Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

Khoa Học Phương Tây và Triết Học Phương Đông: Thực Thể và Vô Tự Tính


Cho dù tương lai của cá nhân mình ra sao, ta không thể không cố sức trong hiện tại. Cho dù thất bại hay thành công, ta không thể không góp gió cùng với dân tộc.

Cuốn phim mang tựa đề Sliding Doors (Những Cánh Cửa Kéo), ra đời vào năm 1998, kể về hai cuộc đời của một cô gái tên là Helen. Vâng, hai cuộc đời hoàn toàn khác biệt xảy ra cùng một lúc, nhưng lại là hai cuộc đời trong hai vũ trụ song hành. Helen vừa mới bị đuổi việc và được cho ra về sớm. Trên đường về nhà cô vừa kịp đến cửa xe điện ngầm thì hai cánh cửa đang từ từ kéo khép lại. Chỉ cái tíc tắc đó đã phân hóa cuộc đời của Helen ra làm hai: Một cuộc đời trong đó cô đã nhảy kịp lên xe trước khi cửa khép kín; và một cuộc đời khác khi cô đã lỡ chuyến tàu. Trong cái vũ trụ cô lên kịp tàu, Helen đã gặp một người đàn ông tên là James bắt chuyện suốt cuộc hành trình. Nhưng chỉ vì được về nhà sớm hơn mọi bữa nên cô đã bắt gặp một sự thật phũ phàng, lại làm đời cô càng thêm xáo trộn. Để dành sự bất ngờ cho những độc giả sẽ tìm xem phim này, tôi chỉ xin tiết lộ là cuối cùng khi James thố lộ là đã yêu cô thì ngay sau đó, trong lúc trái tim đang tràn ngập với những xúc cảm yêu đương, cô đã bất cẩn để bị xe đụng trong lúc vội vã băng qua đường. Và Helen đã chết trên tay người yêu.

Trong cái vũ trụ khác nơi cô đã lỡ chuyến tàu, cuộc đời Helen cũng đã phải trải qua bao sóng gió. Nhưng trong một giấc ngủ, cô cũng đã mơ thấy loáng thoáng cuộc đời của chính mình trong cái vũ trụ song hành kia, nơi cô đã bắt kịp chuyến tàu và chết trong một tai nạn xe cộ. Nhưng cũng ở đoạn kết trong cái vũ trụ này, Helen lại tình cờ gặp James lần đầu tiên, y hệt như trong đoạn đầu của cái vũ trụ cô đã lên được tàu điện. Đạo diễn đã kết thúc cuốn phim nơi đây, để dành cho người xem tự suy đoán là Helen và James rồi sẽ đi về đâu ở cái thế giới này.

Nhắc lại câu chuyện phim thú vị này nơi đây là vì tôi muốn qua đấy nói lên các vấn đề: về sự ngẫu nhiên/bất định, về các vũ trụ song hành, về định mệnh và quyền tự quyết dưới cái nhìn của vật lý hiện đại.

Theo “diễn dịch đa vũ trụ” hay “đa tâm” được đề ra trong khuôn khổ của cơ lượng tử, ngay sau mỗi lần đo đạc thì nhiều thế giới được nảy sinh ra, mỗi một thế giới tương ứng với một kết quả có thể có được của việc đo lường. Đấy đã được tiểu thuyết hóa qua hai cái vũ trụ song hành của Helen, một vũ trụ khi cô đã lên được tàu và một vũ trụ khác khi cô đã lỡ chuyến tàu — với những diễn tiến hoàn toàn khác biệt trong hai cái tương lai khởi nguồn từ hai sự việc/kết quả tưởng chừng như vô thưởng vô phạt này.

Những vũ trụ này có thể là những “hiện thực” trong ngoặc kép của thế giới vật chất (như theo thuyết “đa vũ trụ”) hay có thể chỉ là những “hiện thực” trong tâm tưởng của người quan sát (như theo thuyết “đa tâm”).

Vào năm 1964, một nhà vật lý người Ái Nhĩ Lan tên là John Bell đã công bố một định lý toán học, về sau được gọi là Bell’s Theorem (định lý của Bell). Về mặt toán học thì đây là một định lý có vẻ đơn giản, không cần dùng các phương pháp toán cao cấp để chứng minh. Nhưng về ảnh hưởng trên khoa học thì Định Lý Bell được coi là quan trọng nhất trong lịch sử khoa học từ xưa đến nay. Động lực đã khai sinh định lý này chính là cái “quấn quít bất khả phân” trong hiệu ứng EPR của cơ lượng tử.


Một mai này thuyết lượng tử nói riêng và lý thuyết khoa học nói chung có thể sẽ bị loại bỏ một khi chúng không phù hợp với thế giới thực nghiệm nữa. Nhưng cái hay của một định lý toán học là nó luôn có giá trị trường tồn trong khuôn khổ luận lý. Như mọi định lý toán học khác, Bell đã bắt đầu từ giả thuyết A để đi đến kết luận B. Cái kết luận B này của Bell lại có thể được kiểm chứng hay bác bỏ qua thực nghiệm.

Các thí nghiệm vật lý lượng tử sau đó đã đưa đến kết luận là kết luận B là “sai”, là bị bác bỏ bởi hiệu ứng “quấn quít bất khả phân”, là không phù hợp với thế giới vật chất lượng tử của chúng ta.

Nhưng đấy không có nghĩa là định lý Bell là sai. Theo toán học, một khi A suy ra B thì có nghĩa là trong một thế giới nào đó (tuân thủ theo luận lý toán học) nếu có A thì ắt phải có B. Ngược lại, trong một thế giới nào đó nếu không thể có được B thì chỉ có nghĩa là giả thuyết A là sai. Và đó là giả thuyết gì trong định lý Bell? Giả thuyết A của Bell gồm có hai phần: Một là cái thế giới vật chất này là tự nó tồn tại và có tự tính riêng; và hai là không có một tín hiệu nào có thể truyền đi một cách tức thời.

Nói tóm lại, định lý Bell và sự thành công của thuyết lượng tử đã buộc ta phải đi đến cái kết luận hoặc là cái thế giới vật chất của chúng ta không tự tồn tại, không có tự tính; hoặc là mọi vật trong thế giới này có thể liên hệ tức khắc với nhau, bất kể không gian cách biệt. Hoặc là cả hai điều này! Hay là cái thế giới này lại không tuân thủ theo luận lý toán học? Nhưng nếu vậy tại sao các phương trình cơ lượng tử lại được kiểm chứng chính xác? Chủ đích của Bell lúc đầu khi nghiên cứu vấn đề này là nhằm chứng minh cơ lượng tử là vẫn còn thiếu sót, chưa phải là lý thuyết cơ bản sau cùng của vật chất. Nhưng một cách ngoan cố cơ lượng tử vẫn tiếp tục đứng vững và đã cho ông và cho chúng ta từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.

