật là… phơi bánh tráng.
Vespa Saigon. Nguồn: OntheNet
Vespa Saigon. Nguồn: OntheNet
Bố rất ít đến chùa chiền đình miễu ngoài đền đức thánh Trần ở đường Hiền Vương gần nhà. Năm 1963, Bố bị mật vụ bắt giam mấy tháng vì lý do không đâu. Mẹ nói trại ra rằng vì Bố hay ghé chùa Xá Lợi nghe Đại Đức Thích Giác Đức thuyết pháp, họ ghi số xe Vespa và đến nhà bắt. Thực ra thì chẳng phải vậy. Hai ông chống Ngô chí sĩ, hẹn nhau trước nhà bố mẹ trao tài liệu để gửi ra ngoại quốc lên án chế độ độc tài gia đình trị, một ông bị bắt khai ra! Bác gì beo béo đến thăm cứ lẩm bẩm,“Ông Diệm chắc sắp sụp, bắt ai lại đi bắt thằng PVC, nó mà chính chị chính em gì!” Năm ấy, anh em ông Diệm sụp thật!
Khoảng 20 năm trước, Bố Mẹ di cư sang Hoa Kỳ. Không biết từ đâu, Bố nhất định bảo thằng con chở cho đi nghe thuyết pháp. Mình thì chỉ đi làm tài xế, chẳng chú tâm gì; lúc bé đi học trường đạo, nghe chuông nhà thờ nhiều hơn chuông chùa; làm dấu thánh giá hàng ngày giỏi hơn là đọc bài kinh tiếng Phạn; ở nhà thì chỉ thờ ông bà, không cúng ông công ông táo thần tài thổ địa chi chi. Sau buổi thuyết pháp giờ chẳng nhớ ai nói gì; mua vài quyển sách mà đến giờ vẫn chưa giở ra đọc; mình có ba nhận xét là lạ về con người. Có bận chia xẻ với anh bạn lớn tuổi hơn gặp ở đấy hôm ấy, anh bảo mình viết thư hỏi nhà sư về những nhận xét ấy đi! Anh bạn chỉ xúi dại. Mình chỉ cười hì hì! Trong phòng, Bố treo ảnh đức Thích Ca đen trắng và có quyển kinh tự bao giờ!
Hơn 10 năm trước, khi Bố còn khỏe, ông anh rủ về nước, thăm quê cũ của Bố. Cháu của Bố đông lắm ngoài Bắc, nay cũng đã có đồng ra đồng vào đồng để dành. Thời dấu nhẹm gốc gác tư sản, địa chủ đã qua, cộng thêm mấy cái “bằng” liệt sĩ nằm trên bàn thờ, cũng đảng đoàn, dù lọng phe cánh như cả nước; bàn với ông chú là bực trưởng thượng còn sót duy nhất, đang sống ở ngoài nước, “Chúng cháu định tìm lại mộ cụ tố, xây lại cho tươm tất như người ta, chú nghĩ sao?” Cái biển sơn son tên cửa hiệu của ông nội vẫn còn, treo trên đầu nhà con cháu đang tụ họp, cũ kĩ nhện giăng bám bụi đầy. Ông anh kể lại: Bố nhìn các anh chị ấy rồi chậm rãi nói, “Mộ bố tôi, chiến tranh, loạn lạc, sơ tán… tôi còn chưa biết có phải là đấy không, nói chi đến mộ của ông tôi, cụ cố. Thôi các Bác mất rồi, các anh chị sống sao cho ra người là được!”
Sapa. Nguồn: adventurealive.com
Sapa. Nguồn: adventurealive.com
Ra Bắc nhiều bận thế mà chưa bao giờ từng về quê của Bố. Mấy ông anh họ ở Hà Nội cũng có rủ mà không có dịp. Dọc Nam Bắc thì những khu mộ gia đình thi nhau… hoành tráng. Đường vào kinh rạch thì mái nhà vẫn thật là… phơi bánh tráng. Chỉ tiếc không nhớ truy xem có anh Tư, anh Ba, anh Mười, anh Hai Mươi… nào cùng họ Phạm để mà buông tên rải đạn không?
Phạm Thăng

Nguồn: Tù chính trị, kinh kệ, và mộ bia…. Phạm Thăng. Facebook, 25/2/2014 DCVOnline minh họa.

