Thứ Năm, 30 tháng 10, 2014

Phỏng vấn blogger Điếu Cày: Không có thiết chế cho người tù tiếp cận công lý ở Việt Nam


dieu_cay_2.jpg
Blogger Điếu Cày trong căn hộ nơi ông đang ở, tại Los Angeles. (Hình: Vũ Quí Hạo Nhiên)
Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải là một trong những tù nhân chính trị được thế giới biết đến nhiều nhất, với những tổ chức như Human Right Watch, Amnesty International và các chính khách như Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama từng kêu gọi trả tự do cho ông. Ông bị bắt lần đầu năm 2008 với tội danh “trốn thuế,” và ngay sau khi hoàn tất án tù đó bị tiếp tục giam giữ và kết tội tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa vì những hoạt động trong Câu lạc bộ Nhà báo Tự do. Đến ngày 21 tháng 10 năm 2014, ông bất ngờ được thả và được đưa ngay đến Hoa Kỳ.
Nhà báo Vũ Quí Hạo Nhiên phỏng vấn ông nơi ông đang ở trong vùng Los Angeles, California.
VQHN: Khi anh đến Los Angeles, một trong những điều ngạc nhiên là người ta ra sân bay đón anh rất là đông. Cảm giác anh khi thấy vậy là thế nào?
Điếu Cày: Lần đầu tiên đến Los Angeles, bà con đón thì đông như vậy, tình cảm thì tôi thấy rất là xúc động khi bà con ra đón rất là nhiệt tình. Đây là cái điều rất hạnh phúc với tôi khi tôi được phát biểu trước bà con với những ý nguyện của mình.
VQHN: Một cái người ta cũng nói tới rất nhiều là anh tới Hoa Kỳ với đôi dép tổ ong. Hành trang của anh lúc qua tới Mỹ gồm những gì?
Điếu Cày: Tôi đi ra khỏi nhà tù thì những cái đồ mà còn sử dụng được tôi đã chia hết cho anh em trong tù. Còn những đồ tôi mang theo là những cái đồ kỷ niệm thì tôi mang theo, trong đó có cả những bộ giấy tờ đi suốt trong cái quá trình điều tra, xét xử của vụ án này nhưng khi ra đến sân bay thì họ lấy hết.
Cho nên hành trang mà mang được sang tới đây, đó là một cái mền, của nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa gởi cho tôi, cái áo gối, của cô Phạm Thanh Nghiên gửi, và cái áo con trai tôi gửi cho tôi. Ngoài ra còn có một số ủy nhiệm của bạn bè tôi đã phải viết vào trong áo và mặc vào người. Tôi cũng mang được một bức thư của nhà báo Trương Duy Nhất gửi cho tôi, và những lời dặn dò mà anh em ủy nhiệm thì rất nhiều.
belongings.jpg

Hành trang Điếu Cày mang qua có đôi dép tổ ong mang từ trong tù, tấm mền do nhà văn và cũng là bạn tù Nguyễn Xuân Nghĩa tặng, và áo gối do cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên tặng. (Hình: Vũ Quí Hạo Nhiên)
VQHN: Anh có thể nói sơ về những điều ủy nhiệm hay nhắn nhủ của các bạn tù?
Điếu Cày: Thực ra tôi đã qua 11 trại tù trong 6 năm rưỡi. Những cái gì mà những người tù ở Việt Nam cần, đấy là những điều chỉ có những người đi trong các nhà tù trong ngần ấy năm mới biết được là thực sự họ cần cái gì.
Vì vậy, họ rất mong muốn là tôi ra được bên ngoài và cất lên tiếng nói thay cho họ: Đó là việc thực thi pháp lý trong các nhà tù Việt Nam, cái việc mà người tù trong các nhà tù Việt Nam bị tước đoạt đi các quyền lợi đã được ghi trong Hiến pháp, được thể chế hóa ra trong luật thi hành án hình sự nhưng đã bị tước đi ở trong nhà tù, mà người tù không có cơ hội để mà cất lên tiếng nói khiếu nại.
Bởi vì các nhà tù Việt Nam cũng không có một cái thiết chế nào để cho tù nhân tiếp cận công lý. Khi tù nhân bị tước đoạt những cái quyền lợi được ghi trong luật, họ cất lên tiếng nói, họ viết đơn khiếu nại, nhưng họ lại phải gửi những cái đơn đó cho chính những cái người đã tước đoạt quyền lợi của họ. Lấy gì để bảo đảm rằng những cái người đã tước đi cái quyền lợi của họ lại đem cái là đơn đó đi các cơ quan giám sát.
Trong khi các cái cơ quan giám sát quyền lực trong các trại giam này là Viện Kiểm sát, là các cái cơ quan dân cử, thì lại không hề có một cái thùng thư hay một cái cuộc tiếp xúc nào để tù nhân có thể cất lên tiếng nói.
VQHN: Một điều nữa cũng nhiều người thắc mắc là chuyện anh qua Mỹ hoặc ở lại Việt Nam. Trước đây cả mấy tháng đã có tin là Việt Nam nói nếu anh chịu qua Mỹ thì người ta thả và lúc đó tin được đưa là anh không chịu đi Mỹ.
Điếu Cày: Vấn đề này thì tin mà cách đây mấy tháng thì tôi không bình luận được vì thục tế là tôi vừa được lôi ra khỏi nhà tù có mấy ngày thôi, nên những cái dư luận bên ngoài thì tôi không thể biết.
Nhưng mà tôi xin nói một điều rằng, là đi hay ở là không thuộc vào cái lựa chọn của tôi. Nó thuộc về chính phủ Việt Nam và chính phủ Hoa Kỳ. Bởi vì chúng ta thấy rằng, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trả lời rõ ràng, họ nói rằng họ đình chỉ thi hành án tôi, chứ không phải thả tôi ra. Vì vậy việc đi, hay ở lại Việt Nam, tôi không có quyền lựa chọn.
VQHN: Ngày anh biết anh sẽ được ra tù, anh có thể nói lại chuyện đó xảy ra thế nào và quá trình nó ra sao.
Điếu Cày: Tôi có thể nói thêm về câu hỏi trước như thế này, là nếu họ nói là họ đình chỉ thi hành án thì họ cũng phải đưa ra một cái quyết định. Chứ việc họ đưa tôi đi hoàn toàn không có một cái quyết định, không có một cái giấy tờ nào hết.
Trong quá trình làm việc với tôi thì họ có đề nghị là viết đơn xin ra tù trước thời hạn thì tôi dứt khoát không viết. Họ yêu cầu là viết đơn đề nghị Chủ tịch nước và Thủ tướng xin tha tù trước thời hạn thì tôi cũng không viết. Vì vậy, khi mà đi ra khỏi nhà tù là họ chỉ có khám xét đồ đạc của tôi, và đưa tôi lên xe, rồi đưa thẳng ra sân bay, chứ không hề có bất kỳ một cái quyết định nào được đọc, được nói hoặc là yêu cầu tôi ký cả.
vì tôi đã nói trước rồi, tôi có một nguyên tắc bất di dịch là không nhận tội để được ra tù, cho nên trong bất kỳ hoàn cảnh nào tôi cũng không có ký vào bất kỳ giấy tờ nào khác. Vì vậy, tôi được đưa ra tù mà không hề có một quyết định nào được đọc, hay là yêu cầu tôi ký, cứ tự nhiên đi thôi.
VQHN: Vậy là từ lúc mà họ nói cho đến lúc anh được đi, thực sự ra khỏi nhà tù, là bao lâu?
Điếu Cày: Thực ra thì ngày 17 tháng 8, tham mưu của Bộ Công an xuống, có làm việc với tôi. Họ nói là, họ chỉ nói về cái việc là Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có đang thảo luận với họ về việc trả tự do cho tôi nhưng không nói rằng tôi sẽ được đi hay ở lại, vì đó chưa phải là kết quả. Còn ngày 22 tháng 9, đại diện Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào gặp tôi. Đại diện Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có nói rằng chính phủ Hoa Kỳ yêu cầu chính phủ Việt Nam thả ông ra vô điều kiện, dù ông có ở lại Việt Nam hay đi đến Hoa Kỳ, nhưng hiện hai bộ ngoại giao đã đạt được thỏa thuận rằng ông ra tù sẽ nhập cảnh vào Mỹ.
VQHN: Ngày 22 tháng 9 hay ngày 22 tháng 10?
Điếu Cày: Ngày 22 tháng 9.
VQHN: Tức là cỡ một tháng trước khi ra tù? Thành ra từ ngày đó là anh đã biết là sẽ đi?
Điếu Cày: Không. Vì đây chỉ là thỏa thuận hai bên, chưa biết có đạt được thỏa thuận hay không, có đi được hay không. Vì trong thân phận người tù, chung quanh là bốn bức tường, chúng tôi rất thiếu thông tin.
VQHN: Khi anh bị bắt thì ai cũng biết là anh bị bắt vì tổ chức Câu lạc bộ Nhà báo Tự do. Bây giờ, sau khi đã bị bắt bị tù xong rồi, thì bây giờ anh có dự tính gì cho CLBNBTD không?
Điếu Cày: Thực ra là Câu lạc bộ Nhà báo Tự do, mặc dù bị đàn áp rất dã man - các anh đã nhìn thấy là CLBNBTD nhiều anh em trong CLBNBTD bị bắt, gia đình họ bị tấn công, bị phá hoại về kinh tế, bị sách nhiễu, và đặc biệt thì người mẹ của blogger Tạ Phong Tần đã tự thiêu để phản đối về việc các con của mình đang bị giam giữ một cách hà khắc trong nhà tù cộng sản.
Mặc dù là bị đàn áp dữ dội như vậy, nhưng Câu lạc bộ Nhà báo Tự do vẫn cứ hoạt động. Những anh em còn ở ngoài vẫn cứ tiếp tục làm việc. Vì vậy khi tôi ra tù tôi sẽ tham gia cùng anh em để chúng tôi tiếp tục thực hiện quyền tự do báo chí tự do ngôn luận của mình, dù là ở trong hay ở ngoài. Bây giờ tôi không được sát cánh với anh em ở trong nước, nhưng ra ngoài, tôi vẫn sẽ cứ tiếp tục làm một cái cầu nối để làm việc mạnh mẽ hơn nữa, theo cái cách thức mới hơn nữa, để thực hiện cái quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở trong nước Việt Nam.
food_truck.jpg