**

Nếu những điều trên đây là quá trừu tượng hay khó tin, thì cũng không phải chỉ có chúng ta là bị nhức đầu không thôi đâu. Đến ngay chính cha đẻ của phương trình sóng là Erwin Schrödinger cũng có lúc đã phải bực mình: “Tôi không thích cơ lượng tử, và tôi hối hận là đã từng dính dáng tới nó” – “I do not like it, and I am sorry I ever had anything to do with it.”


Còn Einstein thì cũng chẳng hơn gì, ông có lần đã thú nhận trong bức thư cuối cùng gởi cho Max Born rằng:
“Điều mà tôi muốn nói là như vầy: Trong hoàn cảnh hiện tại, cái nghề duy nhất mà tôi sẽ chọn lựa là một cái nghề nào đó mà cách kiếm sống không liên quan gì đến công chuyện tìm tòi về kiến thức!”

“What I wanted to say was just this: In the present circumstances, the only profession I would choose would be one where earning a living had nothing to do with the search for knowledge.”

Cơ lượng tử là một lý thuyết vật lý nghịch lý nhất. Không một cá nhân riêng lẻ, tỉnh táo nào mà lại có thể đương không đi tạo dựng ra cơ lượng tử. Và bình thường thì không một ai hiểu biết lại có thể đi tin vào cái thuyết nghịch lý này. Nhưng cuối cùng vật lý đã phải đi đến thuyết này, không phải vì nó hợp lý, mà chỉ là vì hằng hà vô số các thí nghiệm và quan sát đã dẫn chúng ta đến cái thuyết tất yếu, phải có này. Tất yếu là vì trong khoa học hiện nay, duy nhất chỉ có cơ lượng tử là có thể dự đoán được và đã được kiểm chứng chính xác tất cả các kết quả thực nghiệm.

Nhưng cơ lượng tử càng ngày lại càng kỳ bí. Một thuyết khoa học bắt nguồn từ hiện tượng / bản thể của vật chất nay lại đi bàn về cái tâm! Chính Einstein thời sinh tiền đã thấy được điều này nên đã cho rằng: “Nếu cơ lượng tử là đúng, thì nó đánh dấu cho sự cáo chung của vật lý như là một bộ môn khoa học” — “If [quantum theory] is correct, it signifies the end of physics as a science.”

Thật vậy, cái lối “diễn giải đa tâm” của cơ lượng tử lại rất gần gũi với cái vũ trụ quan “vạn pháp do tâm tạo” trong ngoặc kép của Phật giáo.

Theo Nguyễn Tường Bách, thì Kinh Lăng Nghiêm của phật giáo nói về một thể tạm mệnh danh là “Chân Tâm”. Chân Tâm là phi hình tướng, phi tính chất, không thể nghĩ tới bàn tới. Nhưng Chân Tâm lại có thể nhận thức ngay chính mình.

Xuất phát từ Chân Tâm đó, nếu bỗng có “vọng tâm” nổi lên, thì đó là lúc Chân Tâm sẽ quay qua tự nhận thức chính mình và thấy có một thể bị nhận thức (tướng phần) và một thể nhận thức (kiến phần). Tức là, với vọng tâm, xuất hiện một lúc hai thể tính: người quan sát và vật bị quan sát. “Vọng tâm” được Kinh Lăng Nghiêm so sánh với giấc mộng, trong đó có người có ta, có cảnh vật, có diễn biến thông không gian và thời gian. Nếu tỉnh dậy thì tất cả cảnh vật trong mơ cũng không còn. “Nếu vọng tâm sinh khởi thì các pháp đều sinh khởi, vọng tâm diệt đi thì các pháp đều diệt.”

Theo Phật giáo, cái thế giới vật chất mà ta đang cảm nhận thật ra được hình thành và duy trì dựa trên vọng tưởng của tâm – vì vật chất không có một tự tính riêng biệt (pháp vô ngã), mà chỉ tồn tại trên cơ sở tương quan đối với người quan sát. Đây không có nghĩa là cái tảng đá đằng kia chỉ có trong sự tưởng tượng của ta và luôn đè nặng lên cái tâm tưởng của ta. Nhưng chính là do tâm thức của ta mà vật chất mang một “tính chất” nào đó, “hiện hữu” dưới một dạng nào đó, như trong thí dụ hạt và sóng.

Mỗi thế giới như thế tuy chỉ có giá trị đối với mỗi cá thể riêng lẻ, nhưng chúng cũng lại có thể hòa vào nhau, tưởng chừng như thể của chung của nhiều cá thể. Lúc ấy, dường như toàn xã hội, toàn loài người đều có chung một thế giới. Đó được giải thích là vì cái gọi là “cộng nghiệp”, tức là cái nghiệp chung của nhiều cá thể làm cho những cá thể đó thấy chung một thế giới — như thể chỉ có một thế giới duy nhất. Do đó khái niệm cộng nghiệp là hết sức quan trọng để giải thích thế giới hiện tượng “chung” của cái thế giới “riêng” của chúng ta.

Điều này còn dẫn đến một triết lý sâu xa hơn nữa, đó là “pháp vô ngã” và “nhân vô ngã”. Pháp vô ngã thì cho rằng không có sự vật nào tồn tại với tự tính riêng của nó cả, tất cả đều chỉ là sự biến hiện làm ta thấy “có” khi đủ điều kiện (nhân duyên sinh) để cho sự vật trình hiện trước mắt ta. Nhân vô ngã lại cho rằng con người mà ta tưởng là có một cái “Tôi” đứng đằng sau, thật sự chỉ là sự vận hành vô chủ của ngũ uẩn. Triết lý nhân vô ngã và pháp vô ngã cho thấy mặc dù thế giới hiện tượng và thế giới tâm lý vận hành liên tục nhưng đó chỉ là sự vận động nội tại của nó, và không một ai làm chủ chúng cả. Sự vận động đó chủ yếu xuất phát do động cơ tâm lý được gọi là “nghiệp” hay “nghiệp lực”. Nghiệp lực (bao gồm “biệt nghiệp” của cá thể và “cộng nghiệp” của toàn thể) chính là tác nhân làm thế giới vật chất được duy trì, làm cho vũ trụ được sinh ra và phát triển.

Tóm lại, cái nhìn của nhà Phật là thế giới vật chất chỉ là dạng xuất hiện của tâm, là sự trình hiện của tâm trước mắt người quan sát, mà người quan sát cũng là tâm nốt. Vì có người quan sát nên có vật được quan sát. Ngược lại, vật được quan sát không thể tồn tại được nếu không có người quan sát.

Điều này có thể giải đáp một câu hỏi quan trọng của vật lý là, nếu thực tại bên ngoài là độc lập với ý thức thì tại sao con người có thể nắm bắt được thực tại, và tại sao thực tại lại tuân thủ theo những công thức toán học của con người.