Tự do ngôn luận

truong_duy_nhat_464x261Ở các xứ tự do người ta thường quan tâm đến việc đình bản của một tờ báo vì một số lý do. Quan trọng hơn hết là vấn đề “tự do ngôn luận”. 
SGTT  đóng cửa. Nguồn: Facebook Nguyen Viet Ha
SGTT đóng cửa. Nguồn: Facebook Nguyen Viet Ha
Tờ báo chết, bất kỳ lý do nào, người ta đều có cảm tưởng rằng quyền tự do ngôn luận vừa bị một tổn thất lớn. Mà khi quyền tự do (ngôn luận hay báo chí) bị hạn chế, một cách trực tiếp, quyền con người bị đe dọa.
Trong thời kỳ bùng nổ Internet, người ta lần hồi có thói quen đọc báo “mạng” nhiều hơn đọc báo giấy. Nhiều tờ báo bị đóng cửa vì lý do kinh tế. Người ta lo ngại ở đây là lo cho những công nhân, những phóng viên… nói chung là nhân sự làm nên tờ báo, bị thất nghiệp, không có công ăn việc làm. Quyền tự do ngôn luận trong chừng mực, không bị đe dọa trực tiếp. Vì tờ báo này chết còn có những tờ báo khác, hay radio, TV… cho những người không truy cập internet.
Một tờ báo ở Việt Nam vừa bị đình bản. Nhiều người “nhỏ nước mắt” tiếc thuơng.
Nền báo chí của Việt Nam, báo giấy cũng như báo mạng, tất cả đều chịu sự lãnh đạo của đảng CSVN, gián tiếp hay trực tiếp. Tờ báo này chết, còn đến 700 tờ báo khác trăm hoa đua nở, tiếp tục “hót mãi những lời chim chóc”.
Dĩ nhiên tôi không có lời thuơng tiếc nào cho bất kỳ một tờ báo nào ở Việt Nam vừa đăng lời cáo phó. Tôi chỉ lo ngại cho tương lai những nhân sự đã cộng tác với tờ báo. Không biết tương lai họ sẽ sống bằng cách nào? Những người này (và nhiều người khác nữa sắp tới đây) là nạn nhân trực tiếp của sự khủng hoảng kinh tế trong nước, chứ không phải vì bất kỳ hình thức hạn chế “ngôn luận” nào của nhà cầm quyền. Quyền tự do báo chí (hay ngôn luận) ở VN vẫn là một màu đen tối, như bản báo cáo mới nhất về nhân quyền của các nước trên thế giới.
Tôi đang lúng túng không biết phải mở lời thế nào để chia sẻ với nhà báo Trương Duy Nhất hiện đang bị giam giữ (một cách phi lý) vì các tội mơ hồ “lợi dụng quyền tự do dân chủ”. Lời cáo phó của tờ báo là cơ hội để tôi có một lời “công đạo” với nhà báo Trương Duy Nhất.
Trương Duy Nhất. Nguồn: OntheNet
Trương Duy Nhất. Nguồn: OntheNet
Tôi chỉ biết nói rằng, ở các xứ bình thường, người ta luôn đem các nhà lãnh đạo, những chính trị gia ra để làm trò hề, chọc cười. Và việc này là một “sinh hoạt văn hóa”, một nghề nghiệp chân chính, nhưng những nghề khác. Người ta phân biệt đâu là giới hạn của “riêng tư”, đâu là lãnh vực của “công chúng”. Những lãnh đạo quốc gia, những nhà chính trị… là những gương mặt thuộc phạm vi công chúng.
Ông Trương Duy Nhất có một số bài nói về các lãnh đạo VN hiện nay, tức nói về một vấn đề thuộc phạm vi “công chúng”.
Bản cáo trạng của viện Giám Sát kết tội ông Nhất viết bài
“không đúng sự thật, tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước”.
Thế nào là ý nghĩa của “xuyên tạc” trong “xuyên tạc đường lối, chính sách, pháp luật” của đảng và nhà nước?
Những bài viết của ông Nhất liên quan đến “đường lối, chính sách” của đảng và nhà nước, có thể trái với “ý” của đảng, nhưng nó lại vừa “lòng dân”. Bởi vì, thực tế chứng minh, các chính sách, đường lối của đảng đã đem lại lợi ích nào cho đất nước, cho nhân dân?
Các đại công ty (không phải chính sách của đảng thì của ai?) lần lượt sụp đổ, đem lại nợ nần hàng chục tỉ đô la. Ai vào đây gánh nợ?
Chính sách giáo dục đi từ thất bại này sang thất bại khác. Luân lý, đạo đức suy đồi. Xã hội xáo trộn, người dân sống bất an. VN không đào tạo được nhân công cao cấp đúng tiêu chuẩn cung ứng cho thế giới, cũng bất lực trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người vừa tốt nghiệp. Thất bại ở đây không phải là chính sách của đảng thì của ai?
Các quặng mỏ khoáng sản, than đá, dầu khí… khai thác gần cạn kiệt. Nhân dân hay đảng đã khai thác? Đảng và nhà nước đã xây dựng được gì cho đất nước, cho nhân dân từ các nguồn tiền đó? Hạ tầng cơ sở không xây dựng được gì. Những công trình xây dựng đều do vốn nước ngoài đầu tư. Các trạm thu phí dựng lên từng chặn đường là để bóc lột người dân trả nợ cho chủ đầu tư. Vậy thì các khoản tiền thu từ khai thác hầm mỏ (hàng 40 năm nay) như vậy đã đi đâu? Người dân hay đảng đã hoang phí?
(Thật là một xấu hổ lớn, Hà Nội vừa tổ chức sinh nhật ngàn năm tuổi. Không có một cây cầu nào của người VN xây qua sông Hồng. Sài Gòn đi Nha Trang (khoảng 400km) phải mất một đêm. 92 km từ Hội An đi Đà Nẵng mất 5 tiếng đồng hồ. Từ Hạ Long về Hà Nội con đường ô nhiễm nhất nước, mất 7 giờ. Bụi than đen che phủ mọi nhà, không thấy một bóng cây xanh. Hiện nay, tại khu vực Hạ Long, người ta còn khai thác đá bừa bãi, phá hoại cảnh trí thiên nhiên. Trong khi tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội vẫn vậy, do Pháp xây dựng từ trăm năm nay. Không thể tả hết những dơ bẩn kinh hoàng của chuyến tàu đêm trên tuyến đường này. Du khách đi một lần rồi không bao giờ trở lại. Dơ bẩn là một chuyện. Thời gian là chuyện khác. Không ai đi du lịch mà chấp nhận thời gian mất cho giao thông tương đương với thời gian đi ngoạn cảnh.)
Về việc bôi nhọ những gương mặt của công chúng, ông Nhất viết rằng TT Dũng viết sai lỗi chính tả.
Thì đúng như vậy! Ông Dũng gốc Nam Kỳ (dân ruộng như tôi) hay viết sai chính tả. Đây là một sự thật. Nói ông Nhất “bôi nhọ” lãnh đạo là không đúng.
Về những nhân vật khác cũng vậy, ông Nhất viết đều đúng, hay thể hiện một thực tế, không thể phản biện được.
Viện Kiểm Sát kết tội Trương Duy Nhất như vậy là không thuyết phục.
Cũng như nhà báo Hoàng Khuơng, nhà báo Trương Duy Nhất, một con ngựa đau, cả tàu tranh ăn cỏ của con ngựa bệnh.
Sự thật là vậy. Không bao nhiêu người đồng liêu với ông Nhất lên tiếng bênh vực ông này.
Một tờ báo chết, 700 tờ báo khác sống. Tất cả đều thuộc về một ông chủ. Sự sống chết của tờ báo trực thuộc vào nhu cầu của ông chủ.
Nhưng một người cầm viết thì không ai có thể quyết định sự sống chết như tờ báo. Mọi quyết định trong chiều hướng này đều chà đạp lên đạo lý con người, phỉ nhổ vào công lý, lăng mạ vào danh dự của cả cộng đồng nhân loại.
Im lặng trong hoàn cảnh này là đồng lõa.
Trương Nhân Tuấn

Nguồn: Tự do ngôn luận. Trương Nhân Tuấn. Facebook, 25/2/2014. DCVOnline đề tự và minh họa.

