Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

WikiLeaks: Tên của Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Lê Đức Thúy và Nông Đức Mạnh xuất hiện trong vụ hối lộ tiền polymer


Dân Luận: Trong danh sách mà tòa Úc đề cập đến cấm đưa tên có liên quan tới vụ hối lộ tiền polymer có những nhân vật sau đây từ Việt Nam:
- Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước Việt Nam (từ năm 2011);
- Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt Nam (từ năm 2006);
- Lê Đức Thúy, cựu Chủ tịch Hội Đồng Cố Vấn Tài chính Quốc Gia (từ 2007-2011) và cựu Thống đốc Ngân Hàng Trung Ương Việt Nam (1999 - 2007); và
- Nông Đức Mạnh, cựu Tổng bí thư Đảng CSVN (2001 - 2011).

Úc cấm báo cáo các trường hợp hối lộ đa quốc gia liên quan đến Malaysia, Indonesia và Việt Nam

Ngày 29 tháng Bảy năm 2014, WikiLeaks công bố một lệnh kiểm duyệt chưa từng có của Úc liên quan đến vụ hối lộ nhiều triệu đô-la, trong đó nói rõ tên tuổi của một số vị lãnh đạo - cả tiền nhiệm và đương nhiệm - của Indonesia, Malaysia và Việt Nam, cùng với người thân và các quan chức cao cấp khác. Lệnh siêu cấp này lấy cớ "an ninh quốc gia" để ngăn cản bất kỳ ai đưa tin về sự việc, nhằm "tránh thiệt hại cho các quan hệ quốc tế của Úc". Mệnh lệnh bịt miệng do tòa đưa ra này là kết quả của bản cáo trạng bí mật ngày 19/7/2014 liên quan đến 7 viên chức cao cấp của một chi nhánh của ngân hàng Trung Ương Úc, Ngân hàng Dự Trữ Úc (RBA). Vụ tham nhũng với cáo buộc dụ dỗ nhiều triệu đô la được thực hiện bởi các đại lý của công ty Securency và Note Printing Australia, những chi nhánh của RBA, để đảm bảo Úc dành được hợp đồng phát hành tiền polymer cho chính phủ Malaysia, Indonesia, Việt Nam và một số quốc gia khác.
Lệnh kiểm duyệt này liệt kê 17 cá nhân, trong đó bao gồm "tất cả Thủ tướng tiền nhiệm và đương nhiệm của Malaysia", "Trương Tấn Sang, hiện là Chủ tịch nước Việt Nam", "Súilo Bambang Yudhovono (còn gọi là SBY), Tổng thống đương nhiệm của Indonesia (từ năm 2004)", "Megawati Sukarnoputri (còn được gọi là Mega), cựu tổng thống Indonesia (2001-2004) và lãnh đạo hiện tại của đảng chính trị PDI-P" và 14 quan chức cấp cao và người thân khác từ các quốc gia, những người này đặc biệt không thể bị nêu tên trong quá trình điều tra tham nhũng.
Tài liệu này cũng đặc biệt cấm công bố chính bản thân nó, cùng với một bản tuyên thệ được đưa ra vào tháng trước của ông Gillian Bird, người đại diện cho Úc tại ASEAN, và gần đây mới được bổ nhiệm làm Đại diện Thường trực của Úc tại Liên Hiệp Quốc. Lệnh bịt miệng đã che dấu một cách hiệu quả toàn bộ vụ án hối lộ cấp cao ở Úc cũng như trong khu vực.
Một lệnh bịt miệng tương tự như thế này được biết đến lần cuối cùng vào năm 1995, và liên quan đến hoạt động gián điệp tình báo giữa Mỹ và Úc nhắm vào Đại sứ quán Trung Quốc tại Canberra.
Ông Julian Assange, người xuất bản WikiLeaks, cho biết về lệnh kiểm duyệt:
"Lệnh cấm này là lệnh tồi tệ nhất từ trước đến nay. Với nó, chính phủ Úc đã không chỉ bịt miệng báo chí Úc, mà còn bịt mắt cả công chúng Úc. Đây không chỉ là vấn đề chính phủ Úc thất bại trong việc đưa một vụ án tham nhũng quốc tế ra trước công luận như nó xứng đáng phải thế. Bộ trưởng Ngoại Giao Julie Bishop phải giải thích tại sao bà lại đe dọa mỗi người dân Úc bằng bản án tù để nhằm che dấu một vụ bê bối tham nhũng đáng xấu hổ có liên quan đến chính phủ Úc."
"Khái niệm về "an ninh quốc gia" không phải để làm tấm mền che đậy những cáo buộc tham nhũng nghiêm trọng liên quan đến các quan chức chính phủ, ở Úc hay ở đâu cũng thế. Đây là vì lợi ích chung của cộng đồng mà báo chí phải có quyền đưa tin về vụ việc này, trong đó có liên quan đến công ty con của ngân hàng Trung ương Úc. Ai là người môi giới giao dịch này, và chúng ta đã môi giới họ ở cấp quốc gia? Điều tra tham nhũng và lệnh kiểm duyệt thông tin với lý do "an ninh quốc gia" là hai thứ không thể đi đôi với nhau. Thật là mỉa mai khi Tony Abbott đã đem những điều tồi tệ nhất của "giá trị Châu Á" tới Úc".

Liên hiệp Các Hội KH&KT Việt Nam tạo quỹ đen hàng chục tỷ đồng bằng cách “trấn lột” các nhà khoa học

Lời phi lộ: Sau loạt bài tố cáo tội trạng tham nhũng, cố ý làm trái pháp luật của lãnh đạo Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN), Trực Ngôn tôi không muốn tiếp tục viết về cơ quan này nữa, mặc dù vẫn được cung cấp khá nhiều tư liệu. Bởi tôi không muốn lạm dụng diễn đàn của độc giả, nhất là trong hoàn cảnh đất nước hiện nay có quá nhiều vấn đề nóng như chuyện Biển Đông, chuyện chính quyền cướp đất của dân, chuyện người dân tù oan hàng chục năm, gửi hàng yến đơn đi các nơi mà không ai thèm xét… Tuy nhiên nhiều bạn cán bộ ở cơ quan này vẫn tha thiết yêu cầu Dân Luận và Trực Ngôn lên tiếng giúp, biết rằng chính quyền cộng sản không ai điều tra theo thông tin của báo mà họ coi là “lề trái” này, nhưng chí ít cũng để dư luận thấu hiểu thêm bộ mặt của những kẻ trí thức dỏm đang lãnh đạo cơ quan này. Sau đây là nguyên văn thông tin mà các bạn cán bộ ở LHHVN gửi cho Dân Luận và Trực Ngôn, xin chuyển đến quý bạn đọc. Trực Ngôn tôi không thêm bớt một câu nào, để chứng tỏ là tôi khách quan, vì bốn “anh tài” lãnh đạo LHHVN đang tuyên truyền ra bên ngoài là Trực Ngôn thù oán với cơ quan này nên cố tình bôi nhọ họ.
img_1.jpg
Mỗi năm Nhà nước cấp cho LHHVN 44 tỷ đồng để hỗ trợ các nhà khoa học tham gia phát triển nền KH&CN nước nhà. Khoản tiền khổng lồ này nếu chia đều cho 382 tổ chức KH&CN trực thuộc LHHVN thì mỗi đơn vị cũng sẽ nhận được 100 triệu đồng mỗi năm để hoạt động. Thế nhưng, “bè lũ bốn tên “lãnh đạo LHHVN lại coi khoản ngân sách này là của riêng, chúng vẽ ra hàng trăm hoạt động vô bổ để “rửa tiền” như Dân Luận đã nêu ở các bài trước.
Không chỉ cướp việc của các nhà khoa học, núp dưới chiêu bài quỹ phúc lợi để cải thiện đời sống cho cán bộ nhân viên, LHHVN đã ngang nhiên “trấn lột” các nhà khoa học và đơn vị trực thuộc bằng cách lập quỹ đen từ nguồn thu trái luật như sau:

1. Ban hành trái phép Công văn số 818/CV-LHHVN để “trấn lột” các nhà khoa học.

Công văn này yêu cầu các đơn vị (chủ nhiệm đề tài dự án) nhận ngân sách từ LHHVN phải trích lại 5% số kinh phí nhận được bằng tiền mặt. Thủ quỹ thu và phát cho một phiếu thu ghi là “Nộp phí quản lý theo CV 818”. Nếu đơn vị nào hay chủ nhiệm đề tài/dự án nào không nộp khoản tiền này sẽ không được quyết toán và bị ghi “sổ đen” để không bao giờ được giao nhiệm vụ nghiên cứu nữa. LHHVN lập ra cả một bộ phận để chuyên đốc thúc thu khoản tiền này. Ông Chánh văn phòng phải báo cáo tình hình thu 5% này mỗi khi họp giao ban và coi đây là chỉ tiêu thi đua của Văn phòng và thành tích cá nhân khi tổng kết, đánh giá cán bộ. Đã có nhiều tình huống bi hài trong việc đốc thúc thu tiền từ các nhà khoa học mà chỉ có thể dùng từ “trấn lột” là đúng nhất.
Với khoản ngân sách được cấp 44 tỷ /năm giao cho các đơn vị thực hiện thì số tiền thu được theo tỷ lệ trên mỗi năm là bao nhiêu chắc quý vị tự ước lượng được. Họ đã ăn không của các nhà khoa học hàng tỷ đồng mỗi năm
Ai cho phép LHHVN thu khoản tiền 5% này? Rõ ràng để có 5% nộp cho LHHVN, các chủ nhiệm đề tài phải tự bớt thù lao nghiên cứu của mình hoặc phải làm giả chứng từ để rút tiền đề tài/dự án ra nộp theo kiểu “mỡ nó rán nó”. Khoản thu này chính là phần ngân sách KH&CN bị rút ruột thông qua các đề tài/dự án được cấp kinh phí từ LHHVN. Với cách “trấn lột” tiền mặt trao tay này, các đơn vị khoa học công nghệ và chủ nhiệm đề tài không thể kiện LHHVN được vì không được hạch toán vào chi phí đề tài/dự án và không có chứng từ quyết toán. Mỗi năm hàng tỷ đồng ngân sách KH&CN đã được rút ruột bất hợp pháp dưới cái gọi là “Hỗ trợ của đơn vị" mà nó được tính bằng 5% kinh phí đề tài/dự án. Theo sổ sách và báo cáo tài chính của LHHVN thì khoản thu nội bộ của cơ quan LHHVN là gần 10 tỷ đồng/năm bao gồm khoản “trấn lột 5%” này. Theo Luật Ngân sách Nhà nước, khoản thu nội bộ là một phần của Ngân sách Nhà nước, đơn vị có nguồn thu phải nộp ngân sách Nhà nước và xin phép các cơ quan quản lý nhà nước trước khi chi (nếu Nhà nước cho chi). Tuy nhiên, trên các báo cáo thu chi ngân sách hàng năm cho Bộ Tài chính, LHHVN lại không khai con số thu tại chỗ 5% này mà chỉ khai phần thu lệ phí. Chẳng hạn khi làm kế hoạch xin tiền Nhà nước thì LHHVN cố tình khai phần thu tại chỗ rất ít bằng cách chỉ khai phần thu lệ phí là trên dưới 1 tỷ đồng/năm để được cấp ngân sách nhiều lên. Nhưng khi quyết toán chi thì lại khai chi hết 10 tỷ đồng từ nguồn thu tại chỗ. Như vậy bằng thủ đoạn kế toán, đánh tráo và che dấu khoản mục mỗi năm “bè lũ bốn tên” đã ăn không gần 9 tỷ đồng mà theo luật phải nộp ngân sách. Hàng chục tỷ đồng ăn không của các nhà khoa học đã được Phạm Văn Tân – Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký LHHVN, Chủ tài khoản cơ quan biến báo như vậy. Chúng tôi đề nghị thanh tra và Kiểm toán Nhà nước kiểm tra khoản thu 5% này ở LHHVN có hợp pháp hay không? Ai cho phép? Thu bao nhiêu và chi vào việc gì trong hàng chục năm nay?

2. Thu lệ phí 7,2 triệu/năm/đơn vị một cách vô căn cứ, vô lương tâm

Không chỉ “trấn lột” các nhà khoa học khi thực hiện đề tài/dự án, LHHVN còn thu lệ phí từ các tổ chức KH&CN trực thuộc (các Trung tâm, Viện nghiên cứu do họ cho phép thành lập) với mức 7,2 triệu đồng/ năm /đơn vị, bất kể đơn vị có được hỗ trợ kinh phí hay không (Quyết định số 818/QĐ-LHHVN ngày 22/12/2011). Theo quy định này thì với 382 đơn vị trực thuộc, mỗi năm LHHVN đã thu được gần 3 tỷ đồng rồi.
Mức thu 7,2 triệu/năm /đơn vị được tính toán trên cơ sở nào và cơ quan nào cho phép LHHVN thu khoản này? Thu để làm gì khi tiền lương của cán bộ và chi phí bộ máy đã được hạch toán vào nguồn chi hành chính sự nghiệp mà Bộ Tài chính cấp cho, có năm lên đến 9 tỷ đồng ?
Các đơn vị KH&CN là do các nhà khoa học có tâm huyết tự đứng ra thành lập, tự chủ, tự hạch toán. Theo luật, họ chỉ nhờ LHHVN ra quyết định thành lập còn mọi việc họ tự lo liệu thì cớ sao LHHVN lại thu của họ những 7,2 triệu/năm bất kể lớn, bé, làm ăn được hay trên bờ phá sản. Những tưởng thu tiền của đơn vị thì phải có trách nhiệm hỗ trợ họ, nhưng không, Lãnh đạo LHHVN rất vô trách nhiệm khi “mang con bỏ chợ” không đoái hoài gì đến các đơn vị này. Nhiều đơn vị hàng chục năm trời không nhận được đồng tiền hỗ trợ nào từ LHHVN. Nhân viên cơ quan gọi đây là một dạng “bán chữ ký và con dấu” của Lãnh đạo LHHVN. Việc cho thành lập các đơn vị KHCN ngon ăn như vậy nên Phạm Văn Tân và Đặng Vũ Minh cứ “đẻ” sòn sòn hàng chục đơn vị mỗi năm. Chỉ riêng việc ngồi hội đồng xét duyệt thành lập đơn vị 81 thôi thì “bè lũ bốn tên” cũng đã kiếm được kha khá rồi. Không tuần chay nào không có nước mắt, họ không bỏ sót buổi họp nào để kiếm phong bì. Các cán bộ của LHHVN đã chứng kiến có hôm bốn ông Thường trực này ngồi xét duyệt thành lập đơn vị KHCN từ 8h sáng đến 8h tối mà hôm đó mỗi ông thu cả chục triệu đồng phong bì. Theo giám đốc một đơn vị KHCN cho biết, chi phí bỏ ra để thành lập tổ chức KH&CN trực thuộc LHHVN không dưới 20 triệu đồng, vị chi mỗi ông thường trực cũng kiếm được 5 triệu đồng/đơn vị. Với hơn 200 đơn vị được thành lập mới trong nhiệm kỳ 5 năm thì mỗi ông thường trực trong “bè lũ bốn tên” LHHVN thu được tiền tỷ là chuyện bình thường. Nhân viên LHHVN ước tính thu nhập của ông Phạm Văn Tân và Đặng Vũ Minh không dưới 50 triệu đồng/ tháng. Thế bảo sao họ không giàu, ông Đặng Vũ Minh vừa xây xong 2 biệt thự cho 2 cô con gái, ông Phạm Văn Tân thì đang lùng mua đất biệt thự ở Mỹ Đình. Họ sống phè phỡn xa hoa trong khi hàng trăm đơn vị KHCN đang sống dở chết dở, hàng chục đơn vi bị giải thể do không có nguồn thu lại phải đóng lệ phí cho LHHVN và các khoản thuế khác.
Họ đang tâm cướp cơm chim của các nhà khoa học như thế mà giới trí thức phải chịu họ à? Không rõ các ông/bà ở Đoàn Chủ tịch có được họ chia phần cho không mà không thấy ai lên tiếng?