Vì vật chất chỉ là dạng xuất hiện của tâm, không có tự tính riêng, chỉ tùy “duyên khởi” mà trình hiện nên Phật giáo không thấy có mâu thuẫn giữa hai dạng sóng-hạt của vật chất. Cả sóng lẫn hạt đều xuất hiện khi đầy đủ nhân duyên hội tụ thì chúng xuất hiện. Trong vật lý, cái “duyên khởi” chính là cách đặt câu hỏi của người quan sát và cách xếp đặt thiết bị đo lường. Sự nghịch lý sóng-hạt chỉ có khi ta cho rằng vật chất tự nó phải có một tự tính riêng.

Cũng vậy, mọi nghịch lý trong hiệu ứng EPR, quấn quít bất khả phân, cũng có thể giải đáp được bằng vũ trụ quan này của Phật giáo — tương tự như cách giải thích qua cái “diễn dịch đa thế giới” hay “đa tâm” của vật lý lượng tử.

Mỗi thế giới trong muôn vàn thế giới này của “đa thế giới” cũng có thể được so sánh như một giấc mơ sinh ra từ cái tâm của ta. Trong giấc mơ đó mọi sự đều hài hòa, không tự mâu thuẫn, và vận hành theo những quy luật nhân quả.

Như trong Hồ Mộng Điệp khi Trang Châu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Châu nữa. Rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Châu. Không biết phải mình là Châu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm nằm mộng thấy hóa Châu. Trang Châu với bướm tất có phải là khác nhau không?

Hay cũng như khi cô Helen ở vũ trụ này mà lại nằm mơ về cái vũ trụ nơi cô đã bước lên được chuyến tàu kia. Với cô thì cái vũ trụ nào là thật hơn cái vũ trụ nào?

Nhân vật tên là Prospero trong kịch bản The Tempest (Cơn Bão) của Shakespeare, trong một cuộc vui để mừng đám cưới con gái mình, đã giải thích cho hai trẻ rằng:

“These our actors,

As I foretold you, were all spirits and

Are melted into air, into thin air:

And, like the baseless fabric of this vision,
The cloud-capp’d towers, the gorgeous palaces,
The solemn temples, the great globe itself,
Ye all which it inherit, shall dissolve
And, like this insubstantial pageant faded,
Leave not a rack behind. We are such stuff
As dreams are made on, and our little life
Is rounded with a sleep.”

Những kịch sĩ này,

Như cha đã nói trước với con, đều là những bóng ma và

Sẽ tan chảy vào không khí, vào hư vô:

Và, cũng như cái cấu trúc không nền tảng của cái ảo tưởng này,
Những ngọn tháp cao thấu mây, những hoàng cung tráng lệ,
Những đền thờ trang nghiêm, và ngay cả trái đất này,
Tất cả những gì nó thừa hưởng, sẽ tan biến
Và, cũng như đoàn diễn hành thưa thớt dần dần mờ nhạt
Không để lại dấu tích gì. Chúng ta chỉ là những vật liệu
Tạo nên những giấc mơ, và cuộc đời nhỏ bé của chúng ta
Chỉ là nằm gọn trong một giấc ngủ


Có lẽ Shakespeare muốn nói rằng khi ta chết đi cũng là lúc ta rời cuộc sống mộng mị này để tỉnh dậy trong thực tại. Hay rồi, chỉ để tỉnh dậy lại trong một giấc mộng khác — chẳng thực hơn, chẳng hư hơn giấc mộng này?

“Một mai qua cơn mê Xa cuộc đời bềnh bồng Tôi lại về bên em. … Ta sẽ thăm từng người Sẽ đi thăm từng đường Sẽ vô thăm từng nhà. … Tình người sau cơn mê vẫn xanh Dù bao tháng năm đau thương dập vùi … 
Rồi đây qua cơn mê Sông cạn lại thành dòng Xuôi về ngọn quê hương.”
(Trịnh Lâm Ngân – Qua cơn mê )

Đo lường là nền tảng cốt lõi của cơ lượng tử, trong đó kết quả của đo lường lại là ngẫu nhiên và bất định trong mỗi lần đo đạc – như sự ngẫu nhiên trong việc Helen đã hay không đã bước lên được chuyến tàu trước khi đôi cánh cửa kéo kín.

Nhưng chính cái ngẫu nhiên đó (xuất phát từ cơ lượng tử hay từ đâu đi nữa) đã cho sự sống cái cơ hội được hình thành. Vũ trụ vào lúc sơ lập, chính cái giao động ngẫu nhiên trong “nồi súp” khởi thủy đã phá vỡ sự cân bằng hóa học, tạo cơ hội cho các chất hữu cơ được hình thành từ các chất vô cơ trong nồi súp đó. Các chất hữu cơ này bao gồm luôn cả các amino acids là nền tảng của các proteins. Rồi kế đó là sự hình thành của những tế bào có thể tự sinh sản, mặc dù chúng chưa hẳn là sự sống. Và sau cùng là sự xuất hiện của sự sống từ những tế bào đơn sơ này.

Và khi sự sống đã được hình thành thì sự phát triển đa dạng của sự sống theo thuyết tiến hóa của Charles Darwin lại cũng phải nhờ vào cái yếu tố ngẫu nhiên. Các thế hệ về sau của sinh vật sẽ có những thay đổi trong các di truyền tử (genes). Sự khác biệt này một phần là do sự kết hợp từ các di truyền tử khác nhau của bố và mẹ, một phần khác là do những biến động ngẫu nhiên, tình cờ gây ra những biến dạng của gene. Môi trường sống sẽ gạn lọc, chỉ những di truyền tử nào thích hợp thì sẽ tiếp nối trong các thế hệ sau, và dần dần loại bỏ những sự sống không thích hợp. Nhất là khi môi trường có những biến động lớn về khí hậu hay điều kiện sống, thì chỉ có những sinh vật nào thích ứng được mới có thể sống còn và phát triển.

Nếu không có những sự thay đổi ngẫu nhiên, tình cờ trong các di truyền tử thì các thế hệ đi sau sẽ có cấu trúc tương tự như bố mẹ của mình và, do đó, sẽ không thích ứng và sống còn được với những biến đổi to tát của môi trường sống này. Đây là trường hợp diệt chủng của loài khủng long giống máu lạnh hàng triệu năm trước đây trên trái đất này, khi mặt trời đã bị bụi che kín trong một khoảng thời gian dài.

Nếu sự ngẫu nhiên, tình cờ là không thể thiếu được cho sự nảy sinh và tiến hóa của sự sống, thì nó có vai trò gì trong cái khả năng tự do quyết định (free will) của chúng ta không?

Theo vật lý cổ điển khởi nguồn từ Isaac Newton thì một khi các điều kiện ban đầu đã được xác định thì mọi tiến trình sau đó sẽ là cố định. Theo thuyết xác định (determinism) này thì mọi việc, nhỏ hay lớn, đều là do định mệnh định đoạt cả: “Nhất ẩm nhất trác mạc phi tiền định” — ăn một miếng, uống một hớp, không gì là không do quá khứ quyết định trước. Theo đó, con người chúng ta thật ra không có cái khả năng tự do quyết định gì cả.