THẤY GÌ TỪ HAI CÚ LỪA ĐẦU NĂM


Đặng Vũ Chấn

Có hai sự kiện khá nổi bật vào đầu năm 2014 mà thoạt trông người ta thấy rất tích cực từ giới cầm quyền.

Trước tiên là thông điệp đầu năm của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. Thông điệp này nghe rất khoái lỗ nhĩ: nào là phải “đổi mới thể chế phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân”; nào là
“Nhà nước pháp quyền phải thượng tôn pháp luật. Pháp luật phải bảo đảm được công lý và lẽ phải. …. Người dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Mọi quyết định quản lý của Nhà nước đều phải minh bạch…..Phải mở rộng dân chủ trực tiếp và hoàn thiện cơ chế bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Sớm thực hiện thí điểm Nhân dân trực tiếp bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã …. Đồng thời, phải hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội, tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng chính sách và lựa chọn cán bộ. Nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và trách nhiệm giải trình của người đứng đầu cơ quan hoạch định chính sách……Sự phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải trên cơ sở bảo đảm tính độc lập theo chức năng được phân công và yêu cầu kiểm soát lẫn nhau, bổ trợ cho nhau theo quy định của pháp luật”….v.v…

Và cũng trong tháng 1/2014, lần đầu tiên, truyền thông lề đảng đồng loạt tung ra loạt bài có vẻ trìu mến vinh danh các chiến sĩ VNCH đã hy sinh trong trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974, thậm chí phỏng vấn các quả phụ của họ và những chiến sĩ hải quân VNCH đã tham chiến và còn sống. Chánh quyền Đà Nẵng còn rầm rộ chuẩn bị lễ tưởng niệm trận Hoàng Sa 1974. 

Những người nhiều kinh nghiệm với giới cầm quyền CSVN không mấy hồ hởi phấn khởi trước những sự kiện trên và đã cảnh giác nhau chuẩn bị tinh thần rằng coi vậy mà sẽ không phải vậy, vì đã quá biết khả năng chuyên nói một đằng làm một nẻo mà chính ông thủ tướng đồng chí X đã chứng minh qua những câu nói xanh rờn khi mới lên nhậm chức: “Tôi không thích sự giả dối,…. Nếu không trừ được tham nhũng tôi sẽ từ chức… “. Và người ta cũng không quên chiêu lừa bịp mới đây của nhà cầm quyền khi lên giàn giá cho dân góp ý sửa đổi Hiến Pháp thả giàn “không có vùng cấm” để rồi những góp ý xây dựng thẳng thắn của bao nhân sĩ trí thức đều bị lơ đi, thậm chí còn bị Tổng Bí Trọng lên án là tha hoá; và Hiến Pháp mới về cơ bản vẫn như cũ với lời khẳng định “đã được sự đồng tình của tuyệt đại đa số nhân dân” (Chắc chắn đến độ không cần bỏ phiếu thăm dò!)

Thế nhưng đây là lần đầu tiên một lãnh đạo CSVN nói đến chuyện cần phải đổi mới thể chế, một ý tưởng đụng vào vùng cấm cốt lõi của chế độ, và lần đầu tiên truyền thông lề đảng, và ngay cả chính thủ tướng CSVN, chính thức vinh danh sự hy sinh để bảo vệ biển đảo Hoàng Sa của các chiến sĩ hải quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một thành phần dân tộc mà từ trước đến nay CSVN vẫn coi và đối xử như là địch, ngụy, v.v.... Cho nên không ít người dân, dù không tin hẳn, nhưng vẫn không khỏi khấp khởi hy vọng về một thay đổi tích cực nào đó trong tư duy của giới cầm quyền. 

Rồi những gì xẩy ra sau đó, chúng ta đã biết.

Khi sát tới ngày tưởng niệm hải chiến Hoàng Sa, truyền thông lề đảng được lệnh tắt tiếng về chủ đề này. Tại Đà Nẵng lễ tưởng niệm trận Hoàng Sa tưởng là sẽ trang trọng, ngày chót bị huỷ bỏ. Sinh hoạt tưởng niệm của người dân tại công viên Lý Thái Tổ bị phá đám bởi công an chiếm trước công viên, giả dạng thợ cắt đá bụi tung mù. Nhà nước tuỳ tiện cấm ông Phạm Chí Dũng xuất cảnh để tham dư hội thảo quốc tế tại Liên Hiệp Quốc theo lời mời của UN Watch, dù ông này không vi phạm một luật lệ nào cả và không có luật nào cấm ông xuất cảnh. Các bloggers và khuôn mặt đấu tranh vẫn bị hạch sách tuỳ tiện áp giải vào đồn công an, người dân vẫn bị cấm và ngăn chặn vào tham dự các phiên toà được gọi là công khai mở ra cho quần chúng; v.v…

Sự ứng xử của Đảng và Nhà nước CSVN ở trên càng củng cố niềm tin của người dân vào câu nói nổi tiếng của cựu tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: "Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm”. Người dân bây giờ không còn ngạc nhiên mà coi đó là chuyện bình thường đương nhiên khi thấy Đảng và Nhà Nước nói một đàng làm một nẻo. Điều này có thể làm cho những người chống cộng vui khi thấy càng ngày càng nhiều người hoàn toàn mất tin tưởng vào đảng và nhà nước CSVN, đến độ coi sự dối trá, lật lọng của CS là chuyện bình thường.