3. Vi phạm chế độ hạch toán, kế toán tài chính

Không chỉ thu bất hợp pháp hàng chục tỷ đồng mỗi năm như thế, lãnh đạo LHHVN còn vi phạm chế độ hạch toán, kế toán tài chính. Đó là hàng chục năm LHHVN không nộp Ngân sách khoản thu nội bộ mà lại đáo chuyển, che dấu khoản mục (khoản thu 5%) trong các báo cáo tài chính và kế toán để rửa trôi hàng chục tỷ đồng “quỹ đen" này. Chẳng hạn khi xây dựng dự toán thu chi ngân sách để xin tiền Nhà nước, LHHVN khai phần thu tại chỗ chỉ có trên dưới 1 tỷ đồng/ năm nhưng trong báo cáo quyết toán hàng năm thì lại quyết toán phần thu tại chỗ gần 10 tỷ đồng/ năm. Như vậy chênh lệch 9 tỷ đồng giữa thu và chi đi đâu? Đây chính là một thủ đoạn che dấu, rửa các khoản thu bất chính ở LHHVN mà kế toán trưởng đã được Phạm Văn Tân chỉ đạo biến báo để qua mặt các cơ quan cấp phát Ngân sách.
Hơn nữa, các khoản thu chi nội bộ này không công khai cho cán bộ nhân viên biết. Thu chi bao nhiêu chỉ có Phạm Văn Tân và bộ phận kế toán biết với nhau. Nếu có ai hỏi thì Phạm Văn Tân và bộ sậu lấp liếm rằng kế toán chưa tổng hợp xong. Việc chi tiêu khoản thu nội bộ rất tùy tiện chẳng có chứng từ gì. Theo bộ phận kế toán cho biết, có lúc ông Phạm Văn Tân lấy hàng trăm triệu nói là đi “ngoại giao” mà chẳng ai dám hỏi chứng từ. Để bịt mồm các cô kế toán, Phạm Văn Tân một mặt cho phép các cô này tha hồ hoạnh họe các nhà khoa học đến quyết toán đề tài/dự án, đồng thời đẻ ra cái gọi là Tổ thẩm định tài chính đề tài/dự án và giao cho Kế toán trưởng làm Tổ trưởng. Bằng việc nắm Ban Kế hoạch tài chính và Bộ phận kế toán, Phạm Văn Tân đã thâu tóm toàn bộ kinh phí hoạt động của LHHVN. Đơn vị nào muốn xin tiền thì qua Ban Kế hoạch tài chính, còn đơn vị nào muốn tiêu được tiền thì phải lụy kế toán, Phạm Văn Tân đứng giữa điều khiển hai Ban này và nhận phần hậu hĩnh của mình.
Một liên minh ma quỷ giữa Phạm Văn Tân, Ban Kế hoạch tài chính và Kế toán trưởng được hình thành để thao túng và trục lợi. Chả thế mà bộ ba Phạm Văn Tân, Lê Duy Tiến - Trường ban Kế hoạch tài chính và Trần Thị Kim Quy - Kế toán trưởng suốt ngày thì thụt họp kín với nhau để bàn cách kiếm chác.
Gần 10 tỳ đồng thu nội bộ mỗi năm, nếu lấy một nửa chỗ này thôi chia đều cho 63 cán bộ thì mỗi người mỗi tháng được thêm khoảng 5 triệu đồng ngoài lương để nuôi gia đình. Thế nhưng hàng chục năm nay tiền ăn trưa cho cán bộ vẫn chỉ có 800.000 đồng /người/tháng, thưởng tết không quá 3 triệu đồng/năm thì tính sơ sơ quỹ phúc lợi đến tay người lao động chỉ chiếm khoảng 1/3 con số thu nội bộ nói trên. Vậy thì 5-6 tỷ đồng/năm của khoản thu tạo quỹ này chui vào túi ai, hẳn độc giả cũng đã đoán ra.
Chúng tôi mong muốn Thanh tra và Kiểm toán Nhà nước làm rõ các khoản thu chi bất chính này của LHHVN để trả lại cho các nhà khoa học đã bị LHHVN trấn lột khi tham gia các hoạt động của cái cơ quan xôi thịt này.

Thực hành Yoga tại nhà

Hướng dẫn thực hiện bài Chào Mặt Trời

Là một bài tập Yoga rất phổ biến và được tập luyện nhiều rất nhiều. Surya Namaskar (Chào mặt Trời) mang lại rất nhiều lợi ích về thể chất cũng như tinh thần.
Từ ngàn xưa tới nay ánh sáng được coi như biểu tượng của ý thức trong nhiều nền văn hóa. Trong cuốn Nguồn Gốc Và Lịch Sự Của Ý Thức của tác giả Erich Neumann đã viết rằng "Thế giới bắt đầu với sự xuất hiện của ánh sáng". "Đối lập với ánh sáng chính là bóng tối đã phản ánh một thế giới tâm thân của vạn vật đúc thành".
Cuội nguồn của ánh sáng mạnh mẽ nhất của thái dương hệ chính là mặt trời. Khi chúng ta nhìn về phía mặt trời điều chúng ta thấy chỉ là một quả bóng lớn màu vàng. Nhưng từ nhiều ngàn năm nay, người Hindu đã tôn kính mặt trời. Họ gọi nó là Surya là nguồn năng lượng trung tâm tạo lên sự sống. Mọi vật đều bắt nguồn và phát triển từ đây, như Alain Danizlou tác giả cuốn Thần Thoại Và Các Vị Thần của Ấn Độ nói rằng"nó chứa đựng những tiềm năng vô hạn của tất cả những gì được biết đến". Đối với người Hindu, ánh sáng mặt trời được coi là con mắt của thế giới (loka chakshus), nhìn thấy và thấu hiểu những mảnh sáng và tối trong cá thể, nó là tri thức hướng tới sự hoàn hảo.
Bài Chào Mặt Trời (Surya Namaskar) thông qua những động tác liên hoàn như một luồng sáng thể hiện sự tôn thờ mặt trời. Trong tiếng Phạm namaskar bắt nguồn từ NAMAs có nghĩa là "cúi đầu" hoặc "tôn thờ".
Dưới đây là bài thực hành Chào Mặt Trời B được thực hiện bởi Mr TKIM.
Hướng dẫn chi tiết:




Chuẩn bị: Đứng thẳng với gót chân chạm vào nhau. Hai bàn chân tạo với nhau một góc 90 độ. Hai tay buông lỏng. Lưng giữ thẳng.
Hít vào: Thế Núi. Hai tay dang ngang vươn thẳng lên trần. Khi tay đưa lên ngang với vai thì ngửa lòng bàn tay lên trên. Khi tay vươn thẳng lên thì móc hai ngón tay cái lại.
Thở ra: Thế mạnh mẽ. Trùng hai gối xuống với đầu gối chạm vào nhau. Hai tay duỗi căng về phía sau.
Hít vào: Từ từ đứng dậy trở về tư thế Núi
Thở ra: Tư thế đứng căng duỗi gập trước. Cúi xuống, hai tay nắm lấy cổ chân từ từ kéo gần người vào chân
Hít vào: Buông lỏng người, thả lỏng tay cách thảm tầm 10cm.
Thở ra: Tư thế tay chân. Chạm hai tay xuống thảm. Khoảng cách hai tay rộng bằng độ rộng hai vai.
Hít vào: Tư thế tấm ván. Nhảy hoặc bước lùi lại.
Thở ra: Tư thế con rắn. Từ từ nằm xuống gần chạm người xuống thảm thì đẩy thẳng hai tay lên.
Hít vào: Gập đầu lại. Thở ra: chuyển về tư thế chó duỗi mình.
Hít vào: Bước chân trái lên gần dưới tay trái, từ từ đứng dậy. Thở ra: chuyển về tư thế chiến binh I.
Hít vào: Đặt hai tay xuống thảm về vị trí vừa nhấc lên. Bước lùi chân trái lại về tư thế tấm ván
Thở ra: Tư thế con rắn. Từ từ nằm xuống gần chạm người xuống thảm thì đẩy thẳng hai tay lên.
Hít vào: Gập đầu lại. Thở ra: chuyển về tư thế chó duỗi mình.
Hít vào: Bước chân phải lên gần dưới tay phải, từ từ đứng dậy. Thở ra: chuyển về tư thế chiến binh I.
Hít vào: Đặt hai tay xuống thảm về vị trí vừa nhấc lên. Bước lùi chân phải lại về tư thế tấm ván
Thở ra: Tư thế con rắn. Từ từ nằm xuống gần chạm người xuống thảm thì đẩy thẳng hai tay lên.
Hít vào: Gập đầu lại. Thở ra: chuyển về tư thế chó duỗi mình.
Hít vào: Trùng gối xuống nhảy lên gần dưới hai tay. Thở ra: Hai tay nắm lấy cổ chân từ từ kéo gần người vào chân trong tư thế đứng căng duỗi gập trước
Hít vào: Buông lỏng người, thả lỏng tay cách thảm tầm 10cm.
Thở ra: Tư thế tay chân. Chạm hai tay xuống thảm. Khoảng cách hai tay rộng bằng độ rộng hai vai.
Hít vào: Đứng thẳng lên, hai tay vươn thẳng lên trần rồi móc hai ngón tay cái lại. Thở ra: Trùng hai gối xuống với đầu gối chạm vào nhau. Hai tay duỗi căng về phía sau trong tư thế thế mạnh mẽ
Hít vào: Đứng thẳng lên trong tư thế Núi. Thở ra: hạ tay xuống



Surya Namaskar: Thánh Salutation trong Yoga

“Nhịp điệu của cơ thể, giai điệu của tâm & sự hài hòa của tâm hồn tạo ra các bản giao hưởng của cuộc sống,” đọc BKS Iyengar của gửi báo giá Yoga, người sáng lập của Iyengar Yoga và được công nhận là một trong những giáo viên yoga hàng đầu trên thế giới.
Yoga, một khoa học tâm linh Ấn Độ cổ đại hơn 5000 năm, đã được biết đến để nuôi dưỡng và chữa lành tâm, cơ thể và tinh thần. Nghĩa đen của tiếng Phạn yoga là 'thêm', 'Tham gia', 'Đoàn kết', hoặc "đính kèm,Và công đoàn đó là ý thức của một người với các lực lượng cao hơn hoặc tâm thức vũ trụ.
Tôi chọn học yoga để giúp đối phó với sự hỗn loạn của cuộc sống thành phố, một cái gì đó để làm dịu tôi xuống và tạm dừng tâm lộn xộn – tâm đã được hoạt động ở tốc độ của cuộc sống thành phố có nhịp độ nhanh. Đối với tôi Yoga là câu trả lời mà kích hoạt một quá trình chậm lành của tự bên trong, ngoài khiến tinh thần minh mẫn.
Yoga is a profound science of unfolding the infinite potentials of the human mind and soul
Yoga là hơn 5000 khoa học sâu sắc tuổi của mở ra tiềm năng vô hạn của tâm trí và linh hồn con người
Có một số chi nhánh của Yoga - Như Hatha Yoga, Karma Yoga, Raja Yoga, Mantra Yoga, Jnana Yoga and Bhakti Yoga. Hầu hết trong số đó là nhiều hay ít dựa trên tư thế cụ thể (Asanas), kỹ thuật thở (Pranayama), kỹ thuật thư giãn (Pratyahara và Dharana) và thiền định (thiền).
Surya Namaskar: Lời chào Mặt Trời
Một trong những trình tự quan trọng nhất của các thế sẽ là Surya Namaskar, có nghĩa là lời chào Mặt Trời, một cách thể hiện lòng biết ơn với mặt trời để duy trì sự sống trên hành tinh này. Surya Namaskar bao gồm một tập hợp các 12 cố định, tư thế theo chu kỳ đồng bộ với những hơi thở, mà giải độc và kích thích hầu hết các cơ quan của cơ thể con người. Vì vậy, ngay cả khi bạn thực hành những chỉ 12 Asanas, đủ để được hưởng lợi từ Yoga, và nếu được thực hiện vào buổi sáng sớm là tốt hơn như các tia sáng có tính năng phòng bệnh.
Surya Namaskar or sun salutation poses asanas and breathing chart
Surya Namaskar bao gồm một tập hợp các 12 cố định, tư thế theo chu kỳ đồng bộ với hơi thở, mà giải độc và kích thích hầu hết các cơ quan của cơ thể con người
Ánh nắng mặt trời là nguồn gốc thần linh của năng lượng và đã được tôn thờ trên toàn thế giới – Người Hy Lạp gọi là Sun thần Helius, người La Mã gọi ông là Titan và Hyperoin, người Ai Cập gọi ông Ra. Trong văn hóa Mexico, tôi là một Kikich, Đức gọi Mặt Trời Sol, trong văn hóa Trung Quốc, Mặt trời đại diện cho YANG (Pingala) và mặt trăng đại diện cho YIN (Đi).
Mỗi phòng trong số 12 Surya Namaskar đặt ra có 12 thần chú tương ứng hô vang (bằng lời nói hoặc trong tâm trí của bạn) trước mỗi tư thế. Thần chú tụng kinh phải được thực hiện với mục đích, có tác dụng mạnh mẽ và thâm nhập vào tâm trí và cơ thể.
Surya namaskar and corresponding mantras and chakras to focus on
Surya Namaskar được thực hiện tốt nhất với thần chú tụng kinh và tập trung vào một luân xa với nhau gây ra
Ý nghĩa của những câu thần chú là mỗi tiếng như "Aum ', 'Hreem' đánh thức năng lượng bị chặn, và kích hoạt luân xa trong cơ thể con người. Thực hành này cũng có thể được thực hiện với sự tập trung đặc biệt vào mỗi Chakra. Hãy xem video để xem thần chú cho mỗi đặt ra.
Các Surya Namaskar được thực hiện tốt nhất vào buổi sáng sớm lúc bụng đói.
Surya Namaskar 12 steps and corresponding chakra to focus on
Các 12 asanas trong Surya Namaskar và luân xa tương ứng với tập trung vào cho mỗi bước
Pha trộn Surya Namaskar với Thánh Dầu cây
Tại các buổi bình minh khi những con chim bắt đầu hát, Tôi bắt đầu nóng lên đầu tiên với tư thế kéo dài, và sau đó chuyển sang Surya Namaskar.
Tôi cũng áp dụng một chút của Thánh Dầu cây trên khu vực mắt thứ ba – một sự pha trộn của nó được làm từ cây khác nhau như dầu hoa cam, Cây mắc cở, Biệt thự, Cam bergamot, Cây đàn hương, Gổ từ đàn, Gỗ tuyết tùng, Copal, Cây thông và Pine. Dầu cây ngay lập tức sẽ mở ra và kích hoạt lõi rung, thanh toán bù trừ tất cả các tắc nghẽn trong Nadis. Điều này kết hợp với Surya Namaskar và các tia sáng biến thành một kinh nghiệm rất trẻ hóa. Tôi có thể cảm nhận được năng lượng bức xạ của mặt trời ngay lập tức tiếp thêm sinh lực và tôi phải mất trong trạng thái hạnh phúc và sự bình tĩnh - kinh nghiệm này làm cho tôi nhận thức được những thiếu sót của tôi và giúp mang lại sự rõ ràng trong tâm trí của tôi.
Lợi ích của Surya Namaskar:
  • Nó mang lại lợi ích khớp, dây chằng và hệ thống xương bằng cách cải thiện tư thế, linh hoạt và cân bằng
  • Tăng tuần hoàn máu
  • Lợi ích của hệ thống nội tiết và cho phép các tuyến endocrinal khác nhau để hoạt động đúng. Chúng bao gồm các tuyến giáp, tuyến cận giáp và tuyến yên tuyến cũng như tuyến thượng thận, tinh hoàn và buồng trứng
  • Giúp những người bị mất ngủ
  • Nó là tốt cho tim và kích thích hệ thống tim mạch
  • Tấn lên hệ tiêu hóa do thay thế kéo dài và nén của các cơ quan bụng. Nó kích hoạt tiêu hóa và được thoát khỏi táo bón và khó tiêu
  • Nó kích thích hệ bạch huyết và hỗ trợ sức khỏe hệ hô hấp, cũng
  • Ảnh hưởng đến tuyến tùng và vùng dưới đồi để ngăn chặn sự thoái hóa tùng và vôi hóa
  • Một trong những kỹ thuật tốt nhất để giữ đường của bạn dưới sự kiểm soát trong bệnh tiểu đường
  • Nó mang lại cho sức sống và sức mạnh. Nó cũng làm giảm cảm giác bồn chồn và lo lắng
  • Surya Namaskar thuốc giảm căng thẳng, cải thiện sự tập trung và cung cấp cho hòa bình bên trong
Kết quả là không bao giờ ngay lập tức; nó luôn luôn đi kèm với thực hành trong một thời gian dài. Nhiều của nó không chỉ là một bài tập, mặc dù người dân đã được đến với các phiên bản riêng của họ về Yoga, đóng gói nó như là phương tiện để giữ dáng. Nhưng thực tế là Yoga làm cho một ý thức tâm linh của sự liên kết giữa cơ thể của bạn, tâm trí và tinh thần, và trong quá trình đánh thức năng lượng Kundalini không hoạt động! Yoga là cách của cuộc sống ...
Tôi muốn kết thúc bằng một câu đẹp bởi Paramahansa Yogananda, “Yoga là một quá trình đơn giản đảo ngược dòng chảy ra bên ngoài bình thường của năng lượng và ý thức để tâm trở thành một trung tâm năng động của nhận thức trực tiếp không còn phụ thuộc vào các giác quan có thể sai lầm nhưng có khả năng thực sự trải qua thật.”