Một buổi tối vài ngày sau khi tới Mỹ, blogger Điếu Cày đi ăn khuya với Nancy Nguyễn, vừa trở về từ Hong Kong, ở một xe food truck đậu bên đường phục vụ công nhân làm đêm. (Hình: Vũ Quí Hạo Nhiên)
VQHN: Về cá nhân anh, gia đình anh còn ở Việt Nam, thì anh có dự định gì?
Điếu Cày: Hiện nay vợ tôi còn ở Việt Nam. Tôi còn hai cháu ở Việt Nam, cháu Dũng thì đã có vợ, đã có con rồi. Chúng tôi thì đã bị chia cắt gia đình đã hơn 6 năm nay rồi. Là con người ai cũng muốn là đoàn tụ gia đình, ai cũng luôn luôn muốn được đoàn tụ với gia đình.
Nhưng vì cái công việc, vì cái trách nhiệm mà tôi phải gánh vác trên vai, cho nên tôi quyết định là tôi chọn những lợi ích của dân tộc, lợi ích của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do, của tất cả những người làm báo Việt Nam.
Cho nên, khi đi sang đây rồi, gia đình tôi lại bị chia cắt thêm một thời gian nữa, chưa biết bao giờ mới có thể được đoàn tụ trở lại, nhưng tôi hy vọng rằng có được sớm được đoàn tụ hay không cũng là do gia đình tôi cũng như tôi ở bên này tiếp tục cuộc đấu tranh để mau được đoàn tụ.
VQHN: Tình hình nhà cửa công việc cuộc sống hiện nay anh có dự định gì trong tương lai gần?
Điếu Cày: Trong tương lai gần thì bây giờ trước mắt là sang đây, từ hôm sang đây đến giờ tôi chưa nghỉ một giờ nào. Xuống máy bay là tôi đã làm những cái việc cần thiết cho cái việc sắp tới của tôi. Mặc dù chưa tiếp xúc với các bạn bè trên truyền thông nhưng mà tôi đã lo tiếp xúc, kết nối với các bạn bè trong và ngoài nước để chúng tôi chuẩn bị bước vào một cuộc chiến mới. Còn gia đình, rồi nhà cửa, công việc, tất cả những cái đó tôi đành phải để lại sau.
VQHN: Bây giờ anh có một cái lời nào đó để nói với cộng đồng người Việt hải ngoại về cái cách nào tốt nhất để hỗ trợ cho những người trong nước thì anh có lời nhắn gì không?
Điếu Cày: Lời nhắn của tôi là tôi muốn bà con cộng đồng ở hải ngoại và đồng bào ở trong nước đã nhìn thấy cái chính quyền cộng sản đàn áp quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận như thế nào, không chỉ với báo chí của những nhà báo tự do ở bên ngoài mà cả những phóng viên ở trong nhà nước, như anh Trương Duy Nhất, như anh Nguyễn Văn Hải, như anh Hoàng Khương, như anh Võ Thanh Tùng.
Vì những cái việc đàn áp khốc liệt như vậy, việc thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam hoàn toàn không dễ một chút nào. Nếu bà con hiểu được điều đó, thì tôi để nghị bà con, cộng đồng hải ngoại, trong và ngoài nước cùng tay góp sức để giúp đỡ những nhà báo tự do. Họ thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận để giúp đỡ người dân Việt Nam cất lên được tiếng nói.
Thì cái hữu hiệu nhất là bà con hỗ trợ mạnh mẽ về dư luận hơn nữa và kết nối cộng đồng trong ngoài nước để chúng ta cùng thông hiểu nhau, cùng chung tay góp sức để tương lại của đất nước để tiến đến một cái đất nước mà ở đó mỗi người dân đều có quyền thực hiện tất cả mọi cái quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, những cái quyền con người cơ bản nhất để rồi bà con chúng ta có quyền trở về sống ngay trên đất nước của mình mà không sợ bị đàn áp khi mà cất lên tiếng nói trái với ý của nhà cầm quyền.
Vũ Quí Hạo Nhiên thực hiện
Chia sẻ bài viết này

Việt Nam 1945: Những Ngày cuối cùng trong cuộc đời Làm Chính Trị của Học Giả Phạm Quỳnh

Cho tới nay mọi người đều biết là sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, 9 tháng 3, 1945, Nội Các Phạm Quỳnh đã từ chức và được thay thế bởi Nội Các của Học Giả Trần Trọng Kim.  Vắn tắt như vậy, nhưng một vấn đề không kém quan trọng cần được đặt ra là chuyện gì đã xảy ra ở chung quanh Hoàng Đế Bảo Đại và thái độ của nhà vua đối với Phạm Quỳnh trong thời gian một tuần lễ kể từ ngày Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nhà vua mà Phạm Quỳnh là tác giả[1], được ban hành, từ ngày 11 tháng 3 đến ngày 19 tháng 3 năm 1945, ngày Phạm Quỳnh và các thượng thư khác, mà người ta thường quen gọi là Cơ Mật Viện hay Hội Đồng Thượng Thư hay Nội Các Phạm Quỳnh tùy theo từng sách, từ chức và nhà vua tuyên bố đích thân điều khiển việc nước, sau đó đã quyết định thành lập chính phủ mới? Trong bài này người viết xin được phần nào trả lời câu hỏi này.