Nhưng nếu nhìn trên quan điểm Canh Tân con người và đất nước về lâu về dài, thì đây lại là điều đáng lo ngại phải cảnh giác. Khi mà ta coi sự tráo trở dối trá, nói một đàng làm một nẻo, dù của bất cứ ai, là chuyện bình thường đến độ làm ta dửng dưng, thì có nghĩa là ta đang dần chấp nhận nó và đang dần thay đổi giá trị luân lý đạo đức của mình theo chiều hướng tiêu cực đi xuống. Và khi sự bình thường hoá này trở thành phổ quát lâu dài, sự tráo trở dối trá len lỏi vào rồi trở thành một đặc tính văn hoá dân tộc. Cho nên nếu không muốn dân tộc Việt ta có những nét văn hoá suy đồi tha hoá, thì không thể coi thái độ ứng xử nói một đàng làm một nẻo của CSVN là chuyện bình thường mà là chuyện đáng phẫn nộ phải lên án. Và nếu vì lý do nào đó không thể hay không dám bày tỏ sự phẫn nộ bất bình của mình, thì ít nhất ta cần truyền đạt với con cháu trong nhà rằng sự gian dối tráo trở như đảng CSVN là những hành vi phản đạo đức làm xấu con người.

Ngoài ra khi nhìn lại hai cú lừa đầu năm trên, ta thấy dù giới cầm quyền CSVN làm một nẻo khác với gì họ nói, nhưng ít ra họ đang phải nói theo những gì người dân đã từng hô hào cổ võ từ bấy lâu nay: đổi mới thể chế và vinh danh các chiến sĩ VNCH quyết thủ Hoàng Sa. Đây là những điều mà họ vẫn cố thủ coi là vùng cấm, nhạy cảm. Đang từ tư thế một đảng và Nhà nước luôn đóng vai trò chủ đạo bắt dân đi theo mình, không phải tự dưng mà họ lại biết ít nhất nói theo những gì người dân muốn nghe. Đây chính là kết quả, dù mới sơ khởi, của bao nỗ lực đồng loạt lên tiếng qua nhiều hình thức khác nhau của những người dân đã vượt thắng được sự sợ hãi bạo lực chuyên chế để tạo áp lực lên chế độ. Thực thế ta đang thấy người dân không còn chờ đợi sự chỉ đạo hay cho phép của nhà cầm quyền mà đang vượt lên trước nhà nước khiến bên cầm quyền bắt đầu phải chạy theo đối phó hay vuốt theo. Điều này được thấy rõ qua sự nẩy sinh gần đây của nhiều nhóm xã hội dân sự không cần xin phép nhà nước và qua mặt trận truyền thông. Báo đài lề đảng nhiều lúc đã phải thích ứng chạy sát theo bên lề dân vì không thể không đề cập đến nhiều vấn đề “nhậy cảm” mà trước đây họ đã bưng bít tránh né. Điều trên cho thấy dân ta có khả năng làm chủ thật sự đất nước mình vì có tiềm năng kéo nhà cầm quyền theo hướng dân muốn dù có tất nhiên gặp cản lực của bộ máy đương quyền. Thấy rõ được tiềm năng này, chúng ta sẽ tự tin hơn để mà rủ nhau đông đảo thực hành tinh thần “Người Dân Phải Đi Trước, Nhà Nước sẽ theo sau, Đổi Thay Tất Mau Tới”.

Bảo tồn những giá trị luân lý đạo đức dân tộc thời trước Cộng sản, và xây dựng củng cố sự tự tin vào khả năng ép kẻ nắm quyền theo ý hướng của dân tức cũng là vun đắp nền móng cho một xã hội dân chủ thực sự và cho công cuộc canh tân đất nước mai sau.

Chuyện xe ôm nữ tại Việt Nam

doandu0227141
Đoàn Dự ghi chép
Trước giờ, khi nói đến “xe ôm”, người ta nghĩ ngay đến “anh xe ôm”, “ông xe ôm”, ít ai nghĩ đến chuyện chị xe ôm, bà xe ôm hay… em xe ôm. Giản dị là vì người ngồi sau xe, ôm người lái, thường đương nhiên phải là phụ nữ. Xã hội chưa thân thiện lắm với hình ảnh ôm phụ nữ giữa đường. Vậy nhưng lãnh vực xe ôm nay đã có các cô, các chị tham gia, thậm chí còn lập cả “đội” chạy xe.
Phần “ghi chép” sau đây là tổng hợp của Đoàn Dự về hiện tượng mới này…