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

Đảng CSVN đang tự đào mồ chôn mình

HỘI THẢO "TRUYỀN THÔNG PHI CHÍNH PHỦ TẠI VN THỜI ĐIỂM MỚI"

Đảng CSVN luôn tự vỗ ngực khoe khoang với người dân và với quốc tế rằng Việt Nam dân chủ gấp ngàn lần tư bản, rằng VN rất tôn trọng nhân quyền, rằng người dân VN được tự do về mọi mặt, thậm chí trên đầu mỗi công văn đều ghi chễm chệ dòng chữ "Nước CHXHCN Việt Nam: độc lập, tự do, hạnh phúc".






Thế nhưng khi các Đại Sứ Quán Úc, Đức, Thụy Sĩ, Na Uy, Tân Tây Lan và Mỹ phối hợp tổ chức 1 buổi hội thảo với nội dung "Thông tin phi chính phủ tại Việt Nam vào thời điểm mới" và mời nhiều cá nhân cùng các đoàn thể đến tham dự, thì nhà cầm quyền CSVN lại thẳng tay ngăn chặn, đàn áp, bắt bớ những người đi dự.

Blogger Mẹ Nấm bị chặn tại phi trường Khánh Hòa trên đường ra Hà Nội và bị tạm giữ tại đồn công an hơn 9 tiếng. Chị Thúy Nga và chị Huỳnh Phương Ngọc bị bao vây tại nhà nghỉ không thể bước ra. Chị Thúy Nga cho biết ngoài công an mặc quân phục còn có cả côn đồ nằm, ngồi nhan nhản bên ngoài chờ bắt 2 chị. Ba người họ đã không thể đến dự buổi hội thảo mặc dù chính thức nhận được giấy mời từ tòa đại sứ. Chị Phạm Thanh Nghiên may mắn đến tham dự được nhưng khi ra về, vừa bước chân ra khỏi cổng đã bị công an chặn đòi bắt đem về đồn. Nhân viên của tòa đại sứ Úc, ông David Skowronski đã phải can thiệp và thân chinh đưa chị về nhà thờ Thái Hà để tạm trú. Riêng luật sư Nguyễn Văn Đài biết trước anh sẽ bị ngăn chận bằng mọi giá nên đã phải gặp riêng Trợ lý Ngoại trưởng Úc, ông Keith Scott, bà Phó Đại sứ Úc Nadia Krivetz và ông tùy viên chính trị và nhân quyền David Skowrownski tại tư gia.

Khi có những hành động vô pháp vô thiên trắng trợn như vậy thì đảng CSVN đã biết rõ không còn có thể che giấu bộ mặt độc tài của mình với thế giới nữa. Nỗi lo sợ những nhà đấu tranh dân chủ và nhân quyền này sẽ cung cấp đầy đủ thông tin và sự thật cho nhân viên các Tòa Đại Sứ Quán còn lớn hơn nỗi sợ bị mất mặt mũi, nên đã cho công an và cả côn đồ hành xử bất chấp.

Nhưng càng làm như vậy, thì đảng và nhà nước CSVN càng đang tự đào mồ chôn mình mau hơn thôi. Xu hướng phát triển của toàn cầu ngày nay là dân chủ hóa là tôn trọng nhân quyền, là chính quyền phục vụ nhân dân, chứ không còn là độc tài phong kiến đảng nói gì dân phải cúi đầu nghe như mấy thế kỷ trước nữa.
Nếu đảng và nhà cầm quyền CSVN không chịu nhìn nhận và chấp nhận sự thật hiển nhiên này, thì sẽ bị thế giới tẩy chay lên án, sẽ gặp sự chống đối ngày càng nhiều từ phía người dân, trong và ngoài nước, và sẽ bị đào thải sớm trong ô nhục mà thôi.

Nguồn FB Ngọc Nhi Nguyễn
https://www.facebook.com/ngocnhi2011/posts/682913695117053
Ảnh: FB Ngọc Nhi Nguyễn, Nguyễn Tường Thụy

Nhìn lại sử liệu viết về Nguyễn Huệ Quang Trung và Gia Long Nguyễn Ánh[1]