Nội Các Phạm Quỳnh Từ Chức và Vai Trò của Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng Phạm Khắc Hoè

          Sau Đảo Chính 9 tháng 3, 1945 Hoàng Đế Bảo Đại vẫn còn tín nhiệm Học Giả Phạm Quỳnh và muốn giao thêm nhiệm vụ mới

          Theo Bảo Đại qua hồi ký sau này của ông thì một ngày sau khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được ban hành, ngày 12 tháng 3, nhà vua có triệu Đại Sứ Yokoyama vào cung để trao bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông.  Trong buổi gặp gỡ này Bảo Đại đã đặt vấn đề xứ Nam Kỳ và trước khi cáo lui, Yokoyama với giọng như dò hỏi và nhẹ nhàng gợi ý là giữa lúc Việt Nam đi vào con đường mới, nhà vua có định thành lập một chính phủ hợp bởi những người mới để đáp ứng nhu cầu của một nước Việt Nam mới hay không?  Trước câu hỏi này, Bảo Đại chỉ cười mà không trả lời, nhưng trong hồi ký, ông viết thêm là “Trao sự điều khiển quốc gia cho những người mới… Một trong những mục tiêu mà tôi nhắm tới vào lúc tôi mới lên ngôi.”[2] Những người mới này là những người hoàn toàn mới hay là luôn cả những người có thể được coi là mới vì mới được nhà vua đưa vào làm việc khi ông mới lên ngôi nhưng chưa thi thố được tài năng, trong đó có Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm? Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì Bảo Đại không trực tiếp trả lời Yokoyama mà chỉ cười, một cái cười đầy ý nghĩa, mà sau này lời chứng của Phạm Khắc Hoè, đương thời là Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng của nhà vua, người vốn đã là một cảm tình viên của Việt Minh, nằm vùng trong Đại Nội bên cạnh nhà vua và Nam Phương Hoàng Hậu, nhân chứng người ngoài duy nhất có mặt trong Đại Nội trong những ngày này cho ta biết phần nào.  Trong hồi ký của mình, Phạm Khắc Hoè đã ghi rằng sáng ngày 12 tháng 3, một ngày sau khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được công bố, nhà vua có bảo ông thảo một “đạo dụ” cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt cho Chính Phủ Việt Nam Độc Lập để giao thiệp với người Nhật.[3] Sự kiện này chứng tỏ là vào lúc đó Bảo Đại vẫn chưa có ý định thay thế Phạm Quỳnh và còn tín nhiệm Phạm Quỳnh hay ít ra là muốn dùng Phạm Quỳnh trong thời gian chuyển tiếp, một thời gian vô cùng quan trọng cho vị nguyên thủ quốc gia, sau một biến cố vô cùng trọng đại và bất ngờ xảy ra cho đất nước mình và chính mình là Đảo Chính 9 tháng 3 năm 1945, làm chủ được vị thế của mình, đồng thời lượng định được tình hình rồi mới đi đến những quyết định cuối cùng hay những thay đổi có tính cách lâu dài hơn mà không gây xáo trộn.  Điều này cũng được Hoàng Xuân Hãn kể lại khi nhân chứng đáng tin cậy này được Nhà Văn Thụy Khuê phỏng vấn như sau:

“Rồi đến lúc đảo chính Nhật, một hôm tôi ở Hà Nội, nghe tin radio biết rằng ông ấy (Vua Bảo Đại) giao cho ông Phạm Quỳnh liên lạc với người Nhật để đổi mới gì gì đấy.  Đợi mãi hơn một tuần không có tin gì mới hết cả, chúng tôi nhiều người nóng ruột lắm.  Chính ở Bắc, anh em có mượn một người đi vào Huế dò tin tức, người ta đi xe đạp từ Hà Nội về Huế, lúc ấy tầu hỏa bị đứt đoạn, đi lại khó lòng lắm.  Đến lúc trở về đây thì cũng chỉ biết tin vừa vừa thôi, rằng hình như ông ấy giao cho Phạm Quỳnh, nhưng Phạm Quỳnh không làm gì cả.”[4]

Nội Các Phạm Quỳnh từ chức – Vai trò của Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng Phạm Khắc Hoè

Mọi chuyện đã hoàn toàn đổi khác vì Phạm Quỳnh đã từ chức và lịch sử đã chuyển sang một hướng khác. Theo Phạm Khắc Hoè thì việc từ chức của Nội Các Phạm Quỳnh và sự chấp thuận sự từ chức này của Vua Bảo Đại là do chính Phạm Khắc Hoè gợi ý và chủ động. Thay vì tuân lệnh Vua Bảo Đại, soạn thảo đạo dụ theo ý muốn của nhà vua, Phạm Khắc Hoè đã quay sang nói xấu Phạm Quỳnh và khuyên nhà vua không nên dùng Phạm Quỳnh nữa.  Câu chuyện hôm đó kéo dài hơn nửa giờ và Bảo Đại quyết định tạm cử Phạm Quỳnh “cho dễ liên lạc với Nhật đã rồi sau sẽ hay.”  Nguyên văn lời kể của Phạm Khắc Hoè như sau:

“Sau một đêm thao thức, suy nghĩ về những chuyện trên, sáng ngày 12 tháng 3, tôi vào Đại Nội làm việc với ý định nêu vấn đề cải tổ Viện Cơ Mật lại với Bảo Đại. Nhưng chưa biết bắt đầu như thế nào?

“Tôi đang ngồi bóp trán suy nghĩ thì một người thị vệ vào nói: Dạ bẩm, Hoàng đế ban Cụ qua chầu có việc gấp. Tôi liền sang Phòng Phê thì Bảo Đại bảo thảo một đạo Dụ cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt Chính phủ Việt Nam độc lập giao thiệp với tối cao Cố vấn Nhật và các nhà chức trách Nhật nói chung.  Thấy tôi làm thinh, tỏ vẻ không thông mệnh lệnh ấy, Bảo Đại nói thêm: Nếu ông thấy có chi khó khăn chi thì cứ đi bàn với ông Lại mà làm cho kịp thời.  Sau phút ngập ngừng, tôi nói toạc ra với Bảo Đại rằng: Phạm Quỳnh là một người xấu, bị mọi từng lớp nhân dân oán ghét và giới nhân sĩ trí thức khinh bỉ, mặc dầu ai cũng biết ông ta học rộng, nói hay cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp.  Cho nên nếu nhà vua thực tâm vì dân, vì nước thì không nên dùng Phạm Quỳnh nữa.  Câu chuyện kéo dài hơn nửa giờ và cuối cùng Bảo Đại nói: Thôi!  Hãytạm cử Phạm Quỳnh cho dễ liên lạc với Nhật đã, rồi sau sẽ hay.

“Tôi trở về văn phòng thảo ngay một tờ Chỉ cử Lại Bộ Thượng Thư Phạm Quỳnh tạm thời làm nhiệm vụ liên lạc giữa Chính phủ Việt Nam độc lập với các nhà chức trách Nhật, đem lên cho Bảo Đại ký rồi sao lục ngay cho các Bộ và Tối cao cố vấn Nhật.  Làm như vậy, tôi chắc rằng những chữ chỉ, tạm thời, và liên lạc thế nào cũng làm cho Phạm Quỳnh căm thù mình!  Ấy thế nhưng sáng ngày 14 tháng 3, khi gặp tôi trong buổi lễ cáo yết Liệt Thánh, Phạm Quỳnh đã tỏ ra ngọt ngào với tôi hơn bao giờ hết.  Và lúc buổi lễ kết thúc, ông ta thiết tha căn dặn tôi chiều hôm ấy trên đường đi vào Đại Nội, ghé qua Bộ Lại nói chuyện.
“Đúng hai giờ chiều, tôi ghé qua Bộ Lại, Phạm Quỳnh đón tiếp tôi niềm nở hơn trước nhiều và giữ lại nói chuyện hơn một tiếng đồng hồ. Nội dung câu chuyện xoay quanh tương lai tốt đẹp của Tổ quốc và tiền đồ vẻ vang của những người trí thức Âu-Á kiêm thông.”[5]

Đoạn hồi ký này rất quan trọng. Nó cho người ta thấy Hoàng Đế Bảo Đại lúc đầu chưa có ngay ý định thay thế Phạm Quỳnh và lập một chính phủ mới.  Không những thế, ngay sau ngày 11 tháng 3, nhà vua đã có ý định bổ nhiệm Phạm Quỳnh thay mặt Chính Phủ độc lập trong việc giao thiệp với Tối Cao Cố Vấn Nhật và các giới chức Nhật khác bằng một đạo Dụ.  Nhà vua đã tới văn phòng làm việc rất sớm, tới trước cả Phạm Khắc Hoè, để thực hiện quyết định này.  Nhưng Phạm Khắc Hoè đã phá hỏng tất cả khiến cho ít ra một thời kỳ chuyển tiếp đã không được thực hiện và một tình trạng không chính phủ đã xảy ra từ ngày 19 tháng 3, ngày sáu vị thượng thư từ chức và được chấp nhận cho đến ngày 8 tháng 5, ngày nội các Trần Trọng Kim họp phiên họp đầu tiên với đầy đủ các nhân sự để nhận lãnh công tác và Vua Bảo Đại có lúc “đã cuống lên” vì không kiếm ra được người lập nội các như lời kể của Hoàng Xuân Hãn[6], trong khi tình hình đất nước vô cùng nghiêm trọng, có nhiều việc cấp bách cần phải làm.