I. Đội xe ôm nữ “thân thiện” ở Hà Nội
“Các cô xe ôm nữ xinh đẹp” đang là đề tài được dư luận trong nước quan tâm những ngày gần đây. Nhiều người tò mò bởi lẽ chuyện con gái chạy xe ôm đã là điều ít thấy mà ở đây những “tay lái” lại toàn là sinh viên các trường đại học hay cao đẳng ở Hà Nội. Đội xe ôm nữ mang tên Xe Ôm Thân Thiện đã hoạt động được hơn hai tháng nay, hiện có sáu thành viên tham gia trong nhóm này.
Khác với những “xe ôm” chuyên nghiệp, các nữ sinh viên này không phải đứng nắng hoặc đội mưa chờ khách, mà công việc của các cô đơn giản và nhẹ nhàng hơn, là đưa đón học sinh đã được hợp đồng trước với công ty, tới trường hay từ trường về nhà. Anh Phạm Văn Hiệp, Giám đốc công ty dịch vụ Xe Ôm Thân Thiện, cho biết nhiều phụ huynh học sinh muốn kiếm phụ nữ để đưa rước con em mình nên anh nảy ra ý định thực hiện nhóm xe ôm nữ thân thiện. Hiện nay, công ty đã nhận 10 hợp đồng đưa đón con em.
Khi đăng trên Internet thông tin muốn tuyển nhân viên, anh Hiệp đã nhận được nhiều lời xin tham gia của các bạn trẻ. Tuy nhiên, lúc được biết mình sẽ phải ăn mặc đồng phục, đội loại mũ có dấu hiệu của công ty, phía trước xe gắn tấm bảng lớn: “Xe Ôm Thân Thiện”, nhiều cô ngại ngùng rút lui vì cho rằng chạy xe ôm là nghề hạ tiện, không muốn cho mọi người biết.
doandu0227142
Mai Nguyệt Ánh, sinh viên năm thứ hai Khoa Du lịch, Đại học Công nghiệp Hà Nội, cho biết: “Ngày đầu chạy xe, em có cảm giác mọi người đều nhìn mình chăm chăm vì thấy mình mặc bộ đồ đồng phục còn xe thì có chữ “Xe Ôm Thân Thiện” to đùng. Thậm chí, có ông đã đi qua rồi còn dừng xe, quay đầu lại để nhìn cho rõ. Lúc đó em lúng túng, thấy rất xấu hổ”. Cô cũng cho biết là rất e ngại nếu gặp bạn bè mà họ biết mình chạy xe ôm.
Tuy nhiên, suy nghĩ kỹ, cô tự an ủi rằng nghèo thì phải vậy, đây là một công việc chính đáng, giúp mình trang trải phần nào chi phí trong khi còn đang đi học, cho bố mẹ ở quê đỡ phải lo. Cô nghe nói tại những xứ giàu có, như bên Mỹ chẳng hạn, các sinh viên sống rất tự lập. Họ đi rửa bát dĩa trong các nhà hàng, lau cửa kính trong khách sạn, đi cắt cỏ thuê v.v.., họ có mặc cảm gì đâu, trong khi nước họ rất giàu. Nghĩ như vậy nên cô thấy tự tin, không còn bị mặc cảm nữa. Chạy xe ôm đưa đón học sinh trong nhóm “Xe Ôm Thân Thiện” mỗi tháng cô cũng kiếm được từ 2 đến 3 triệu đồng (khoảng 100 đến 150 Mỹ kim), số tiền này rất lớn đối với bố mẹ cô làm nông ở quê.
Hoàng Thị Xuân, sinh viên năm thứ ba Đại học Sư Phạm Hà Nội, cho biết cô đã từng trải qua nhiều công việc làm thêm, như kèm trẻ tại tư gia, tiếp thị bia rượu trong các nhà hàng, v.v… Nhưng làm gia sư (kèm trẻ) lương rất ít, may mắn kiếm được chỗ dạy 2 hay 3 em, thì mỗi tháng được khoảng từ 1 triệu tới 1,5 triệu đồng. Còn tiếp thị rượu bia thì phải tiếp xúc với những ông khách ăn nhậu, nhiều ông thuộc loại thô lỗ, lúc say xỉn cứ lè nhè bắt mình uống với các ông ấy, không uống thì các ông ấy nổi giận, mắng vào mặt mình, mà uống thì đầu óc ngà ngà, choáng váng, tối về không học hành gì được. Riêng chạy xe ôm thì cô thấy “lại tốt, các em học sinh quý mình lắm. Nhất là các em gái, thân thiết với mình, coi mình như người chị ruột”. Phần bạn bè của cô, “Lúc đầu họ cũng trêu chọc nhưng trêu cho vui vậy thôi chứ không có ác ý, vì họ biết nhà mình nghèo, phải làm thêm để kiếm tiền ăn học”. Và Xuân giải thích: “Đối với mình, công việc nào cũng đáng quý miễn sao mình kiếm được tiền một cách chính đáng. Hơn nữa mình học về ngành sư phạm, ngành này đòi hỏi phải yêu mến trẻ em. Mà, lạ lùng một điều rằng khi chạy xe ôm đưa đón các em, mình thấy gần gũi và lo lắng cho các em nhiều hơn khi đi làm gia sư. Đậu xe ở cửa trường chờ các em ra, hôm nào trông thấy các em vui, nói cười tíu tít kể lại chuyện trong lớp được cô giáo khen thì mình cũng vui; còn trông thấy mặt các em ỉu xìu, hỏi chẳng buồn thưa vì bị điểm kém hay bị cô rầy, mình cũng thấy buồn và phải tìm cách an ủi các em. Chuyện “thông cảm” với các em như thế giúp ích cho mình rất nhiều trong nghề sư phạm. Sau này đi làm cô giáo chắc chắn mình sẽ thông cảm với học sinh nhiều hơn”.
Gần một tháng đưa đón bé Lộc, học sinh lớp 5 trường Lômônôxôp, Tâm – sinh viên năm thứ ba trường Luật – và cậu “khách hàng nhí” rất thân thiết với nhau. Chuyện gì ở nhà hay trường, lớp, cậu bé đều hào hứng kể cho “cô” nghe. Có lần, bị điểm kém, Lộc nhất định không chịu về nhà, cô phải cho em đi ăn kem và dỗ ngọt bé mới chịu về.