Cô Helen trong phim “Sliding Doors” dù ở trong cái thế giới nào đi nữa thì cũng đã gặp James, dù sớm hay muộn. Đấy có phải là định mệnh không tránh được của cô ấy hay không?

Ngược lại, trong một thế giới mà cái gì cũng là ngẫu nhiên bất định thì không thể có định mệnh, vì không có gì có thể định trước được. Nhưng trong thế giới đó thì ta cũng lại không có luôn cả cái khả năng tự do quyết định. Quyết định làm sao được khi những biến cố kế tiếp sau đó lại hoàn toàn là bất định!

Cơ lượng tử lại nằm giữa hai thái cực này. Vì bản chất ngẫu nhiên trong sự đo đạc, cơ lượng tử không hẳn là một thuyết định mệnh, vì nó còn có chỗ trống cho sự ngẫu nhiên, bất định. Nhưng cái bất định lượng tử này lại bị giới hạn phần nào trước đó qua hàm sóng Schrödinger. Hơn thế nữa, cơ lượng tử cũng lại cho người quan sát cái tự do để chọn lựa tính chất nào, hạt hay sóng, trong việc tương tác với các đối thể bị đo lường.

Với một cấu trúc như thế, cơ lượng tử có chỗ cho cái gọi là định mệnh qua hàm sóng, nhưng cũng lại có thể dung chứa cái khả năng tự do quyết định trong khuôn khổ của hàm sóng định mệnh này.

Nhưng đấy chỉ là điều mạn đàm, vì đi từ vật chất vi mô lượng tử đến thuyết định mệnh, đến cái tự do chọn lựa của con người là một bước quá dài. Có lẽ ta đã bước ra ngoài giới hạn của vật lý nói chung rồi đấy.

Dịch học là một triết học bàn về đạo lý thịnh suy, lành dữ, hạnh và bất hạnh của cá nhân và xã hội, đất nước. Nhưng tinh thần của dịch học là “đức năng thắng số” chứ không hẳn con người là phải phục tùng số mệnh. Nghĩa là dù gặp phải cảnh ngộ khó khăn, gian khổ, nhưng nếu biết giữ đức hạnh, sống chính đáng thì dữ biến thành lành, hung biến thành cát:
“Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương” — nhà nào tích chứa nhiều điều thiện thì sẽ có thừa điều lành, nhà tích chứa nhiều điều ác thì sẽ gặp nhiều chuyện dữ.

Gia đình như vậy, cá nhân cho tới xã hội, đất nước cũng đều như vậy. Trị nước mà tàn bạo, hà hiếp, bóc lột dân quá đáng thì trước sau gì dân cũng sẽ phải nổi dậy, phá bỏ gông xiềng.

Phật giáo, vì được xây dựng trên thuyết nhân quả, nên cho rằng định mệnh không nằm trong bàn tay quyết định của thần linh hay người nào khác, mà nó tuỳ thuộc ở ngay hành động và ý tưởng của chính người ấy, thường được gọi là nghiệp. Nghiệp được tạo mỗi khi có dụng tâm, dù đó chỉ là ý nghĩ, lời nói hay hành động.
Kinh “Tiểu Nghiệp Phân Biệt” có câu: “Người là chủ nhân của nghiệp, cũng là thừa tự của nghiệp.” Nghiệp do chính mình tạo ra và nghiệp trở lại chi phối mình:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”

(Nguyễn Du – Kiều )


Phật giáo khẳng định rằng định mệnh chỉ là hình bóng của nghiệp, và không hẳn là bất di bất dịch không thay đổi được. Định mệnh có hay không là do ta. Nếu ta thụ động đổ thừa cho số mạng, hay ngồi đó chờ một phép lạ xảy ra thì lúc đó định mệnh là có thật, vì ta đã không tận dụng khả năng thay đổi cuộc sống của ta. Con người chúng ta lúc nào cũng có cái quyền, cái tự do chọn lựa, ít nhất là trong thái độ của ta đối với những biến cố trong đời sống.

Cái quan trọng không phải chỉ ở những gì đã và sẽ đến với ta, không phải là có hay không có định mệnh. Mà quan trọng cũng ở chỗ ta đã học được những gì trong quá khứ và sẽ phản ứng ra sao trong tương lai. Quan trọng là cái nhìn, cái suy nghĩ và phản ứng của ta. Hay nói cách khác, quan trọng là ở chỗ cái tâm của ta. Cái tâm của ta có thể không hoàn toàn đồng nghĩa với thế giới gọi là hiện thực ngoài kia, nhưng cái tâm này đã góp phần nào tạo nên cái thế giới đó. Chính cái tâm này ít nhất đã gán ép cho cái thế giới ngoài kia cái giá trị và ý nghĩa của nó.

Trong muôn vàn điều ngẫu nhiên và bất định của cuộc sống, chính cái tâm của ta lại là chủ thể của sự chọn lựa trong một giới hạn nào đó. Nếu như người làm thí nghiệm có sự lựa chọn để đo tính hạt hay tính sóng của vật chất, mặc dù cuối cùng hạt đó nằm ở đâu lại là một sự hoàn toàn ngẫu nhiên, thì ta cũng có thể chọn lựa để nhìn cuộc sống dưới nhãn quan nào, như một ly nước vơi một nửa hay như một ly nước đầy một nửa, cho dù cái kết cuộc sau cùng có bất định ra sao đi nữa.

Ca nhạc sĩ Bob Dylan cũng đã từng hỏi:
“Yes, how many years can some people exist

Before they’re allowed to be free?

Yes, how many times can a man turn his head

Pretending he just doesn’t see?”
Vâng, một dân tộc phải tồn tại bao lâu

Trước khi họ “được phép” tự do?

Vâng, một người phải ngoảnh mặt đi bao lần

Để giả vờ không trông thấy gì?

Và:
“Yes, how many times must a man look up

Before he can see the sky?

Yes, how many ears must one man have

Before he can hear people cry?”
Vâng, con người phải ngóc lên bao lần

Thì mới có thể thấy được bầu trời kia?

Vâng, một người phải có bao nhiêu tai

Thì mới nghe được tiếng kêu gào của con người?

“The answer my friend is blowin’ in the wind

The answer is blowin’ in the wind.”

Câu trả lời, bạn hỡi, đang thổi bùng trong gió

Câu trả lời đang bừng bừng trong gió


Cho dù tương lai của cá nhân mình ra sao, ta không thể không cố sức trong hiện tại. Cho dù thất bại hay thành công, ta không thể không góp gió cùng với dân tộc. Ta không thể giả điếc không nghe tiếng kêu gọi đánh thức lương tâm của tuổi trẻ, của người dân Việt Nam. Ta không thể giả đui không thấy nguy cơ mất nước, khi giặc ngoại xâm đã xiết chặt từ bên ngoài, nghênh ngang ngay ở bên trong.