Thành công bước đầu, Phạm Khắc Hoè sau đó đã làm một “tờ chỉ”, một văn kiện kém quan trọng hơn một“đạo dụ” rất nhiều để cử Phạm Quỳnh vào vai trò tạm thời này nhằm hạ thấp vai trò và uy tín của Phạm Quỳnh.  Cho là chưa đủ, có lẽ vì cho tới thời điểm đó Phạm Khắc Hoè chỉ mới hành động do ý riêng của cá nhân mình do sự ghen ghét với Phạm Quỳnh sau “một đêm thao thức suy nghĩ...”, Phạm Khắc Hoè sau đó một mặt hỏi ý kiến Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Tân Việt kỳ cựu hoạt động cho Việt Minh ở Huế đương thời, sau này là Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên rồi Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chính Thừa Thiên, mặt khác vận động với các thượng thư Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy để hai vị này thuyết phục Bảo Đại loại bỏ Phạm Quỳnh và “vận động toàn thể Cơ Mật Viện từ chức”.[7] Kết quả là sáng sớm ngày 17, Bảo Đại đã cho gọi Phạm Khắc Hoè qua phòng làm việc của mình, Phòng Phê, và ra lệnh cho ông này soạn thảo một đạo dụ theo đó “từ nay Trẫm sẽ tự cầm quyền và chế độ chính trị sẽ căn cứ vào khẩu hiệu Dân vi quý.[8]  Dụ này mang tên là Dụ Số 1, được ban hành ngày 17 tháng 3 năm 1945.

           Tiếp theo đó là “Khoảng 10 giờ sáng ngày 19 tháng 3, cả sáu vị Thượng thư vào yết kiến nhà vua  đưa đơn xin từ chức” và đã được Bảo Đại chấp thuận.[9] Cũng nên để ý là theo hồi ký của Bảo Đại, trước đó Phạm Quỳnh có báo cáo cho nhà vua biết về những phản ứng xảy ra trong Hội Đồng, hiểu theo nghĩa ở đây là Hội Đồng Thượng Thư, theo đó người ta sợ hoặc là người Nhật sẽ đổi ý, hoặc là người Pháp sẽ trở lại, hoặc là Vua Duy Tân hay Hoàng Thân Cường Để sẽ trở về… Điều này cho phép người ta suy đoán rằng tình trạng hoang mang của các vị thượng thư này ngoài những tin tức liên quan đến tình hình thời đó, phần nào còn là do Phạm Khắc Hoè tạo ra qua hai Thượng Thư Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy.   Tuy nhiên, để trả lời Phạm Quỳnh, nhà vua đã dứt khoát bảo với ông này qua nguyên văn:  “Ông liệu mà bảo họ chấm dứt những chuyện ăn nói lung tung và mưu mô đó đi… Hoàng đế là Trẫm!  Bảo họ đừng quên điều đó.  Nếu ngày nào Trẫm phải ra đi, ngày đó sẽ không còn Đế Quốc Việt Nam này nữa!”[10]   Những sự kiện này và câu nói của Bảo Đại cho ta thấy một điều là ngay từ những ngày đầu nhà vua đã phải đương đầu với hoạt động của những người Cộng Sản xuyên qua người nằm vùng của họ, ngay trong Đại Nội bên cạnh nhà vua, là Phạm Khắc Hoè, nạn chống đối nhau trong nội bộ các quan lại cao cấp trong triều, đồng thời sự hiểu biết và thái độ cương quyết của ông.  

Sự thù ghét và chống đối Phạm Quỳnh của Phạm Khắc Hoè

           Câu hỏi được đặt ra là tại sao Phạm Khắc Hoè lại thù ghét và chống lại Phạm Quỳnh như vậy?   Trong hồi ký của ông, Phạm Khắc Hoè không cho biết lý do mà chỉ nói rằng Phạm Quỳnh là một người “bản chất xấu xa và nguy hiểm”[11] nhưng người ta có thể suy đoán hai điều.  Trước nhất là sự ghen tị của Phạm Khắc Hoè đối với Phạm Quỳnh.  Sự ghen tị này bắt nguồn từ sự kiện là cả hai người đều là thân cận của Bảo Đại ở vào thời điểm này.  Thêm vào đó, Phạm Khắc Hoè có gốc quan trường, được huấn luyện theo đường lối chính thống để làm công chức, quan lại với chức vụ trước đó là Quản Đạo Đà Lạt, một chức vụ cũ của Ngô Đình Diệm, còn Phạm Quỳnh không có gốc quan trường mà xuất thân là một nhà báo, một học giả tiếng tăm, bất ngờ được chuyển sang làm Ngự Tiền Văn Phòng rồi Thượng Thư Bộ Học và Lại.  Tại sao lại cứ là Phạm Quỳnh mà không phải là Phạm Khắc Hoè?  Thứ hai, Phạm Khắc Hoè vốn cùng quê với Tôn Quang Phiệt và có liên lạc với Tôn Quang Phiệt từ trước nên đã chịu ảnh hưởng của Tôn Quang Phiệt, do đó đã trở thành nằm vùng cho Tôn Quang Phiệt.  Nhất cử nhất động của vua Bảo Đại cũng như những gì xảy ra ở trong Đại Nội đều được Phạm Khắc Hoè kể cho Tôn Quang Phiệt nghe và hỏi ý Tôn Quang Phiệt hết.  Sự kiện Phạm Quỳnh bị loại bỏ do đó phần nào có thể là do chủ trương và vận động của những người Cộng Sản hay thiên Cộng ở Huế lúc bấy giờ hay xa hơn nữa, y hệt như trường hợp của Trường Thanh Niên Tiền Tuyến do Phan Anh thành lập.  Phạm Khắc Hoè chỉ là một nhân vật bị Cộng Sản lợi dụng qua Tôn Quang Phiệt mà thôi.[12]  Nhưng dù đúng dù sai, hành động gièm pha, ngăn cản Vua Bảo Đại chính thức chỉ định Phạm Quỳnh vào chức vụ mới bằng một đạo Dụ và thay bằng một tờ Chỉ, rồi sau đó vận động với các nhân vật tai mắt ở Huế lúc đó, tiếp tục lung lạc nhà vua dẫn đến việc sáu vị thượng thư từ chức và tình trạng vô chính phủ đã xảy ra sau đó, khiến cho lịch sử Việt Nam diễn tiến theo một chiều hướng khác.  Đây là khúc quanh thứ nhất trong thời gian ngắn ngủi chưa tới 4 tháng của năm 1945.  Nếu không có sự thay đổi do Phạm Khắc Hoè chủ động gây ra này, guồng máy hành chánh của Chính Phủ Nam Triều từ trung ương đến địa phương vẫn tiếp tục hoạt động bình thường, không bị xáo trộn và người dân không bị hoang mang trong thời gian chuyển tiếp như Hoàng Xuân Hãn đã kể, chưa nói tới sự kiện Phạm Quỳnh đã bộc lộ thái độ lạc quan về “tương lai tốt đẹp” của Tổ Quốc và ‘tiền đồ vẻ vang”của những người trí thức Âu Á kiêm thông, vì đây là dịp nhà học giả này thực hiện những gì từ lâu ông vẫn ôm ấp và mong đợi, xuyên qua những bài viết của ông, không phải cho riêng cá nhân ông mà cho cả đất nước và dân tộc.  Nên nhớ Phạm Quỳnh lúc đó là Thượng Thư Bộ Lại là bộ đứng đầu lục bộ lo việc quản lý các quan văn ở trong nước và trước đó là Ngự Tiền Tổng Lý của Vua Bảo Đại nên ông nắm vững sinh hoạt hành chánh và nhân sự trong sinh hoạt này.  Với Phạm Quỳnh trong vai trò liên lạc với người Nhật, việc chuyển giao nền hành chánh từ người Nhật sang người Việt sẽ chấm dứt sớm hơn và triều đình Huế có cơ hội nắm vững quyền hành hơn trước khi tình thế thay đổi, chưa kể tới việc thay thế các quan lại tham nhũng hay bất lực.[13] Đây là một điều đáng tiếc cho Vua Bảo Đại và Đế Quốc Việt Nam nói riêng và cho dân tộc Việt nam nói chung.  Cuối cùng, để chính thức giải thích thái độ của mình đối với Phạm Quỳnh, Phạm Khắc Hoè viết:
          “Thực ra, tôi không có oán thù cá nhân gì với Phạm Quỳnh và tôi nghĩ hắn có tội, thì sẽ bị nhân dân trừng trị. Khi nghĩ như vậy, tôi không ngờ rằng chỉ khoảng một tháng sau, Phạm Quỳnh đã bị đền tội trước nhân dân.”[14]