Do chỉ đi, về cùng một đường phố nên việc đưa đón trẻ đối với các “xe ôm nữ” không có gì là khó khăn. Các cô dậy từ 5 giờ sáng. Đối với các cháu nhỏ, cỡ 6 giờ 45 phút là phải đưa cháu tới lớp, giao cho cô giáo; buổi chiều, khoảng 15 giờ 45 có mặt tại trường, lên lớp đón cháu tận tay từ cô giáo. Giờ giấc đưa đón các cháu phải chính xác, không được chậm trễ, hễ chậm là công ty sẽ trừ lương và cảnh cáo ngay trong tháng đó, nên các “xe ôm nữ” phải là những người thận trọng, làm việc đúng giờ giấc. Sau khi phục vụ “khách hàng nhí” xong các cô mới trở về ăn bát cơm nguội, gói xôi hay miếng bánh mì, rồi tới trường lo việc học hành của mình.
Bố mẹ Xuân ban đầu phản đối kịch liệt chuyện con gái chạy xe ôm, nhưng sau khi cô thuyết phục và “đi làm thử”, thấy rất ổn nên phụ huynh cũng bằng lòng.
doandu0227143
Trước khi các “xe ôm nữ” gia nhập nhóm “Xe Ôm Thân Thiện”, thì có khoảng hơn 20 nam sinh viên đã làm nghề chạy xe ôm rồi. Các chàng này cực nhọc hơn các cô gái vì phải tự mình đón khách hoặc chở thuê hàng hóa. Phạm Ngọc Thành, sinh viên năm thứ tư Đại học Công nghệ Hà Nội, kể rằng hồi đầu “liều mình” đi làm nghề chạy xe ôm, “chàng” đã phải bịt khẩu trang kín mặt vì xấu hổ. Bây giờ thì quen rồi, ngay bạn bè nếu cần muốn chở thì chàng cũng chở, không hề mặc cảm gì. Thỉnh thoảng, hễ rảnh, cánh sinh viên nam chạy xe ôm lại gặp gỡ, uống cà phê hay trà đá, cùng nhau chuyện phiếm, tán dóc những việc trên trời dưới biển. Chỉ một vài năm nữa thôi, sau khi ra trường họ sẽ trở thành những kỹ sư, bác sĩ, luật sư, v.v… không còn là những anh chàng chạy xe ôm tội nghiệp và nghèo mạt rệp nữa.
II. Đội xe ôm nữ ở miền Tây
doandu0227144
Núi Cấm ở huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang (Long Xuyên) là “nóc nhà” của miền Tây, cao 705 mét, sách chữ Hán gọi là Cẩm Sơn (núi đẹp như gấm), không chỉ đẹp và huyền bí mà còn là nơi duy nhất có đội xe ôm nữ lên tới vài chục người. Mặc dầu thuộc phái nữ nhưng họ không “liễu yếu đào tơ” mà rất mạnh mẽ.
Mềm mỏng trong ăn nói, khỏe mạnh trong công việc
Chẳng cần phải hỏi thăm ai, vừa bước xuống xe ở khoảng đất dưới chân Núi Cấm thì đã nghe hàng chục “tài xế” xe ôm cả nam lẫn nữ xúm tới vồn vã mời chào: “Lên núi há anh Hai? Em chở anh Hai ngheng?”, tôi (nhà báo) nhìn lướt qua một lượt những gương mặt sạm nắng rồi tiến tới một phụ nữ khoảng ngoài 30 tuổi, mập mạp, khỏe mạnh: “Cô chở tôi được không?”. “Dạ, được chớ ạ”. “Đây lên chùa Phật Lớn cô lấy bao nhiêu?”. “Dạ thưa 150 ngàn đồng. Em cũng lấy bằng giá như những người khác vậy thôi”. Tôi bật cười: “Tưởng phái nữ thì phải mắc hơn chứ. Xin lỗi, tên cô là gì, tôi hỏi để lúc về sẽ nhờ cô chở luôn xuống cho tiện”. “Dạ thưa em tên Sương, bạn bè thường kêu Ba Sương. Anh coi số xe của em chớ ở trển đông, sợ lộn với các xe khác”. “Lộn sao được, trông cái xe Wave màu xanh mới tinh là biết liền”. Và tôi hỏi thêm: “Xuống núi cô cũng lấy cùng giá đó?”. “Dạ, xuống núi coi vậy chớ nguy hiểm hơn lên núi. Yếu tay lái một chút là té ào xuống dốc chết luôn thắng cũng hổng kịp”. Rồi cô nói tiếp: “Nếu anh đi “rờ-tua” em sẽ bớt anh 20 ngàn, còn 280 ngàn cả đi lẫn về”. Tôi cười: “Hỏi cho biết vậy thôi chứ công cô chạy xe, bớt của cô hai chục ngàn bạc làm gì. Thôi ta đi nghe cô”. “Dạ”.
doandu0227145
Tôi ngồi lên xe. Chiếc Wave 100 phân khối của cô Sương nổ máy, rồ ga, rồi bắt đầu chạy.
Con đường chính lên núi rất rộng nhưng có những bậc đá, xe ôm không đi được nên phải chạy đường trong phía bên cạnh, nhiều chỗ gồ ghề, lởm chởm, thường có những tảng đá nằm chắn ngang, phải rành đường và vững tay lái lắm thì mới chạy nổi. Theo lời ông chủ tịch xã An Hảo vùng Núi Cấm, thì chung quanh khu vực Núi Cấm có cả mấy trăm người chạy xe ôm, trong đó có khoảng hơn 100 nữ, nhưng đa số họ chỉ chạy vào các ngày lễ mà thôi. Số nữ chạy xe chuyên nghiệp cỡ chừng hơn 30 cô, họ rất khỏe và rất thạo nghề, giàu kinh nghiệm nên mới dám chở khách lên núi kể cả những hôm thời tiết không được tốt.
Quả thật, mới bắt đầu cuộc hành trình, thấy con đường nhỏ hẹp cỡ chừng non một mét, ngoằn ngoèo, gồ ghề, lởm chởm, tôi không khỏi ớn lạnh, có những đoạn dốc nhiều đoạn quanh gắt, khiến tôi có cảm tưởng chỉ sơ sẩy một chút là té dập mặt hoặc gãy chân gãy cẳng.
Cô Sương gần như cúi sát xuống tay lái, hai chân duỗi thẳng, luôn luôn đạp thắng và hai cánh tay ghì lái rất vững. “Anh ngồi sát vô, ôm chặt lấy em đừng ngồi xích ra kẻo té”. Cô luôn miệng nhắc tôi vì thấy tôi giữ ý không muốn ôm chặt ngang bụng cô.
Ông Nguyễn Văn Bân, trưởng Ban quản trị chùa Phật Lớn, kể cho tôi nghe, ở khu vực Núi Cấm có khoảng 400 “tài xế” cả nam lẫn nữ mưu sinh bằng nghề xe ôm, trong đó có khoảng hơn 30 nữ chạy chuyên nghiệp, tức có tên trong nghiệp đoàn xe ôm. Nhưng vào các ngày lễ, khách từ các nơi đổ về tham quan, cúng vái rất đông mà khách phụ nữ lại thích thuê xe ôm nữ, số xe chuyên nghiệp không đủ nên có hàng trăm cô khác tham gia để kiếm ăn thêm. Tuy là nữ nhưng họ là dân nhà quê, rất khỏe mạnh không thua gì nam giới. Phái nữ luôn luôn thận trọng, chạy với tốc độ vừa phải nên phái nữ thích thuê xe của họ.