Định mệnh của đất nước, của dân tộc Việt là ở sự chọn lựa ở mỗi cá nhân trong chúng ta.

TS. Kiều Tiến Dũng
Melbourne, Úc Châu

TS. Kiều Tiến Dũng

Chế độ phản dân tộc hay LM Lý phản phé?


Ông Nguyễn Thanh Sơn
Ông Nguyễn Thanh Sơn
Thứ Trưởng Ngoại Giao CSVN Nguyễn Thanh Sơn vừa đi Canada hôm 12/3/2014, rồi sau đó đi Houston, Bắc và Nam California. Khi ghé Nam Cali, ông đã trả lời phỏng vấnPhố Bolsa tivi mạng.
Qua cuộc phỏng vấn, có những điểm đáng để ý sau đây:
- Ông Sơn luôn nhắc là ông đi để thể hiện chính sách HOÀ HỢP HOÀ GIẢI. Chúng tôi biết là hoà hợp hoà giải (HHHG) hoàn toàn khác với hoà giải hoà hợp (HGHH). Khác ở chổ thứ tự trước sau, nếu CS phía ông Sơn và Việt Kiều (VK) là hai đối tượng thì HHHG đòi hỏi VK phải HỢP với CS trước, tức là chấp nhận chế độ CS, hợp tác với chế độ rồi mới GIẢI, tức là đối thoại – hợp tác trước, đối thoại sau. Trong khi HGHH đòi hỏi đối thoại ngang hàng trước, rồi mới xem là có nên hợp tác hay không nên hợp tác.Message của ông Sơn là hải ngoại phải theo phía ông, ủng hộ phía ông để có thể về nước thoải mái.
- Ông rất kiêu căng, luôn coi phía ông ở thế trên trước, thế ban phát khi luôn nói “vị thế vững vàng, uy tín rất tốt”, ông hàm ý có thể phía ông không cần đến chúng tôi, nhưng không muốn chúng tôi trách là tại sao phía ông không nhớ đến chúng tôi – ông rất sấc.
- Kiều hối cũng vậy, ông hàm ý là người Việt tỵ nạn chỉ là một trong rất nhiều nguồn kiều hối mà trong đó có xuất khẩu lao động và người thân cộng v.v.. và nó vận hành đều đặn để phục vụ chế độ ông, không bị ảnh hưởng bởi những người yêu dân chủ.
- Ông cho rằng chuyến đi của ông rất thành công, Nghị Quyết 36 mà ông đang thực hiện rất thành công, những người ông gặp gỡ đều chấp nhận quan điểm của ông, từ ông nghị sĩ Ngô Thanh Hải đến những người nổi tiếng trong cộng đồng ở Canada, họ đều nhất trí đồng thuận với ông.
- Ông cho rằng những nhà tranh đấu cho dân chủ ở trong nước đều là những tội phạm hình sự, Linh Mục Lý là người phản phé, và NS Hải nhất trí với ông về những đánh giá này đối với những nhà tranh đấu trong nước. NS Hải hoàn toàn không có đề cập gì với ông về vấn đề đa nguyên đa đảng. Ông gặp NS Hải 2 lần, một lần chung với phía chính quyền Canada và một lần riêng với tư cách gặp gỡ cộng đồng và được NS Hải đồng thuận.
- Ông tuyên truyền về việc tổ chức đi thăm Trường Sa có Việt Kiều tham dự để cho thấy rằng chính quyền không có bán biển đảo. Chúng tôi thấy rằng việc tổ chức du ngoạn thì dễ quá, việc dám lên tiếng, dám đẩy lùi sự gặm nhấm của TQ, hay kiện TQ ra tòa án quốc tế về đường lưỡi bò như Phi Luật Tân mới là điều đáng nói.
- Ông lấy thế đang nắm chính quyền, đang khống chế đất nước để nhắc chúng tôi rằng nếu còn nhớ nhà, còn tình tự quê hương, còn muốn về VN thì nên quy hàng để được về nước. Ông vừa khai thác lòng yêu nước vừa hàm ý là yêu nước thì phải yêu chế độ của ông.
Kết:
Những tinh hoa ở trong nước, cái khúc ruột KHÔNG ngàn dặm thì bị đánh đập, trù dập, ngồi trong lao tù, bị xem là tội phạm hình sự. Việt kiều chúng tôi là những người không hy sinh hay can đảm bằng họ và chỉ có khả năng đi theo họ, đứng phía sau họ, chúng tôi có nên tin lời ông Sơn không? Chúng tôi nhận thấy là ông Sơn chỉ muốn dùng chúng tôi để làm cho êm ả việc tiến lên cấp độ “quan hệ chiến lược” với Hoa Kỳ (hiện giờ chỉ là “quan hệ toàn diện”) và các quốc gia tây phương khác, như ông đại sứ David Shear đã từng nói là CS muốn có quan hệ cao hơn với HK thì không thể bất cần cộng đồng người Mỹ gốc Việt.
Khi nào chế độ của ông Sơn (1) còn duy trì chủ nghĩa Mác-Lê, nghĩa là chuyên chính và không có chuyện đối lập hay đa nguyên đa đảng, và (2) còn đánh đập, bắt bớ, trù dập, giam cầm những nhân vật không khác gì chúng tôi nhưng chỉ vì họ đang ở trong nước, coi họ là những tội phạm hình sự, thì chúng tôi không thể “nghe những gì ông nói” mà chỉ muốn “nhìn những gì ông làm”. Chuyện ông làm ở hải ngoại chỉ là bẫy rập để dụ dỗ chúng tôi nên “bó thân về dưới triều đình” của “hàng thần ngơ ngác”.
Chính trị là tương quan quyền lực, tương quan sức mạnh, và sức mạnh của chúng tôi là dân chúng ở trong nước, ông Sơn và chế độ của ông thừa biết điều này, nhưng ông cứ giả vờ và hứa hẹn. Một vài cá nhân hay một vài tổ chức có thể tin những lời hứa hão huyền của ông, muốn bắt tay với ông, hay nghĩ rằng mình đang thực hiện đường lối chính sách của đất nước thứ hai của mình. Chúng tôi muốn dân tộc Việt Nam được thoát ách độc tài, chúng tôi không phục vụ chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ hay muốn chia xẻ quyền lực trong chế độ mà ông đang tận lực duy trì và bảo vệ.
Ông và chế độ hãy thả Bùi Thị Minh Hằng, Lê Quốc Quân, Điếu Cày, Cù Huy Hà Vũ, Việt Khang, LM Lý và hàng trăm những tù nhân lương tâm khác, chính thức tuyên bố từ bỏ Mác-Lê, trước khi nói chuyện yêu nước, yêu dân tộc với chúng tôi.
© Lê Minh Nguyên
© Đàn Chim Việt