Mới ðây, bạn bè có gửi cho tôi một bài viết của cố giào sư Trần Quốc Vượng nhan ðề: Mấy vấn ðề về vua Gia Long. Bài tham luận của gs Trần Quốc Vượng ðược viết cho một buổi Hội thảo tại TP Hồ Chí Minh vào nãm 1996. Nhưng do liên quan ðến quan ðiểm chính trị mà buổi hội thảo bị bãi bỏ và bài của gs Trần Quốc Vượng cũng chưa ðược ðãng lần nào.
Theo gs Vượng, quan ðiểm sử học của Hà Nội là phủ ðịnh sạch trơn(table rase) về thời Nguyễn và nhà Nguyễn.
Bài viết của gs Vượng phù hợp quan ðiểm của tôi là cần nhìn lại về Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh!! Bài tham khảo của tôi chắc hẳn ðã từng gây sốc và sẽ gây sốc, làm phiền lòng nhiều người vì ðụng chạm ðến những ðiều không ðược phép ðụng chạm!! Biết làm sao ðược. NVL
Lịch sử bao giờ cũng ở số nhiều.
Vì thế có thứ lịch sử của kẻ cai trị, kẻ cầm quyền và nhất là thứ sử của kẻ cầm bút mà ðôi khi họ chỉ là thứ cung vãn. Trong các chế ðộ tài ðảng trị bây gìờ thì nhà sử học bị liệt vào hạng vãn nô. Chẳng hạn như trường hợp sử gia Dương Trung Quốc mà Tưởng Nãng Tiến ðã nêu tên trong một bài viết mới ðây của anh.
Trong khi đó, lịch sử lại chỉ có thể xảy ra duy nhất một lần.
Phần còn lại của lịch sử được viết đi, viết lại nhiều lần tùy theo mỗi người và tuy theo mỗi thời kỳ.
Trong lịch sử Việt Nam có hai nhân vật lịch sử cách ðây hơn 200 nãm, người này người kia ðã làm nên vận mệnh lịch sử Việt Nam là Tây Sơn Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh Gia Long. Vóc dáng và sự nghiệp của họ ðã ðược huyền thoại hóa, ðược vinh danh hoặc ðã bị bôi nhọ và bị người ðời nguyền rủa tùy theo ngòi bút của các người viết sử.
Vấn đề ở đây là có một thứ lịch sử của những nhân vật lịch sử hay là thứ lịch sử của những người viết sử? Muốn nhìn lại chân diện những nhận vật lịch sử này quả thực không dễ. Một phần phải xóa đi những lớp bụi thời gian đã đóng rêu, đóng mốc đến mọc rễ trên họ. Một phần phải bỏ đi những định kiến đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người như một thứ chân lý, sự thật hiển nhiên.
Đó là hai công việc đồng thời phải làm.
Chẳng những phải xóa bỏ thần tượng trong sách vở, xóa bỏ những đám mây mù tài liệu và hơn tất cả, xóa bỏ thần tượng trong đầu mỗi người mà công việc ấy gần như thể là một công việc tẩy não.
Và nhiệm vụ của sử học không thể câu nệ chỉ căn cứ vào sự đồng tình ít hay nhiều của người đời rồi cứ thế trôi theo. Bài viết này mong trả lại được công đạo cho sự thật và một cách gián tiếp giải trừ một số huyền thoại về Tây Sơn Nguyễn Huệ và trả lại công đạo cho Nguyễn Ánh dựa trên một số công trình của các nhà nghiên cứu chuyên ngành về sử.
Người viết cùng lắm chỉ làm công việc thông tin qua những kiến thức sử của các vị chuyên ngành viết sử.
1. Có sự chênh lệnh quá ðáng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn
Người viết nhận thấy có một sự thuận lợi rõ ràng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn và sự bất lợi vì quá ít tài liệu viết về phía Nguyễn Ánh. Số lượng chênh lệch về tài liệu có một ý nghĩa gì? Phải chăng những người viết sử chạy theo số đông như về hùa? Hay viết với nhiều cảm tính?
Ðộng cơ nào ðã thúc ðẩy họ viết như thế? Có thể ðộng cơ chính trị là chính yếu.
Hiểu ðược những ðộng cơ thúc ðẩy họ viết là hiểu ðược một phần sự thật. Chẳng hạn cộng sản Hà Nội trước ðây ðã hết lời ca tụng Tây Sơn nhằm lợi dụng Tây Sơn. Nhưng phía các nhà viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 cũng phần ðông bốc Tây Sơn thì do ðộng cơ nào?
Phía tài liệu sử nhà Nguyễn, ngoại trừ một số sách sử của triều Nguyễn viết một cách chính thức như Ðại Nam chính biên liệt truyện, Ðại Nam Thực lục tiền biên và chính biên viết theo lối biên niên. Ðây là số lượng tài liệu ðồ sộ, nhưng lại không dễ ðược tiếp cận và nay dù ðã dịch từ Hán ra Việt cũng không mấy người có ðể ðọc.
Người viết đọc các tập tài liệu này, măc dầu có những khuyết điểm không tránh được như sự rườm rà, quá chi ly từng sự việc, nhưng rõ nét tính chính thống.
Không thể phủ nhận tinh thần công tâm, nhân cách các nhà viết sử biên niên triều Nguyễn. Tất cả trên dưới gồm 30 vị.
Nhiều sự kiện lịch sử nay vẫn có giá trị sử học vô giá.
Ngoài thứ chính sử đó ra thì hầu như không có mấy ai “ở ngoài luồng” sau này để công sức viết đến nơi đến chốn về 100 năm nhà Nguyễn Gia Long.
25 nãm Nguyễn Ánh nằm gai nếm mật lao ðao. Ông vào sinh ra tử. Và gần 100 nãm dòng họ ngồi ở ngôi báu.
Biết bao điều để phải nói, phải viết.
Không lẽ chúng ta lại phải ngồi đợi một nhà sử học ngoại quốc nào đó lò mò để cả đời ra viết hộ chúng ta?
Triều đại Tây Sơn ngắn ngủi mà đều là những năm bận rộn với chinh chiến. Liệu Tây Sơn đã thực sự làm được gì? Vậy mà người ta có thể ngồi “vẽ ra” nào là về chính tri, ngoại giao, chính sách về tôn giáo, tiền tệ, v.v… và v.v…và ngay cả văn học thời Tây Sơn nữa.
Trong khi nhà Nguyễn phải mất 88 năm mới biên soạn xong bộ Đại Nam Thực Lục mà số người đọc được đếm trên đầu ngón tay! Vì những sách này lại rất khó đến tay người đọc vì phần đông dân chúng không biết chữ Hán.
Cho nên đối với phần đông dân chúng vì không được đọc chính sử nhà Nguyễn nên chỉ nghe nói về sử hơn là đọc sử. Biết về Nguyễn Ánh phần đông chỉ là nghe lời đồn hơn là đọc sử. Đây là điều bất lợi không nhỏ cho Nguyễn Ánh Gia Long bị bao vây bởi một thứ sử dân gian, truyền miệng. Làm thế nào bịt miệng dân gian?
Tư liệu viết về Quang Trung ðã nhiều lại viết một cách thiên lệch.
Hiện tượng tài liệu sử viết về Quang Trung lấn lướt tài liệu viết về Nguyễn Ánh là điều có thực. Có thể nó bắt đầu kể từ khi Trần Trọng Kim, một sử gia Việt Nam dưới thời chính phủ Bảo Đại viết bộ sử Việt Nam Sử lược với một cái nhìn mới về vua Quang Trung.
Nó ðã mở ðầu cho một trào lưu viết sử về Quang Trung với nhiều hào quang, với nhiều danh xưng tán tụng như “anh hùng áo vải, anh hùng dân tộc dựng cờ ðào, Cách mạng nông dân Quang Trung Nguyễn Huệ và Napoleon, nhà ngoại giao xuất sắc, Nguyễn Huệ với chiến lược con người vv,,
Nói không quá đáng là có sự hình thành một dòng Văn sử học viết về Tây Sơn.
Đồng ý phải nhìn nhận ở một mặt nào đó, đôi khi một dân tộc cũng cần được nuôi dưỡng bằng một số hào quang lịch sử như thế chấp cho sự tầm thường và kém cỏi của đời sống.
Sức quyến rũ về hình ảnh một Quang Trung anh hùng làm nức lòng mọi người, khơi dậy tình tự dân tộc phải chăng cũng là một điều cần và đủ.
Nhưng liệu nó có thể thay thế cho sự trung thực của sử học?
Duyên Anh ðã có lần viết mơ ðược làm Người Quang Trung. Từ ðó, nhiều giới trẻ trong Nam trước 1875 cũng mơ như thế!!