            Qua đoạn văn này, Phạm Khắc Hoè không nói rõ Phạm Quỳnh đã bị đền tội như thế nào, bị bắt không thôi hay bị bắt rồi bị thủ tiêu và ông đã biết những gì về chuyện này.

Hoạt động cuối cùng của Phạm Quỳnh

Buổi họp chiều ngày 15 tháng 8, 1945 tại văn phòng Vua Bảo Đại với Nhà Vua, Phó Tổng Trưởng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao Trần Văn Chương và Đại Nội Đại Thần Nguyễn Duy Quang.

           Đây có thể là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Phạm Quỳnh gặp lại nhà vua và các giới chức khác trong Đại Nội từ sau khi ông từ chức cùng với Nội Các của ông, từ ngày 19 tháng 3 và người duy nhất nói tới buổi họp này là Phạm Khắc Hoè. Buổi họp diễn ra sau khi Phạm Khắc Hoè vào gặp Vua Bảo Đại để báo cáo với nhà vua về “tin Nhật đã đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện” vào buổi chiều ngày  15 tháng 8 và kéo dài từ khoảng 3 giờ 30 đến hơn 5 giờ.  Lúc đầu chỉ có nhà vua, Trần Văn Chương và Nguyễn Duy Quang, sau đó Phạm Quỳnh mới tới do con trai ông là Phạm Bích đương thời làm việc trong Đại Nội dưới quyền của Nguyễn Duy Quang lấy xe của Đại Nội đón vào. Phạm Khắc Hoè không có mặt trong buổi họp này vì ông được nhà vua nhờ sang gặp Trần Trọng Kim để hỏi xem Trần Trọng Kim “có ý kiến chi trước tình hình mới không?” nên ta không biết nội dung là để bàn  những gì?  Phạm Khắc Hoè chỉ cho ta biết là trên đường từ dinh Tổng Trưởng Nội Các về“thì gặp trên cầu Tràng Tiền một chiếc xe ô-tô của Đại Nội trong đó có Phạm Quỳnh và con trai của ông ta là Phạm Bích làm việc ở Đại Nội dưới quyền trực tiếp của Nguyễn Duy Quang. Tôi liên tưởng ngay đến việc gặp Trần Văn Chương vào phòng Bảo Đại lúc tôi mới ra đi và đoán rằng, chắc trong khi tôi đi gặp Trần Trọng Kim thì ở Đại Nội bọn Trần Văn Chương, Nguyễn Duy Quang và Phạm Quỳnh đã họp với Bảo Đại bàn mưu tính kế trở về với chủ cũ là thực dân Pháp”.  Hôm sau, ngày 16 tháng 8, Phạm Khắc Hoè lại kiểm chứng về buổi họp này bằng cách hỏi người thị vệ thường trực phòng làm việc của nhà vua, thì được người này cho biết là sau khi Trần Văn Chương vào chầu thì Phạm Bích lấy xe đi đón Phạm Quỳnh đến và họp hơn 5 giờ mới chấm dứt.[15]

Trần Đình Nam đề nghị bắt Phạm Quỳnh vào những ngày chót nhưng không được Vua Bảo Đại chấp nhận

           Ý kiến bắt Phạm Quỳnh này được Trần Đình Nam, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong Chính Phủ Trần Trọng Kim, chia sẻ với Phạm Khắc Hoè, Nguyễn Hữu Thí và Trần Đình Nam vào một buổi tối, khoảng 20-7-1945, tại nhà Trần Đình Nam khi bốn người kiểm điểm “công tác của Nội Các Trần Trọng Kim trong hai tháng vừa qua”trong đó Trần Đình Nam yêu cầu mọi người phải“cảnh giác đối với cả bọn thân Pháp, cả bọn thân Nhật và nhất là vừa thân Nhật, vừa thân Pháp như loại Phạm Quỳnh thì lại càng vô cùng nguy hiểm…rồi hạ giọng nói nhỏ cho biết rằng Nam định bắt giam Phạm Quỳnh, vì bộ Nội vụ đã có nhiều chứng cớ về tội ác của Phạm Quỳnh trong thời thuộc Pháp, mà còn cả về âm mưu của nó hiện đang lo lót, chạy vạy với Nhật để hòng lên nắm quyền, làm tay sai cho Nhật.”[16]

           Ý kiến kiến kể trên đã được Trần Đình Nam chính thức thực hiện vào cuối tháng 7 bằng một “tờ phiến”[17] của Bộ Nội Vụ gửi lên Vua Bảo Đại tâu xin bắt giam Phạm Quỳnh.  Tờ  phiến này đã được Phạm Khắc Hoè trình lên nhà vua để xin phê chuẩn nhưng Bảo Đại không làm theo mà bảo “hãy đợi vài hôm”, rồi ba hôm sau ra lệnh “tạm xếp việc ấy.”[18] Phạm Quỳnh đã thoát nạn nhưng chỉ trên dưới một tháng sau ông đã bị Việt Minh bắt và những người dân sống bên bờ sông thuộc làng An Cựu gần Biệt Thự Hoa Đường không bao giờ còn thấy bóng dáng quen thuộc của “Cụ Phạm”[19] nữa.

Kết Luận

         Trong cuộc đời làm văn hóa cũng như trong cuộc đời làm chính  trị, Phạm Quỳnh có rất nhiều kẻ thù nhưng không kẻ thù nào nguy hiểm bằng những kẻ thù ông phải đương đầu trong thời gian từ sau Cuộc Đảo Chính 9 tháng 3 năm 1945 cho tới ngày ông và nội các từ chức, tức ngày 19 cùng tháng và luôn cả sau này nữa.  Lý do là vì đằng sau những kẻ thù này là Đảng Cộng Sản với mục tiêu tối hậu của họ là cướp chính quyền từ tay Hoàng Đế Bảo Đại.  Chưa hết, điều nguy hiểm hơn nữa nằm ở chỗ Phạm Khắc Hoè, cảm tình viên của họ, nằm vùng ngay trong Đại Nội và Tôn Quang Phiệt, đảng viên của họ, đã từ lâu hoạt động ngay giữa thành phố Huế.  Họ đã thành công.  Phạm Quỳnh không những chỉ bị giảm vai trò trong việc giao thiệp với Nhật mà còn hoàn toàn bị loại trừ.  Giữa lúc mọi người từ quan lại đến quần chúng nóng lòng mong đợi phản ứng của Vua Bảo Đại và của triều đình thì nhà vua đã phải đối phó với một  khủng hoảng nội các kéo dài cho mãi tới ngày 8 tháng 5 khi Chính Phủ Trần Trọng Kim chính thức nhận lãnh trách nhiệm mới chấm dứt. Thời gian chuyển tiếp để nhà vua ổn định được tình hình ở trung ương cũng như ở địa phương đã bị rút ngắn khiến công việc thu hồi chính quyền từ trong tay người Nhật, kiện toàn nền độc lập cũng như thu hồi Xứ Nam Kỳ và các nhượng địa khác bị chậm lại, đặc biệt công tác cứu đói gặp trở ngại rất nhiều.  Lịch sử Việt Nam cũng bị chuyển sang một hướng khác.