McDonald’s, Ukraine và Việt Nam


mc
Công ty thức ăn nhanh McDonald’s mở nhà hàng đầu tiên tại Việt Nam vào tháng 02-2014. McDonald’s vốn được xem như biểu tượng của nước Mỹ nên làm nảy sinh ra ba giai thoại thú vị liên quan đến trào lưu toàn cầu hoá, chính sách tiền tệ và đầu tư địa ốc (!) tuy hài hước nhưng lại trở thành đề tài tranh luận của không ít học giả quốc tế – nay xin được kể lại để đọc giả trong và ngoài nước nghe chơi.
Giai thoại thứ nhất do nhà bình luận nổi tiếng Thomas Friedman [1] của tờ New York Times đề xuất vào năm 1996 rằng không hề có chiến tranh giữa hai nước cùng có nhà hàng McDonald’s [2]. Giả thuyết tiếu lâm này dựa trên quan sát rằng công ty McDonald’s đầu tư thường vào giai đoạn nền kinh tế của một quốc gia tiến vào bước ngoặc toàn cầu hoá, mở cánh cửa thương mại với thế giới và xây dựng được tầng lớp trung lưu – nên nước này sẽ gánh chịu nhiều thiệt hại hơn là lợi ích khi sanh sự với các lân bang. Luận cứ Friedman đứng vững gần 10 năm cho đến 2008 khi Nga tấn công vào Georgia, rồi nay lại bị nước Nga phá hỏng lần nửa khi tiến chiếm vùng đất Crimea của Ukraine vào năm 2014 (cả ba quốc gia đều có nhà hàng McDonald’s). Thì ra toàn cầu hoá là mô hình do Hoa Kỳ dựng ra, các nước lớn như Nga nhờ vào đó phát triển đến mức độ hùng mạnh thì lại sanh thêm tham vọng bành trướng nên không ngần ngại vi phạm ra ngoài biên giới. Câu hỏi đặt ra là nay cả Trung Quốc lẩn Việt Nam đều có McDonald’s nhưng liệu Hoa Lục có sẽ tấn công biên giới và biển đảo khi nền kinh tế đã trưởng thành nên không còn sợ bị thế giới phong tỏa?
Giai thoại thứ nhì do tuần báo The Economist đưa ra vào năm 1986 khi dùng giá bán chiếc bánh Big Mac của nhà hàng McDonald’s trên nhiều quốc gia để định giá trị đồng tiền của nước này so với đô-la Mỹ [3]. Tiêu chuẩn đưa ra dựa trên giá thành của Big Mac gần như giống nhau trên khắp thế giới, nhưng giá bán chênh lệch là do nhà nước ép giá đồng bạc trong nước. Nghe có vẻ khôi hài nhưng kết quả số liệu lại không xa thực tế, và nếu dựa trên giá bán Big Mac thì tiền Việt Nam hiện bị hạ 38% (tức 1 USD đáng lẽ chỉ đổi 12975 VND thay vì 21090 VND như hiện nay) tức là dân chúng phải chịu thiệt hại cho nhà nước cứu vãn nền kinh tế, ngân hàng và các công ty quốc doanh.
Giai thoại cuối cùng – nhưng người viết chỉ nghe kể lại mà không có nguồn dẫn giải – khi nhà sáng lập McDonald’s thuyết trình tại đại học Harvard đã hỏi các sinh viên rằng đầu tư chính của công ty nhắm vào thị trường nào? Mọi người đều bở ngở trước câu hỏi lạ lùng này cho đến khi một sinh viên dè dặt trả lời rằng mục tiêu ắt hẳn bán thức ăn nhanh. Nhà sáng lập lắc đầu và cho biết thành công của công ty McDonald’s chính trong ngành ĐỊA ỐC! Thật vậy, nếu độc giả để ý quan sát thì các nhà hàng McDonald’s đều có mặt nơi những khu đất giá trị nhất trên khắp các thị tứ toàn cầu.
Nay nghe đồn công ty McDonald’s sẽ mở hàng trăm cửa tiệm tại Việt Nam thì việc chọn con rể của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng làm Tổng Giám Đốc Điều Hành chắc hẳn sẽ tạo nhiều thuận lợi khi mua bán đất đai. Kính chúc gia đình Thủ Tướng ngày thêm giàu sang phú quý.
Ghi chú:
[1] Ký giả Thomas Friedman được trao giải Pulitzer vào năm 1982, 1984 và 2002. Ông cũng là tác giả của hai quyển sách nổi tiếng là The World is Flat (Thế giới phẳng) và The Lexus and the Olive Tree (Xe Lexus và cây Ô-liu)
[2] http://www.nytimes.com/1996/12/08/opinion/foreign-affairs-big-mac-i.html
[3] http://www.economist.com/content/big-mac-index

[Tại sao] Sữa được chứa trong hộp giấy chữ nhật, trong khi nước ngọt lại chứa trong lon trụ tròn?


Nước giải khát là 1 loại thức uống không thể thiếu đối với chúng ta. Đặc biệt là trong những ngày nắng nóng như hiện nay thì việc bật nắp một lon nước ngọt có ga mát lạnh là điều có thể nói là không gì tuyệt vời hơn. Bên cạnh đó, sữa tươi cũng là một loại thức uống dinh dưỡng quá đỗi quen thuộc với mỗi người. Tuy nhiên, một đặc điểm nhỏ mà các bạn có thể đã bỏ qua.
Có bao giờ các bạn tự hỏi: Tại sao lon nước giải khát (lon nước ngọt có gas, lon bia,...) lại luôn là hình trụ tròn trong khi đó, đa phần những hộp sữa tươi bằng giấy các tông luôn lại được tạo hình là khối hộp. Nguyên nhân sâu xa của khác biệt trên thật sự không hề đơn giản. Sự khác nhau không chỉ do những yếu tố về kỹ thuật, một chút yếu tố lịch sử, một ít về logic tâm lý người tiêu dùng, mà đây còn là một bài toán kinh điển trong kinh tế học mà các nhà kinh tế học đã giải quyết trong quá khứ. Hôm nay, chuyên mục [Tại sao?] sẽ chia sẻ với các bạn một số nguyên nhân của khác biệt tưởng chừng nhỏ nhưng đầy thú vị này.

Dưới góc độ kỹ thuật - Dạng tròn chịu lực tốt hơn so với dạng phẳng

Đây là câu trả lời thường thấy nhất khi một ai đó lý giải sự khác biệt trên. Soda, bia hay bất cứ loại nước có gas nào đều chứa một áp lực lớn lên lớp vỏ lon. Chỉ cần bạn lắc lon nước ngọt lên, sau đó mở nắp ra, bạn sẽ thấy áp lực bên trong lớn đến mức độ nào. Chính vì vậy, người ta cần thiết kế một lon với hình thái có thể chịu được một áp lực lớn mà không bị biến dạng. Và hình dạng không gian được chọn ở đây chính là khối trụ tròn.