Tài liệu sử viết về Quang Trung nhiều đã đành. Cạnh đó, thơ văn, kịch nghê, sân khấu, tiểu thuyết, sách giáo khoa, tên các địa danh, ngay cả các lễ hội đã dành một chỗ cao cho “người anh hùng áo vải”.
Phải chăng có một thứ sử học, văn học và văn hóa Quang Trung thấm đẫm tình tự dân tộc, đất nước, con người theo cái tinh thần chúng ta sống với thời đại của những người anh hùng?
Và cứ thế tiếp nối sau đó có cả hơn một ngàn tài liệu sách vở viết về Quang Trung. Cuốn sách viết về Tây Sơn được một số nhà viết sử tham khảo rộng rãi là cuốn của Hoa Bằng: Quang Trung, Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc 1788-1792, Sàigòn,1958.
Tựa đề sách coi Tây Sơn là anh hùng như một khẳng định vị thế của Quang Trung trong lịch sử và nhất là trong lòng người.
Nguyễn Phương với cuốn Việt Nam thời bành trướng: Tây Sơn, Sài Gòn, Khai Trí, 1967
Người ta có thể đồng ý với nhau là tài liệu viết về Quang Trung thì nhiều. Nhưng phải chăng viết giống nhau cũng nhiều.
Trong đó có nên nhìn nhận tính chất viết nhái và thời thượng có phần trổi bật không?
Người trước viết thế nào thì người sau viết lại như thế. Nó chẳng khác gì khi có phong trào “thời thượng triết hiện sinh” sau này.
Phải chăng có một phong trào, một sùng bái Tây Sơn?
Ở miền Nam, tập san Sử Địa là “ấn tượng và biểu tượng” nhất của phong trào này cũng đã trôi theo một dòng chảy “thời thượng” Tây Sơn. Trong đó Tập san Sử Địa đã dành ba số chủ đề bàn về Tây Sơn.
Ý hướng thiện chí thì có. Nhưng nay đọc lại thấy một số bài tham khảo viết dựa trên những kiến thức “định sẵn”, phần biện luận một chiều được chú trọng nhiều hơn phần tài liệu sử.
Đây là tính chất đặc biệt của các cây viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 và có thể cả sau 1975 viết trong tình trạng thiếu tài liệu. Càng thiếu tài liệu thì càng biện giải thay vì trưng dẫn tài liệu.
Đã thế, cách viết, cách chọn tài liệu, nhất là phong cách, ngôn ngữ xử dụng cho người đọc bây giờ có cảm tưởng một số vị ấy tránh những tài liệu xem ra bất lợi về Tây Sơn.
Đó là lối viết sử viết một chiều. Đó cũng là tính chất đặc biệt của một số người viết sử mà đôi vị dù viết rất cảm tình, rất thiên lệch, phong cách viết, ngôn ngữ xử dụng đọc thấy “tự cao” ngoài khuôn khổ mà vẫn tự khoác cho mình vai trò sử gia viết trung thực.
Vì thế nói chung trong các bài tham khảo ấy, hầu như không có mấy bài chú trọng ðến tài liệu sử Trung Hoa ðời Càn Long. Cũng ít chú trọng ðến các tài liệu do phía người Pháp qua những phúc trình và thư từ của các giáo sĩ thừa sai gửi về cho gia ðình hoặc tu hội của họ. Tài liệu này dài ðến mấy ngàn trang mà một phần dành cho Việt Nam.
Ngày nay, ai muốn ðọc ðều dễ dàng tham khảo. Nhan dề là: Choix des lettres Edifiantes, Ecrites des missions Etrangers.
Tôi nhận thấy các nhà viết sử Hà Nội chẳng những không xử dụng tài liệu của nhà Thanh mà cũng không thấy ai trích dẫn những lá thư thừa sai cũng như Bulletin des amis du vieux Hue. ( Viết tắt là B.A V.H). Những tài liệu này ðã ðược người Pháp cho dịch ra tiếng Việt. Chỉ riêng mình Leopold Cadiere ðã viết khoảng 250 bài liên quan ðến Việt Nam.
Chẳng lẽ những tải liệu này ðều vô giá trị cả sao?
Những tài liệu này ngoài tính chất quý báu là cái nhìn tại chỗ và không bị chi phối nhiều về phe phái chính trị hẳn là có ưu điểm nói lên một phần sự việc đã xảy ra.
Bà Ðãng Phương Nghi người ðầu tiên dịch các tài liệu sang tiếng Việt như hai tài liệu: “Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ, Sử Ðịa số 9-10, 1968, tr94-243 và “Triều ðại vua Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương”, Sử ðịa số 13, Sàigòn 1969, tr.143-180.
Tài liệu ðã hiếm hoi. Nhưng có một số tài liệu “ðầu tay”, ðầu nguồn cùng thời với sự kiện lịch sử như thế này thì lại úy kỵ không dùng. Riêng người viết bài này thì ngược lại không khỏi ngạc nhiên và thích thú khi ðọc sấp tài liệu này.
Phải đọc để thích thú với những sự kiện lịch sử về người, về việc cách đây trên hai thế kỷ. Nó diễn ra như thật trước mặt.
Vậy mà ngay phần ðông người viết sử miền Nam hình như tránh né, ít xử dụng các loại sử liệu của các thừa sai Pháp. Phải chãng vì nó trình bày những “bất lợi”cho Tây Sơn.
Xem ra nhiều nhà viết sử dị ứng với kho tài liệu này? Phải chăng vì nội dung của chúng đi ngược với những kiến thức sử quen thuộc, hay nội dung đụng chạm đến thần tượng Quang Trung mà họ đã trót tô vẽ?
Có người như Vũ Ngư Chiêu không ngần ngại xếp chúng vào loại tài liệu “lời đồn” hay “nghe kể”.
Hoặc cho rằng các nhà truyền giáo này không có ý định viết sử. Hoặc họ có lập trường chính thống ngả theo ủng hộ Nguyễn Ánh thay vì “tiếm vương” Quang Trung.
Nhưng, theo người viết, chính vì họ không có ý ðịnh viết sử, mà ðiều họ viết chỉ kể lại nên về mặt sử liệu lại rất sử hơn ai hết!!
Vì thế, đấy vẫn là thứ tài liệu đầu nguồn, trực tiếp bằng sự có mặt của họ như một nhân chứng sử.
Sự kiện họ là nhân chứng là điều quan trọng nhất. Cùng lắm, ta dùng chúng với sự thận trọng như bất cứ tài liệu sử nào.
Xin nêu ra ở đây như một bằng chứng là những vấn đề như chiến dịch Tây Sơn đánh ra Bắc cũng như lịch sử nhà Tây Sơn trong hơn 40 số Tập San Sử Địa với rất nhiều giới hạn tài liệu.
• Chủ đề thứ nhất: Đặc Khảo về Quang Trung. Trong đó có đến 4 bài viết của Tạ Chí Đại Trường như: Vai trò của Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính của Tây Sơn – Góp thêm về phổ hệ Tây Sơn v.v… Hoàng Xuân Hãn đóng góp với bài: Việt Thanh chiến sử theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh. Tạ Quang Phát với bài: Vua Quang Trung qua chính sử triều Nguyễn. Nhưng một tài liệu không thể bỏ qua được của bà Đặng Phương Nghi trích và dịch ra từ Văn khố Âu Châu bao gồm các thư: Lettres Édifiantes et Curieuse của Gia Tô Hội.
• Chủ đề thứ hai được thực hiện ngay năm sau, tháng1-3, năm 1969 để kỷ niệm: Kỷ niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu, Đống Đa. Tạ Chí Đại Trường như thường lệ có bài: Đống Đa, mâu thuẫn văn hóa vượt biên giới. Hoàng Xuân Hãn với Bắc Hành Tùng Kí. Nguyễn Nhã với: Tài dùng binh của Nguyễn Huệ. Đăng Phương Nghi dịch: Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương.
• Chủ đề thứ ba số tháng 1-3, 1971: 200 năm Phong Trào Tây Sơn với các bài của Hoàng Xuân Hãn: Phe chống đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “Cử Trung Ngân”. Việc mất đất 6 châu Hưng Hóa của Nguyễn Toại. Những ngày tàn của Tây Sơn dưới mắt giáo sĩ Phương Tây, bản dịch của Nguyễn Ngọc Cư (tài liệu Nha Văn Khố Pháp do bà Đặng Phương Nghi để lại trước khi bà sang Pháp dạy học ở Đại học Sorbonne).