Xe của cô Sương còn mới song do suốt chặng đường phải chạy số nhỏ nên nó cũng gào rú và nhảy tưng tưng như mọi xe khác. Con đường lên núi khoảng chừng hơn 10 cây số nhưng rất khủng khiếp nên tôi im lặng không dám nói chuyện, mà giá có nói thì “tài xế” cũng chẳng nghe vì còn phải lo chạy xe.
Đến lưng chừng núi, như mọi người khác, tôi xuống đi bộ vì từ đoạn này trở lên đường rất dốc và rất nguy hiểm, xe không thể ngồi hai người. Lên gần đến đỉnh, tức khu vực chùa Phật Lớn, cô Sương đã tới từ trước và đang đậu xe đứng đợi rồi tìm chỗ dựng xe dưới bóng mát của một cây lớn. “Em chờ anh ở đây ngheng. Anh cứ đi coi cảnh chùa bao lâu rồi về cũng được, xuống núi lẹ hơn lên núi”. “Tôi tưởng cô xuống núi xong còn đi chuyến nữa?”. “Thôi chớ, ngày mần một chuyến đủ ăn rồi, mần nhiều “xấu gái” đi thì ai chịu đây”. “Ủa, thế ra cô chưa có gia đình hay sao?”. “Dạ, có rồi, hai con rồi, nhưng cũng phải giữ gìn nhan sắc đặng thi… hoa hậu xe ôm!”. Tôi bật cười trước câu nói đùa của cô “tài xế” vui tính này, “Vậy thì “hoa hậu” để tôi ngồi nghỉ chút đã, mỏi chân quá”. “Dạ”. Cô gỡ bình nước treo trên cái móc chỗ gạc-ba-ga xe, mở nắp rót một nắp đưa mời tôi: “Anh uống nước ?”. “Thôi, cám ơn cô, tôi không khát”. Cô uống hết nắp đó, uống thêm một nắp nữa rồi đóng lại, cẩn thận treo lên chỗ cũ. Những người chạy xe ôm đường xa ở nhà quê là như vậy, họ đem theo cả nước uống lẫn cơm ăn để tiết kiệm tiền bạc.
Sự tích Núi Cấm
Núi Cấm có độ cao 705 mét, chiếm chu vi 28.600 mét, là một ngọn núi cao nhất trong Thất Sơn và cao nhất tỉnh. Núi nằm trên địa bàn xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 90 cây số và cách thành phố Châu Đốc không xa.
Núi Cấm tức Cấm Sơn là tên gọi chính thức bằng văn tự đầu tiên xuất hiện trong Đại Nam Nhất Thống Chí được biên soạn vào cuối thế kỷ 19. Sách tả: “Thế núi cao ngất, cây cối tươi tốt, là một trong bảy núi. Vì núi cao nên ít người lên đến chót…”
Còn trước đó, theo Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, ngọn núi này được gọi là núi Đoài Tốn. Và tác giả cho biết: “Núi có hình thể như cái đài cao, nghiễm nhiên ở về cung Thìn Tỵ nên gọi là núi Đoài Tốn… Núi cao đột ngột, sinh sản các loài trầm hương, tốc hương, súc sa, cây sao, giáng hương, thông tre. Cây cối tốt tươi có đường cong queo thông trong núi sâu, dấu người qua lại, gần nơi đồng ruộng, xa có bến nước, kẻ cày cấy, người đánh cá chia từng loại ở nơi chân núi…”
Có nhiều giả thuyết về cái tên núi Cấm
Theo Giáo sư Nguyễn Văn Hầu, giả thuyết đáng tin cậy hơn cả là thầy Đoàn Minh Huyên (tức Phật Thầy Tây An) đã cấm các tín đồ của mình lên núi cất nhà lập am, bởi sợ sẽ ô uế chốn núi thiêng.
Một giả thuyết khác, vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh khi bị quân Tây Sơn truy nã, có lúc phải vào núi này nương thân. Muốn tông tích mình được giấu kín, các cận thần phao tin có ác thú, yêu quái để cấm dân chúng lên núi.
Cũng có người cho rằng tướng cướp Đơn Hùng Tín (biệt danh của Lê Văn Tín, quê ở Cao Lãnh) có lúc dùng nơi này làm sào huyệt. Sợ lộ, Tín cấm dân lên núi. Bàn về chuyện này, Giáo sư Nguyễn Văn Hầu viết: “Có người lại nói rằng sở dĩ tên Núi Cấm được đặt ra là vì vùng núi này cao nhất, cây cối mọc tràn lan dày bịt, đá nằm ngang dọc gồ ghề, khi trước không thấy khoảng trống, chẳng có đường mòn, khó cho nhà chức trách đến mà khám xét được. Cảnh hoang vu tịch mịch đó rất thuận tiện cho những tay “Lương Sơn Bạc” tụ tập để gây rối cho xóm làng và các vùng phụ cận. Muốn giữ sự yên tịnh cho dân tình, nhà chức trách ở tỉnh đương thời mới ra lịnh cấm họ được ở trong vùng này. Còn cái thuyết nói tướng cướp Đơn Hùng Tín – bị Sở Mật Thám Mỹ Tho hạ sát năm 1926 – cấm dân bén mảng đến núi, nơi hùng cứ của y, chắc là không đúng”.
Thực tế, Núi Cấm còn có nhiều “vồ” (ngọn núi thuộc một dãy núi, ta thường gọi là “non”) như Vồ Chư Thần, Vồ Cây Quế, Vồ Mồ Côi, Vồ Đá Dựng, Vồ Pháo Binh v.v… Nhưng người ta thường chỉ nói năm non, bảy núi. Những con số bất dịch này, chắc do sự tác động của những quan niệm thần bí, siêu nhiên trong dân gian…
Danh thắng
Núi Cấm là nơi du lịch nổi tiếng của tỉnh An Giang, vì núi có dáng vẻ hùng vĩ, khí hậu mát mẻ (trung bình 25 độ C), phong cảnh rất đẹp và cây cối luôn xanh tươi. Trên núi có các danh lam thắng cảnh như: Chùa Vạn Linh, chùa Phật Lớn, tượng Phật Di Lặc, hồ Thủy Liêm, v.v…