Áp lực tác dụng lên bề mặt bên trong lon nước giải khát​
Nguyên nhân chính là dạng lon tròn có khả năng chịu áp lực tốt hơn so với mặt phẳng. Hơn nữa, các công ty nước giải khát có thể sử dụng ít vật liệu hơn để sản xuất vỏ lon nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu chịu được áp lực lớn từ nước có gas bên trong. Trong một phép so sánh, nếu lon soda được thiết kế thành dạng khối hộp bằng nhôm, người ta phải tăng độ dày của tấm nhôm lên ít nhất 3 lần. Điều này làm tăng lượng nhôm cần thiết để chế tạo vỏ lon lên gấp 8 lần so với thiết kế dạng trụ tròn.
Dĩ nhiên, nguyên lý căn bản nhất trong kinh tế học chính là tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa chi phí, chính vì lẽ đó mà lon soda dạng trụ tròn được lựa chọn. Một ví dụ tương tự dễ hình dung hơn chính là những chiếc cầu bắt qua sông luôn là dạng bán nguyệt thay vì thiết kế thẳng tắp.
Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra ở đây là nếu lon dạng trụ tròn có nhiều ưu điểm như thế thì tại sao người ta không áp dụng nó để chứa sữa tươi? Nếu giả định rằng dùng cùng một loại vật liệu để chế tạo vỏ chứa thì chi phí để sản xuất ra 2 triệu lon dạng trụ tròn vẫn thấp hơn rất nhiều so với chi phí sản xuất ra 1 triệu lon hình hộp. Vậy tại sao người ta vẫn dùng nó để sản xuất vỏ hộp sữa tươi?
Câu hỏi này cần được tiếp cận dưới góc độ kinh tế học để có thể lý giải. Nhưng trước tiên, hãy nhìn lại một cách ngắn gọn về lịch sử của hộp sữa tươi.

Lịch sử đóng hộp sữa tươi - Từ chai thủy tinh cho đến hộp giấy các tông

Vào cuối thế kỷ 19 vẫn còn rất nhiều người nông dân chăn nuôi bò sữa tại Hoa Kỳ. Để cung cấp sữa cho những người trong thị trấn và thành phố vốn đang tăng rất nhanh do hệ quả của cuộc cách mạng công nghiệp, các trang trại nuôi bò sữa với quy mô nhỏ thường vắt sữa bò bằng tay và cho vào các chai thủy tinh để chuyển giao cho khách hàng.
Đến đầu thế kỷ 20, khi một số người nông dân bắt đầu chuyển sang vắt sữa bằng máy làm cho số lượng sản phẩm tăng lên kéo theo quy mô của trang trại cũng lớn hơn so với trước đó. Lúc này nảy sinh một vấn đề: Tủ lạnh vẫn chưa được phổ biến, người ta vẫn còn sử dụng cách làm lạnh bằng những ngăn đá có từ trước đó. Đó chỉ đơn giản là một chiếc hộp cách nhiệt và đặt nước đá bên trong. Đây là cách giữ lạnh tốn rất nhiều chi phí nhưng lại không hiệu quả do băng đá bên trong luôn có xu hướng tan chảy nhanh chóng. Một lý do khác cũng không kém phần quan trọng chính là chai thủy tinh dùng để chứa sữa không cách nhiệt tốt.
Vấn đề bảo quản sữa sau khi vắt trở thành một vấn đề nan giải và chưa có hướng giải quyết vào thời điểm đó. Các trang trại vẫn áp dụng các truyền thống là vắt, giao sữa mỗi ngày với các chai thủy tinh và đi thu các chai thủy tinh về sau khi sử dụng xong. Điều này có nghĩa là nhà nhà đều có sữa tươi để dùng, nhưng phải uống sữa họ mua đủ nhanh để trả chai và sữa không bị hư.

Những chai sữa đầu tiên được làm bằng thủy tinh​
Mặc dù không có sự phụ thuộc lẫn nhau ở đây, nhưng thực sự thì tủ lạnh và hộp sữa các tông dường như phát triển song song với nhau. Chiếc tủ lạnh đầu tiên được thử nghiệm vào những năm 1910. Trong khi đó, mặc dù vấn đề phát minh ra hộp sữa các tông vẫn còn gây nhiều tranh cãi cho đến hiện nay, nhưng đa phần mọi người đều nhìn nhận rằng hộp sữa các tông được phát minh vào năm 1915.
Hộp sữa các tông đầu tiên đợc John Van Wormer phát minh vào năm 1915 và về cơ bản có hình dáng giống như loại chúng ta sử dụng hiện nay. Nó đơn giản là một tấm bìa các tông được cắt, gấp và dán keo lại theo hình dạng một chiếc hộp hình chữ nhật. Hộp sữa đầu tiên được sử dụng mà không cần dùng nắp đậy. Thay vào đó, phần đầu được dán kính lại để bảo quản sữa bên trong. Cho đến hôm nay, người ta phủ lên giấy các tông một lớp polyetylen để sữa bên trong không thể thấm vào bên trong lớp vỏ hộp.
Khi chiếc tủ lạnh được phổ biến với mọi nhà trong vòng 2 đến 3 thập kỷ sau đó, chiếc hộp sữa các tông cũng dần được sử dụng nhiều hơn. Dù vậy, những chai sữa thủy tinh vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay. Tuy nhiên, chai thủy tinh vẫn chỉ có thể sử dụng trong một số vùng gần trang trại bò. Nếu sản xuất và vận chuyển sữa tươi trên quy mô công nghiệp, người ta vẫn sử dụng hộp giấy các tông thay vì chai thủy tinh do lợi ích kinh tế mà nó mang lại. Hơn nữa, chai thủy tinh nặng hơn hộp giấy tới 3 lần nếu chứa cùng một lượng sữa nên sẽ gây nên lãng phí nhiều chi phí vận chuyển hơn. Và dĩ nhiên, thủy tinh đắt tiền hơn nhiều lần so với hộp các tông.
Đến đây, lịch sử phát triển của hộp sữa đã trả lời cho chúng ta biết lý do hộp sữa tươi làm bằng bìa các tông khi sản xuất trên quy mô công nghiệp.

Tiếp cận vấn đề dưới giác độ kinh tế học vi mô - Mối quan hệ Chi phí - Lợi ích

Trở lại câu hỏi thứ 2: nếu lon dạng trụ tròn có nhiều ưu điểm như thế thì tại sao người ta không áp dụng nó để chứa sữa tươi? Rõ ràng sữa tươi không hề có gas bên trong và do đó, không hề có một áp lực nào được tạo lên mặt chai. Tuy nhiên, sữa tươi nhất thiết phải được giữ lạnh. Đây chính là chìa khóa của vấn đề.