                                                                                       Phạm Cao Dương
          



[1]Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huếđến Chiến KhuViệt Bắc, Hồi Ký(in lần thứ ba, có sửa chữa và bổ sung).  Huế:  Nhà Xuất Bản Thuận Hoá, 1987, tr. 16-17. Đặng Văn Nhâm, “Nhân Ngày Giỗ Thứ 54 Cố Học Giả Phạm Quỳnh, Tìm Hiểu Cái Chết Oan Khiên, Bi  Thảm Của Một Danh Tài Lỗi Lạc”, trong Giải Oan Lập Một Đàn Tràng. Silver Spring, MD: Ủy Ban Phục Hồi Danh Dự Phạm Quỳnh, 2001, tr. 254-255.
[2] S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris: Plon,  1980, tr. 105;  Bảo Đại,  Con Rồng Việt Nam, Hồi Ký Chánh Trị 1913-1987, Nguyễn Phước Tộc Xuất Bản.  Los Alamitos, CA: Nhà Sách Xuân Thuphát hành, 1990, tr. 163.
[3]Nên đểý là cho tới thời điểm này Việt Nam bị Pháp bảo hộ nên quyền ngoại giao do người Pháp nắm giừ.  Vì vậy trong tổ chức triều đình không có cơ quan nào lo công tác này.  Phạm Quỳnh được BảơĐại muốn bổ nhiệm bằng một đạo dụ là vì thế.
[4] Thụy Khuê, Nói Chuyện với Hoàng Xuân Hãn…, đã dẫn, tr. 128.
[5] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc, tr. 18-19
[6]Thụy Khuê,  Nói Chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp. Westminster, CA:  Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2002, tr. 134-135.
[7] -nt-, tr. 20 và 24.
[8]  Dụ này mang tên là Dụ Số 1, được ban hành ngày 17 tháng 3 năm 1945 nguyên văn như sau: Dương Lịch ngày 17 tháng 3 năm 1945 Nước Nhật muốn hoàn toàn thực hiện chương trình sây nền thịnh vượng chung ỏ Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam ta, và Trẫm tuyên bố Việt Nam độc lập rồi.
Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử và thần dân, nên tự cầm lấy quyền để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng dụ rằng
1)  Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu “DÂN VI QUÍ’
2)  Trong chính giới sẽ chiêu tập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể hợp tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á.
3) Trẫm sẽ tài định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân.

Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phượng trong bài “Một Đạo Dụ, Một Chế Độ” đăng trên Tri Tân Tạp Chí ngày 20 tháng 4 năm 1945, trên trang đầu, đã viết như sau:

“Ba điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ này, thật là trên thuận lòng giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở sự thi hành triệt để khác nào như đói mong ăn và khát mong uống vậy.

“Nếu một khi nhà nước dùng được ngưòi tài, đức vẹn hai ra gánh vác, đảm đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách thân dân, thể tất đến dân nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục hưng.

“Được như vậy, đạo dụ ngày 17 tháng ba đáng ghi vào trang đầu lịch sử của nước Việt-Nam độc lập.”

                Còn Luật Sư Bùi Tường Chiểu, trong bài “Đạo Dụ Số 1 Của Đức bảo Đại Hoàng Đế” đăng trên Thanh Nghị, số 107, “Số Đặc-San Chính Trị”, ra ngày 5 tháng Năm 1945, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của đạo dụ này. Ngay những dòng mở đầu ông viết:

                “Đạo dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta sau này có một tính cách quan trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này đã nêu lên một cách tóm tắt những quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết chính thể nước Việt-Nam sau này.” Rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân Vi Quý, ông phân tích:
                “Nay đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi quí có nghĩa là đức Bảo-Đại đã hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các nước văn minh đã cho là không hợp thời.  Đã lấy dân làm trọng. đã lấy quyền lợi dân để trên tất cả thì vua tất chỉ là một cơ quan tối cao trong nước điều khiển những cơ quan chính trị khác để phụng vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với nguyện vọng của cả quốc dân mà thi hành.  Như thế là trong nền chính trị đức Bảo-Đại Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân ta đi vào một con đường mới.”

Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới hiến pháp. Theo ông:
               
“Xong chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của bản Dụ mà nói rằng đức Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong câu cơ quan ấy sẽ có một cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân minh các cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo hiến-luật để ấn định rõ ràng những quyền hành của các cơ quan chính trị”.



[9]Phạm Khắc Hoè, đã dẫn, tr.25.
[10]Le Dragon d’Annam, tr. 105; Con Rồng Việt Nam, tr. 164.
[11] Phạm Khắc Hoè, đã dẫn, tr. 20-21.
[12] Tôn Quang Phiệt (1900-1973), học Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương, năm thứ hai, theo Tân Việt, bị đuổi, sang Trung Quốc cùng với Trần Phú , Vương Thúc Oánh…, bị Pháp bắt giam ở Hà Nội, sau được thả, trở thành đảng viên Cộng Sản và dạy ở trường Thăng Long ở Hà Nội, rồi Thuận Hóa ở Huế. Chính trong thời gian này Phạm Khắc Hoè đã được móc nối để trở thành nằm vùng trong Đại Nội. Nguyễn Quyết Thắng và Nguyễn Bá Thế. Từ Điển Nhân vật Lịch Sử Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hóa, 1999.
[13]Về vai trò của bộ lại và các bộ trong triều đình Nhà Nguyễn, xin xem Võ Hương An, Từ Điển Nhà Nguyễn. Irvine, CA: Nam Việt Publisher, 2012, tr. 60.
Về sự quan trọng và nhu cầu cấp bách của công tác Việt hóa guồng máy hành chánh ờ thời nàỳ, xin xem Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên.  Saigon: Nam Chi Tùng Thư xuấtn, Không rõ năm,  Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 34- 37.
[14] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế…, tr. 47.
[15]   -nt-, tr. 59-61.
[16]   -nt- , tr. 45.
[17]  Phiến là báo cáo của của Nội Các hay các bộ gửi lên nhà vua.
[18]  Phạm Khắc Hoè, tr. 46.
[19] Về danh xưng “Cụ Phạm”, xin xem: Nguyễn Phước  Bửu Tập, “Chiến Sĩ Ái Quốc Phạm Quỳnh”, trong Giải Oan Lập Một Đàn Tràng, đã dẫn, tr. 223.

BÁN ĐẤT BÁN NƯỚC BÁN CẢ ĐƯỜNG ĐI


Đi trên những bãi biển đẹp mênh mông của nước Mỹ tôi từng ngậm ngùi nghĩ đến nhiều bờ biển rất đẹp của Việt Nam đã bị kẻ cầm quyền đem bán, đến nỗi không nói đến việc tìm ra đường lội xuống nước để bơi là bất khả thi, muốn đi dạo chơi trên cát cho thư thái chốc lát cũng không được nữa. Bây giờ, đám chức sắc đã xướng lên việc bán đường đi. Nghĩa là các vị ấy đã túng quẫn lắm rồi đấy, bao nhiêu thứ bán được trước đây, con cái, phe nhóm họ đã ăn tiêu bằng sạch. Chao ôi, nghĩ đến mà thấy cảm thương!
Lại nhớ chí sĩ Phan Bội Châu, ông có viết trong cuốn Việt Nam vong quốc sử chuyện thực dân Pháp lừa dân chúng ở một vùng quê nọ bán trời cho chúng. Bán xong thì ngồi trong nhà cũng là ngồi vào trời của Đại Pháp, đi ra sân cũng là đi trong trời của Đại Pháp, cùng cực đến nỗi lại phải cùng nhau vét sạch sành sanh của cải để đi chuộc trời về. Với tình thế này, dám chắc người dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng sắp đứng trước thảm họa bị bán trời đến nơi, bởi các ông ấy đã như những con nghiện hêroin thời kỳ cuối, có gì mà không bán chứ.
Các ông các bà Dương Nội và tất cả bà con những vùng miền bị cướp đất trắng tay trong nước ta ơi! Xin hãy tính trước sớm đi, mất đất thì vẫn kéo nhau đi ăn xin được, còn mất đường thì đội quân bị gậy biết đặt chân vào đâu để hành nghiệp? Chắc phải xắn cao quần lội xuống các bờ mương mà đi rồi. Nhưng đến khi mất trời thì nguy quá, chắc phải tìm sông lạch mà lặn mà vùi, chỉ để hở hai con mắt là còn yên thôi.
Âu cũng là cái số trời đã định từ khi ông lạc Long Quân chia tay với bà Âu Cơ. Đang yên lành trên mảnh đất trung du của mình, bỗng hứng lên đem 50 con đi tuột xuống nước mà ở. Kể ra, Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát huy truyền thống lịch sử 4000 năm đến thế là tuyệt đỉnh. Cực lực hoan hô! - Nguyễn Huệ Chi

Phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập cần sự hợp tác đầu tư với nước ngoài là đương nhiên. Hơn thế nữa, cần phải sử dụng công nghệ, học hỏi kỹ năng quản lý, và tận dụng vốn của nước ngoài để thu được lợi ích nhiều nhất, nhưng phía mình lại bị tổn thất ít nhất. Đó là bài toán tối ưu cửa miệng. Ai cũng nói được nhưng không phải ai cũng làm được.

Nhìn lại thực tế những gì mà chúng ta đã làm từ khi bắt đầu chính sách mở cửa trong suốt hai mươi năm qua, thì rút ra được một số kết luận cay đắng sau đây.

1. Chúng ta không thu được gì nhiều và không học được gì đáng kể ngoài việc đã bán đi tất cả những gì có thể bán

Bán đất

Những vùng đất đai có phong cảnh đẹp hay đắc địa đều được bán cho người nước ngoài đầu tư, thời hạn thông thường là năm mươi năm. Nếu họ mang tiền đến phát triển sản xuất thì còn khả dĩ, nhưng phần lớn đó là các dự án dịch vụ, địa ốc. Nghĩa là họ lấy đất xây nhà để bán cho chính người Việt Nam, và tổ chức các dịch vụ để thu tiền của chính người Việt Nam. Tiếc thay, các dự án bán đất kiểu này, có thể mang lại sự phát triển bề mặt, nhưng không mang lại giàu có bền vững đích thực làm cho đất nước hùng cường.

Lấy một thí dụ điển hình như thành phố Đà Nẵng. Không phủ nhận sự thay đổi khang trang của thành phố và đời sống người dân phần nào cải thiện trong thời gian đổi mới. Nhưng sau hai mươi năm mở cửa hội nhập, nền công nghiệp Đà Nẵng có được những gì đáng giá? Từ thí dụ của Đà Nẵng để mà suy nghĩ và không thể không xót xa về sự phát triển của đất nước.

Bán tài nguyên

Không cần phải liệt kê cụ thể. Không có loại khoáng sản nào mà chúng ta không nhanh chóng đem bán. Thậm chí đến khoáng sản khai thác lỗ và mang lại nhiều hậu quả tai hại như bô xít Tây Nguyên mà cũng vội vã đem bán tất.

Bán nước

Không chỉ bán khoáng sản, không chỉ bán rừng, mà chúng ta bán cả nước sông hồ và biển. Nhiều hồ đều bị bán quyền sử dụng khai thác trong nhiều năm. Ở Vũng Áng chúng ta bán đi cả hàng ngàn héc ta biển. Đến Vịnh Hạ Long cũng có người muốn bán quyền sử dụng khai thác. Bán đất, bán rừng, bán tài nguyên khoáng sản và bán cả nước.

2. Chúng ta đã bán một cách vội vã lấy được

Nếu bán có chọn lọc cân nhắc thì còn chấp nhận được, nhưng dưới bình phong đầu tư phát triển, chúng ta đã bán tràn lan khắp mọi nơi có thể. Nguyên nhân là nhiệm kỳ lãnh đạo chỉ có hạn, nên trong nhiệm kỳ phải tìm mọi cách để bán bằng được các dự án đất đai và tài nguyên. Hiện tượng này phổ cập ở tất cả các tỉnh thành, từ trung ương cho đến tỉnh huyện xã.

Chẳng hạn, mỏ sắt Thạch Khê Hà Tĩnh chưa khai thác bây giờ thì đời cháu chắt hay nhiều trăm năm sau sẽ khai thác cũng chưa nuộn. Vội vã chi mà phải hấp tấp bán cho nhà đầu tư Đài Loan Trung Quốc với những ưu đãi đặc biệt và ẩn chứa những hậu quả an ninh khôn lường? Tại sao người Đức người Pháp không đầu tư mà lại là người Trung Quốc?

Lãnh đạo Hà Tĩnh và Chính phủ Việt Nam có ý thức rằng mình đã vội vã bán rẻ mạt tài nguyên mà cha ông để lại từ ngàn đời? Người Đức người Nhật có làm giàu bằng cách bán tháo tài nguyên của tổ tiên để lại hay không? Lãnh đạo Việt Nam có biết không khi chính người Trung Quốc đang đi mua tài nguyên các nước khác thì họ lại đang chắt chiu để dành nguồn tài nguyên trong nước?

3. Chúng ta đã bán dài lâu đến hết cả đời cháu chắt 

Vũng Áng đã được cho thuê 70 năm. Nghĩa là nếu bố và mẹ lúc 61 tuổi nghỉ hưu đã cho thuê đất 70 năm, thì con 41 tuổi, cháu 21 tuổi và chắt 1 tuổi, đợi đến 70 năm sau đều không được quyền sử dụng đất. Lúc đất được trả về thì chắt đã 71 tuổi, và người chít đời thứ 5 cũng đã 51 tuổi, mới được nhận lại quyền sở hữu đất!

Vậy mà có người còn dự định bán đất 99 năm, và thậm chí là 120 năm.

Nếu cha ông đều bán đất kiểu đó thì thế hệ bây giờ ở đâu?

4. Không chỉ bán đất bán nước chúng ta đang bán cả đường đi

Ai cho phép Bộ giao thông vận tải và VEC bán đường?

Những ngày gần đây báo chí đồng loạt đưa tin rằng Tổng công ty phát triển đường cao tốc Việt Nam đang chuẩn bị bán một số tuyến đường cao tốc. Thoạt nghe đã rùng mình.

Khi bán đi những khu đất, những cánh rừng, người dân buộc phải di cư sang những nơi khác, dẫu là hẻo lánh cằn cỗi, nhưng vẫn còn có chỗ để ở và mưu sinh. 

Khi bán đi hồ nước sông ngòi và cả từng vùng biển, người dân phải dạt sang vùng nước khác, dẫu sóng gió nguy hiểm, nhưng vẫn còn có chỗ để mò cua bắt cá mà tồn tại. 

Nhưng nay lại bán đi cả đường sá, quyền đi lại của người dân không còn nữa. Không thể ngồi ở nhà, mà muốn đi ra thì phải trả tiền theo giá tùy tiện. Ngày xưa đường nhỏ gồ ghề, chịu khó còn đi được. Nay đường to rộng nhưng không có tiền đành phải bó chân.

Nói một cách cụ thể hơn. Ở thôn có con đường làng dân vẫn đi lại. Nay bỗng chốc trưởng thôn bán cho người khác xây to hơn. Ai muốn đi phải trả phí theo giá của chủ mới. Nếu không phải lội xuống ruộng vượt rào hay tìm đường mà đi.

Bởi vậy, người dân có quyền thét to lên rằng: 
Hãy trả đường cho dân đi, nhỏ hay xấu cũng là đường của dân, tại sao lại lấy mất đường của dân rồi bắt dân muốn đi thì phải trả tiền theo giá tùy ý của các ông? 

Trong số tiền mà các ông xây dựng đường có bao nhiêu tiền thuế dân đóng? 

Trong số tiền mà các ông xây dựng đường dân sẽ phải gánh chịu bao nhiêu nợ? 