Ngoài ra, dọc theo những lối mòn từ chân lên tới đỉnh núi có nhiều điểm tham quan như: suối Thanh Long, suối Tiên, điện Cây Quế, điện Mười Ba, điện Tam Thanh, điện Huỳnh Long, hang Ông Thẻ, hang Ông Hổ, hang Bác Vật Lang, động Thủy Liêm v.v… Dưới chân Núi Cấm, về phía đông là Khu Du lịch Lâm Viên với diện tích khoảng 100 ha, có cảnh quan đẹp, có đường tráng bê tông khá rộng lên đến đỉnh.
Bên cạnh các nguồn lợi từ du lịch, hành hương, cây trái… Núi Cấm còn có các nguồn lợi khác từ tài nguyên thiên nhiên như đá xây dựng, cát núi, đất sét cao-lanh và nước khoáng…
Kết luận
Dù sao chăng nữa, Núi Cấm cũng là nơi nuôi sống hàng ngàn gia đình nghèo làm nghề chạy xe ôm và là một khu du lịch rất nổi tiếng của tỉnh An Giang.
III. Người đàn bà 15 năm chạy xe ôm nuôi 3 con vào đại học
Một thân một mình với chiếc xe Honda cà tàng, 15 năm qua chị Nguyễn Thị Tuyết Hồng nuôi 4 đứa con ăn học, 3 người con lớn đã học cao đẳng, đại học, người con út cũng chuẩn bị thi tốt nghiệp phổ thông.
Tết 2014, chị Nguyễn Thị Tuyết Hồng hay chị “Hồng xe ôm” là một trong những người được Hội Khuyến học Sài Gòn tặng giấy khen và trao phần thưởng .
Vất vả, khó khăn nhưng khi được hỏi về các con, đôi mắt chị Hồng ánh lên, sáng ngời, vui vẻ lạ thường. Chị kể: “Tôi có bốn đứa con. Đứa lớn là Phạm Lộc Hồng Minh, sinh năm 1989, hiện đang học năm cuối trường Cao đẳng Du lịch Sài Gòn. Đứa thứ hai là Phạm Lộc Hồng Vân, con gái, sinh năm 1991, sinh viên năm cuối trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng. Đứa thứ ba là Phạm Lộc Hồng Oanh, cũng con gái, sinh năm 1993, đang học năm thứ hai Khoa Anh văn trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Còn đứa con trai út tên Phạm Lộc Hồng Bá, sinh năm 1996, đang học lớp 12 trường PTTH Nguyễn Trãi, năm tới sẽ thi vào đại học”. Tên chồng chị Hồng là Lộc còn chị là Hồng nên cháu nào cũng lót hai chữ “Lộc Hồng”.
Duyên cớ mà chị phải “thân cò lặn lội bờ sông”, suốt 15 năm nay cố gắng nuôi bốn con ăn học rất… đương nhiên. Năm 1998, tai họa ập xuống khi chồng chị đau ốm phải vào bệnh viện. Xét nghiệm phát giác anh Lộc bị bệnh gan rất nặng. Lúc đó, chị phải bỏ nghề buôn bán tạp hóa để vào bệnh viện săn sóc chồng. Với chiếc xe Honda cà tàng, hằng ngày những lúc rảnh chị tranh thủ ra phía trước Bệnh viện An Bình, dựng xe đón khách. Một năm sau, chồng chị qua đời và chị cũng gắn luôn với nghề chạy xe ôm từ đấy.
Chị Tuyết Hồng nghẹn ngào kể trong nước mắt: “Lúc chồng tôi mất, đứa con lớn nhất mới 10 tuổi và đứa con út mới 2 tuổi. Muốn quay lại việc buôn bán tạp hóa nhưng tiền hết, có đồng vốn nào thì đã đổ vào việc chạy chữa, thuốc men cho chồng. Có chiếc xe cũ đấy, chạy xe ôm thì được tiền ngay để trang trải cuộc sống và đưa đón con đi học”.
Kể từ đó, trong căn nhà xập xệ rộng 20m2, chị Hồng đùm bọc, nuôi nấng các con ăn học. Từ khi chồng mất, mỗi ngày của chị bắt đầu lúc 3 giờ sáng bằng việc chạy xe qua chợ Tân Quy (Quận 7, Sài Gòn) đón những khách đi lấy hàng ở chợ đầu mối nông sản Bình Điền (Quận 8). Hôm nào không có khách đi lấy hàng thì chị vẫn đợi ở cửa chợ Tân Quy để đón khách từ chợ về nhà. Cứ thế, 15 năm qua, cuộc sống của năm mẹ con vẫn đều đều như vậy.
“Chạy xe ôm cả đời để con được đi học tôi cũng chịu”
Những chuyến xe ôm của chị Hồng không chỉ loanh quanh ở Sài Gòn mà khi nào khách cần đi về tận miền Tây chị cũng sẵn sàng chở. Chuyến xe vào một trưa ngày 30 Tết khiến chị không bao giờ quên. Do vị khách quen quê ở Cần Thơ không còn xe đò về nên nhờ chị chở về quê ăn Tết. “Tôi chạy đến Cần Thơ thì trời đã tối mịt. Đường vào nhà vị khách không có đèn mà hai bên lại là kênh rạch. Đúng lúc đó, đèn xe bị hỏng, bật không lên. Tôi lẫn vị khách đều lo, ai cũng mong về được nhà mình trước giờ giao thừa. Tôi chợt nghĩ ra cách, còn đèn xi nhan, bèn bật lên để những người đi đường nhìn thấy mà tránh, không tông vào xe tôi đồng thời tôi cũng có chút ánh sáng để khỏi bị té xuống kênh. Bữa đó, mãi gần 2 giờ sáng tôi mới về đến nhà nên không được đón giao thừa với các con”.
Trung bình mỗi ngày chị Hồng kiếm được khoảng 200.000 đồng, tức mỗi tháng được khoảng 6 triệu đồng (cỡ 300 Mỹ kim). Thấy mẹ vất vả quá, các con của chị Hồng đòi nghỉ học để đi làm, nhưng chị nhất định không cho nghỉ. Chị nói: “Tôi cực mấy, túng thiếu mấy cũng được, chỉ mong đừng ốm đau để các con được tiếp tục đi học”. Và chị tâm sự: “Ngày trước tôi chỉ được đến hết tiểu học là phải nghỉ để phụ với mẹ buôn thúng bán mẹt ở chợ, chữ nghĩa ít oi, nhiều lúc thấy mình rất kém cỏi. Bởi vậy, giờ đây dù có phải chạy xe ôm suốt đời để các con được đi học tôi cũng chịu”.
Đoàn Dự ghi chép