Sữa tươi nhất thiết phải được bảo quản lạnh, trong khi đó nước giải khát thì không cần thiết​
Dù sao đi nữa, chi phí để làm lạnh không hề rẻ tiền. Từ chi phí đầu tư mua tủ lạnh, chi phí để duy trì để luôn hoạt động ổn định cho tới chi phí tiền điện rõ ràng là vô cùng đắt đỏ. Chính vì vậy mà mỗi không gian làm lạnh phải luôn được sử dụng một cách hiệu quả nhất. Không gian trong tủ lạnh chỉ được sử dụng cho những sản phẩm nào thật sự cần thiết nhất, trong đó có sữa tươi của chúng ta.
Do đó, không gian trong tủ lạnh cần được tận dụng tối đa để có thể bảo quản càng nhiều sữa càng tốt. Về mặt hình học không gian, các hộp vuông cho phép có thể bảo quản được lượng sữa lớn nhất. Các hộp sữa có thể được xếp sát nhau, không hề có một khoảng không gian nào để trống Trong khi đó, các hộp dạng tròn sẽ lãng phí không gian xung quanh nhiều hơn. Chính vì thế, các hộp sữa các tông được thiết kế theo hình dáng vuông vức đem lại hiệu quả kinh tế lớn nhất.

Mặt cắt ngang hình vuông sẽ tận dụng được tối đa không gian so với hình tròn.​
Có thể đối với góc nhìn của một người tiêu dùng, bạn cho rằng khoảng trống trên kệ bảo quản sữa trong siêu thị thật sự không nhiều. Tuy nhiên, hãy nhìn vấn đề với góc độ của một doanh nghiệp kinh doanh sữa tươi. Công ty sữa thậm chí còn biết rõ rằng việc cầm một "lon sữa" giống như lon nước ngọt sẽ cho người dùng cảm giác thú vị hơn. Người dùng có thể bật nắp ra và đưa "lon sữa" lên uống một cách dễ dàng. Tuy nhiên, việc tạo cảm giác thoải mái cho người dùng khi cầm trong tay quan trọng vì thường, người ta không uống sữa trực tiếp từ hộp.
Ngay cả khi người dùng uống sữa trực tiếp từ hộp giấy đi chăng nữa thì theo nguyên lý lợi ích - chi phí, nhà sản xuất cũng không nên dùng vỏ hộp hình trụ tròn để chứa sữa. Dù rằng bao bì hình hộp giúp tiết kiệm không gian trên kệ dù nó chứa thứ gì bên trong, nhưng việc tiết kiệm không gian có vai trò quan trọng với sản phẩm sữa hơn là sản phẩm nước giải khát. Bởi lẽ đa số nước giải khát trong siêu thị được đặt trên các kệ mở, vốn rất rẻ và không cần chi phí vận hành nào khác. Trong khi đó, sữa được chứa trong ngăn lạnh, những tủ này giá đắt và phải tốn phí vận hành. Vì vậy, không gian trên kệ trong các ngăn lạnh này rất quý và làm tăng lợi ích của việc đựng sữa trong hộp hình trụ chữ nhật. Đây chính là chi phí cơ hội (opportunity cost) trong việc lựa chọn hình dạng của hộp sữa.

Sơ đồ tương quan giữa sản lượng và chi phí trong khái niệm Lợi thế kinh tế nhờ quy mô​
Hơn nữa, việc tận dụng tối đa không gian làm lạnh để chứa sữa góp một phần quan trọng trong lợi nhuận khi bán sữa. Nhà bán lẻ càng chứa được nhiều sữa trên kệ làm lạnh, điều này cho phép nhiều sữa hơn được bán ra, từ đó doanh thu bán sữa và lợi nhuận biên trong việc kinh doanh sữa cũng tăng lên. Chính khoản tăng lợi nhuận biên và khoản giảm chi phí biên trong dài hạn đã góp phần tạo nên khoảng lợi thế kinh tế nhờ quy mô (economies of scale).
Rõ ràng dù lượng sữa kinh doanh nhiều hay ít, thì chi phí để duy trì hệ thống bảo quản lạnh luôn cố định. Nếu lượng sữa bán ra ít, thì khoảng chi phí bảo quản lạnh tính trên mỗi đơn vị sữa sẽ tăng lên. Vì vậy, khi sản lượng sữa bán ra càng lớn, chi phí bảo quản lạnh chia đều cho mỗi đơn vị sữa sẽ nhỏ đi, từ đó giúp giảm một lượng đáng kể chi phí bình quân tính trên mỗi hộp sữa. Đó chính là khái niệm "Lợi ích kinh tế nhờ quy mô".
Thêm vào đó, sữa là một sản phẩm thiết yếu với người tiêu dùng. Lượng sữa được tiêu thụ mỗi ngày nhiều hơn so với các loại nước giải khát khác. Có thể, người tiêu dùng sẵn sàng chi hơn rất nhiều tiền cho một chiếc xe hơi phiên bản giới hạn. Phiên bản giới hạn chỉ khác phiên bản thường ở 1 dòng chữ duy nhất trên thân xe: Limited Edition. Dù vậy, một số người dùng sẽ sẵn sàng trả thêm gấp đôi để sở hữu nó. Nhưng đối với một sản phẩm thiết yếu như sữa, việc sản xuất hộp tròn sẽ phát sinh thêm chi phí vật liệu và bảo quản, từ đó giá mỗi hộp sữa sẽ tăng lên. Điều này tác động không tốt đối với người dùng.

Kết

Cuối cùng, chúng ta đã có câu trả lời cho việc lựa chọn vật liệu và hình dáng để sản xuất vỏ hộp sữa. Và câu hỏi tại sao có sự khác nhau giữa hộp sữa tươi và lon nước giải khát đã có câu trả lời. Dạng trụ tròn cho phép chứa và bảo quản được lon nước ngọt có gas mà không làm biến dạng vỏ lon. Về vật liệu hộp sữa, việc chọn các tông sẽ kinh tế hơn rất nhiều so với chai thủy tinh để chứa sữa. Về hình dạng của hộp sữa tươi, dạng khối hộp chữ nhật sẽ tạo nên lợi ích kinh tế lớn hơn rất nhiều so với dạng lon tròn. Lợi ích này đã được giải thích cụ thể thông qua 2 khái niệm kinh tế là "Chi phí cơ hội" và "Lợi ích kinh tế nhờ quy mô" đã được phân tích bên trên. Ngày nay, không chỉ sữa mà các loại thức uống cần bảo quản lạnh như nước trái cây cũng được đóng hộp hình chữ nhật bằng bìa các tông với lý do tương tự.
Hy vọng qua bài viết các bạn có thể lý giải được một cách tổng quát hơn cho sự khác biệt giữa hộp sữa và lon nước giải khát. Qua đó, chúng ta có thể thấy, một sự khác biệt tưởng chừng nhỏ mà ít ai chú ý, nếu mang ra mổ xẻ bằng nhiều cách tiếp cận, nhiều góc nhìn khác nhau sẽ tạo nên nhiều lý do ẩn chứa đằng sau đó. Thật sự, một sự khác biệt tưởng chừng nhỏ nhưng để lý giải nó thì thật sự không hề đơn giản chút nào.
Tham khảo Wiki (1), (2), tác phẩm The Economic Naturalist của Giáo sư Robert H. Frank

ndminhduc
Chia sẻ bài viết này