Ai cho các ông quyền lấy đất của dân làm đường rồi lại bán cho người khác? 

Có ai trong Bộ Giao thông Vận tải đặt ra những câu hỏi tương tự? 

Xây dựng đường cao tốc hình thức BOT ở đâu ?

Hệ thông giao thông là huyết mạch của quốc gia. Nó không chỉ là huyết mạch về kinh tế mà còn là huyết mạch an ninh quốc gia. Bởi vậy quốc gia phải nắm quyền kiểm soát hệ thống giao thông chứ không thể là người nước ngoài.

Nếu VEC bán đường cao tốc Lào Cai – Hà Nội cho người nước ngoài, thí dụ là Trung Quốc, thử xem điều gì sẽ xẩy ra? Trong vô vàn khả năng có thể, chỉ xin nêu ra vài điều:
- Lệ phí có thể lên cao ngất phục vụ cho lợi ích của chủ mới, bất chấp thiệt thòi của dân địa phương.

- Dùng lệ phí để cản trở, hoặc điều tiết luồng giao thông, chủng loại giao thông, thời gian giao thông theo ý định của chủ đường. Chẳng hạn như: xe Trung Quốc có thể có lệ phí khác với xe Việt Nam, xe quân sự khác với xe dân sự, xe chở lương thực khác với xe chở khách, xe chạy đêm khác với xe chạy ngày…

- Khai thác đường tối đa, thu hồi vốn thật nhanh, bàn giao lại cho nước sở tại con đường nát rách không thể sử dụng.

- Nắm được số liệu, quy luật, và thực tế dòng vận tải giao thông của một vùng lãnh thổ nước khác.

- Nước sở tại mất quyền chủ động trong những trường hợp thiên tai, nhân đạo, chiến tranh…

Bởi vì thế, các quốc gia rất hạn chế trong việc cho người nước ngoài tham gia xây dựng giao thông dưới dạng BOT. Muốn cho các đối tác nước ngoài tham gia xây dựng giao thông dưới hình thức BOT, nước sở tại rất cân nhắc trên các phương diện sau:
- Chọn tuyến đường thúc đẩy phát triển được kinh tế cục bộ (chẳng hạn của một hòn đảo, một đặc khu, một phần thành phố…)

- Chọn tuyến đường ngắn đầu tư đắt, chủ yếu là rút ngắn thời gian đi lại, tăng lưu lượng giao thông đột biến, vì thế có thể xây dựng nhanh và thu hồi vốn theo đúng thời hạn.

- Tuyến đường thường chỉ có giá trị cục bộ và không là duy nhất.

- Tuyến đường ít phương hại đến an ninh quốc gia.

- Tuyến đường BOT phải được thông tin đầy đủ và rộng rãi cho các đối tác thừa năng lực, trong một thời gian đủ dài trước khi triển khai, để đối tác tìm hiểu nghiên cứu, cũng như để nước sở tại có nhiều đối tác tiềm năng cho việc chọn lựa.

VEC có bán đúng giá?

Phải thẳng thắn nêu ra những nhận xét sau khi giao cho VEC bán đường cao tốc: 
1. VEC không đủ tầm và năng lực để đánh giá lựa chọn đối tác.

2. VEC không có khả năng xác định đúng giá.

3. VEC không bán đúng giá vì lợi ích cục bộ.

Một thực tế đáng buồn cho Việt Nam, ở nhiều nơi trong các cơ quan nhà nước, là cấp trưởng phải quay lại hỏi cấp phó, cấp phó phải quay lại hỏi chuyên viên. 

Tờ giấy nhắc Thứ trưởng con số 34. 000 tỷ cho sách giáo khoa, cũng như 2 tỷ USD đầu tư sân bay Long Thành của ADPi “do nhầm lẫn đánh máy” là những dẫn chứng cay đắng, rằng người lãnh đạo chẳng nắm được bản chất vấn đề.

Bán quyền thu phí đường – rước người ngoài đến bóc lột

Khi không có tiền thì phải kêu gọi đầu tư dưới hình thức BOT. Điều lạ ở Việt Nam là xây dựng xong đường cao tốc lại bán cho người ngoài quản lý khai thác. Ở đây có hai điều có thể nói là “thông minh” khác người.

Một là, đã đầu tư xong chỉ quản lý thu phí, tại sao VEC lại phải bán quyền thu phí cả gói. Tiếng là lấy vốn để đầu tư nơi khác, nhưng kỳ thực còn một lý do nữa quan trọng hơn nhiều. Đó là khi bán trọn gói, có thể đút túi phần trăm một tổng tiền lớn một lần và mất hút. Còn chờ thu phí hàng năm mới lấy được một phần lời, thì đến bao giờ cho xong. Hơn nữa, nhiệm kỳ có hạn, các nhiệm kỳ sau là của người khác. Quả đúng là một quyết sách “thông minh” khác người.

Hai là, nhà đầu tư nước ngoài khi trả một gói để lấy quyền thu phí đường, họ không mang lại lợi ích gì cho kinh tế Việt Nam, vì chính họ không tham gia xây dựng đường như hình thức BOT. Chẳng qua họ trả trước tiền để thu lại gốc và lời theo quyền đặt phí của họ mà người dân Việt Nam là người cuối cùng phải gánh chịu. Đây cũng là một nước cờ khác người. Chỉ không thể gọi là thông minh được, vì thực chất là cõng rắn cắn gà nhà, là rước người về bóc lột dân mình.

Một điều cần lưu ý là nếu VEC là công ty tư nhân, VEC phải mua đất của dân để làm đường, VEC có vốn riêng thế chấp để vay tiền đầu tư, thì VEC muốn làm gì thì làm, VEC muốn bán cho ai với giá nào thì VEC bán.

Nhưng VEC là công ty nhà nước; VEC lấy đất của dân với giá đền bù rẻ mat; VEC lấy tài sản nhà nước thế chấp để vay tiền. Tất cả tài sản của VEC chính là của dân. Vì thế, cả VEC lẫn Bộ Giao thông vận tải không có quyền muốn bán đường cao tốc nào thì bán, muốn bán cho ai thì bán, và muốn bán với giá nào thì bán.
Có ai trong số lãnh đạo Bộ Giao thông vận tải ý thức được sự khác biệt mang tính nguyên tắc này không?

Từ những điều đã nêu trên, xin được gửi tới lãnh đạo Việt Nam hai kết luận sau đây.

1. Việt Nam không cần sự phát triển vội vã bằng cách bán hết mọi thứ

Chúng ta muốn trở thành con rồng. Chúng ta muốn có tốc độ phát triển GDP nhanh nhất châu Á. Hậu quả là chúng ta bán vội vã, bán tống tháo những gì có thể bán được để mua lấy một sự phát triển bề ngoài giả tạo. Người xưa đã dạy, muốn tiến nhanh thì phải đi chậm. Xin hãy nhớ kỹ điều này.

2. Chính sách “Sở hữu đất đai toàn dân” là căn nguyên dẫn đến sự tàn phá nền kinh tế quốc dân và làm phương hại đến an ninh quốc gia.

Ai cũng thấy tai vạ của chính sách sở hữu toàn dân. Bán đất bán rừng bán tài nguyên bán đường đi bán nước, bán nhiều năm cho đến tận đời cháu chắt chít – tất cả là do sở hữu đất đai toàn dân mà ra cả. 

Rồi sẽ vội vã cổ phần hóa. Tài sản toàn dân sẽ bị các nhóm thâu tóm với giá bất công rẻ mạt. Một thể chế bất công mới đã và đang được hình thành.

Chừng nào chưa xóa bỏ sở hữu toàn dân, nhất là sở hữu đất đai, thì chừng đó đất nước không chỉ bị tàn phá khánh kiệt, mà người dân còn phải quay về thời bị làm thuê bóc lột, chỉ là ở mức độ khác và dưới tấm áo choàng khác mà thôi.

Xin hãy vì quyền lợi quốc gia dân tộc mà dũng cảm tiến hành những cải cách căn bản, trong đó có quyền tư hữu đất đai.

V.T.D.
Nguồn: Bauxite Việt Nam