Trong cả ba số chủ đề trên, sự đóng góp của Tạ Chí Đại Trường là nhiều và trổi bật. Nhưng sự đóng góp của ông Hoàng Xuân Hãn và bà Đặng Phương Nghi trong cách nhìn mới, tìm tòi nhiều tư liệu là đáng kể hơn cả.
Ít ra hai người đã mở ra một hướng nghiên cứu sử học như mở một cái lối đi trong khu rừng rậm.
Phía các người viết sử miền Bắc
Phần các nhà viết sử miền Bắc xem ra “ði trước” các nhà viết sử trong Nam. Họ gán cho Tây Sơn những vai trò “cách mạng” ði trước cả Mác-Lênin. Và phải chãng Tây Sơn là ông tổ của cuộc cách mạng XHCN? Người ta ðọc ðược các bài viết sau ðây về Tây Sơn, Nguyễn Huệ:
- Xã hội Việt Nam trong thế kỷ XVIII và những phong trào nông dân khởi nghĩa.
- Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyễn Huệ.
- Nguyên nhân thành bại của cuộc cách mạng Tây Sơn.
- Cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn qua một ít bức thư của người ngoại quốc đã ở Việt Nam đương thời.
- Giới thiệu văn học Việt Nam thời Tây Sơn
- Một số tài liệu về vấn đề ruộng đất thời Quang Trung
Người ta cũng thừa hiểu rằng tất cả những người viết sử miền Bắc, dựa trên Sử quan duy vật biện chứng đã biến sử học trở thành công cụ cho chế độ ấy. Mặc dầu miền Bắc có một số trí thức đáng nể. Nhưng những vị này cũng tự khuôn mình vào lối viết theo “lề phải” như Nguyễn Đổng Chi, Trần Văn Giáp, Đào Duy Anh, Trần Thanh Mại, Trần Văn Giàu, Vũ Ngọc Phan, Trần Đức Thảo.
Tôi có ðọc ðâu ðây một bài viết của triết gia Trần Ðức Thảo viết về Thằng Bờm. Ta quen gọi Thằng Bờm và Bờm trước sau chỉ là Bờm..Nhưng Bờm dưới mắt các ngự sử miền Bắc là biểu tượng cho nhà tranh ðấu chống giai cấp phong kiến nên không ðược gọi bằng thằng. Phải gọi trân trọng là Anh Bờm!! Thật tội nghiệp cho Trần Ðức Thảo! Tội nghiệp cho trí thức miền Bắc!! Tội nghiệp cho cả dân tộc Việt Nam. Và vì thế phải gọi Nguyễn Ánh là thằng Nguyễn Ánh và anh Tây Sơn!!
Có thể gọi chung đó là thứ sử phi sử. Đó cũng là là thứ sử nay phải viết lại hết, viết lại từ đầu vì những điều gì họ viết về nhà Tây Sơn thì đều chỉ có mục đích tuyên truyền.
Họ càng “tụng” Tây Sơn, Tây Sơn càng không phải Tây Sơn.
Sự ca tụng Tây Sơn có khác gì bây giờ họ đang “đánh bóng” Lý Công Uẩn?
Với những dụng ý như thế, Tây Sơn Nguyễn Huệ đã được bôi vẽ bằng rất nhiều hình ảnh không thật.
Sau 1975, Quách Tấn-Quách Giao có cho in Nhà Tây Sơn, xnb Trẻ, TP. HCM, 2000.
Đặc biệt có cuốn sách của Trần Quỳnh Cư-Trần Viết Quỳnh nhan đề: Mười ba đời nhà Nguyễn đã không thiếu những lời khiếm nhã đối với các vua nhà Nguyễn. Nhưng đặc biệt ở trang 172 có ghi: Hành động cách mạng “số một” của vua Bảo Đại, trích hồi ký Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc của Phạm Khắc Hòe cho thấy sự kính trọng của Bảo Đại đối với “ thánh” Nguyễn Ái Quốc!
Thánh Nguyễn Ái Quốc nay được tôn thờ trong một số đền chùa là phải!!
Những tài liệu ít ỏi viết về Nguyễn Ánh
Nhưng viết về Nguyễn Ánh, khó khăn và hiếm hoi lắm mới gom ðược vài bài như: “Một vài ý kiến về sự nghiệp Gia Long”, Phạm Việt Tuyền, Ðại Học Huế, số 8 tháng 3/1958. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thế Anh: La Monarchie des Nguyên de la mort de Tu Ðuc à 1925. Bài viết gần ðây như: Ðánh giá lại một số tài liệu về thời kỳ Tây Sơn, số 3, tháng 4-6, 2007, Dòng Sử Việt.
Bài viết này khá là quan trọng.
Mới đây nhất, có bài viết khá lý thú của Võ Hương An: Bàn về Tây Sơn, Nguyễn Ánh. Chuyện đời vay trả giải lý một phần nào những nỗi oan đổ trên đầu Nguyễn Ánh.
Có thể còn có một số bài viết khác mà người viết không thu tập được. Nhưng nói chung nó quá ít ỏi so với số lượng tài liệu viết về Tây Sơn.
Nhưng người viết tin rằng sẽ có những loạt bài khảo cứu nghiêm túc nhìn lại Tây Sơn trong tương lai. Riêng các nhà viết sử có tiếng tăm ở miền Nam trước 1975, chắc hẳn phải điều chỉnh lại tầm nhìn lịch sử về các chiến thắng cũng như con người Tây Sơn cho thích hợp.
Như nhận xét ở trên, ông Hoàng Xuân Hãn là một trong những người sớm nhận ra tính cách “một chiều” trong các bài khảo luận về Quang Trung. Vì thế, ông đã dịch Việt Thanh Chiến, theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh trong Càn Long chính vũ An-Nam ký, năm Đạo Quang thứ 22-1842 nhằm cân bằng kiến thức lệnh lạc một chiều của một số người viết. Bài viết này về mặt sử liệu nên được coi là một đóng góp quan trọng trong việc tìm hiểu chiến dịch đánh ra Bắc của Tây Sơn Nguyễn Huệ.
Ông Hãn còn viết thêm bài: Phe chống Đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “Cử Trung Ngân”
Ông cũng đã chú trọng và giới thiệu đến các bộ sách sử khổng lồ Đại Thanh Thật Lục được xuất bản bên Nhật để độc giả có thêm một cái nhìn “theo lề trái” về Quang Trung.
Cái ưu điểm của ông Hoàng Xuân Hãn mà một số sử gia thời đệ nhất và đệ nhị không có được là ông rành chữ Hán, tiếp xúc trực tiếp với tài liệu của Trung Hoa cũng giống như các ông Phan Khoang, Chen Ching Ho (Trần Kình Hòa).
Viết sử Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Hoa mà không rành Hán Văn, lại không chú trọng đến các tài liệu phía Trung Quốc phải chăng là một thiếu sót mang danh nghĩa một nhà sử học?
Cái ưu điểm của học giả Hoàng Xuân Hãn là cái nhìn cao và vượt trên tài liệu chỉ từ một phía. Và theo ông, cần tham khảo sử liệu từ nhiều phía.
Vì thế, viết sử ta mà không đọc được sử Tầu thì mất đi ít nhất một nửa sự thật.
Sau này, các người biên khảo sử như Nguyễn Duy Chính cũng đi theo hướng khảo cứu đó khi tìm hiểu – điều mà ông gọi là Đi tìm một mảnh khuyết sử- thông qua cuốn Khâm Đinh An Nam Kỷ lược. Cuốn sách của triều đình nhà Thanh tổng hợp tất cả những thư từ, chiếu biểu của vua Càn Long liên lạc trao đổi với nước ta.
Cũng theo ông Nguyễn Duy Chính, đó là một văn bản hiếm quý để trong thư viện của vua Gia Khánh (1798-1820), đóng dấu Ngự Thư Phòng Bảo, được in lại do Cố Cung Bác Vật Viện biên tuyển, ấn hành lần thứ nhất vào tháng 6 năm 2000.
Vì thế khẳng định rằng viết về sử Việt mà thiếu sự tham khảo tài liệu sử Tàu thì dễ có nguy cơ rơi vào khiếm khuyết sử.
Sử một lần nữa phải viết lại và nhiều bài viết sử thập niên 1960 chỉ có giá trị thư tịch, tồn trữ đối chiếu mà không hé mở cánh cửa vào sự thật.
Cho nên phần đông các tham luận về sử, đặc biệt viết về Quang Trung Nguyễn Huệ đăng trong hơn 40 Tập San sử địa thì hiện nay chỉ có chút ít giá trị tham chiếu. Nếu không nói là phải viết lại toàn bộ.
Nguyen Phuc Anh - 1783
Nguyen Phuc Anh – 1783