Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2015

VÌ ĐÂU MÀ “HUNG HÃN VÀ HÈN NHÁT” HẢ ANH TUẤN KHANH?

Huỳnh ngọc Chênh
27-02-2015
Người ta phê nhiều về cụ Khiêu là không phải để phê cụ Khiêu vì nụ hôn không đúng cách, vì câu đối bậy bạ chôm của Lý Bạch làm người ta liên tưởng Hoa hậu Việt Nam như một Dương Quý Phi nô lệ tình dục của bọn vua quan thời phong kiến, mà người ta muốn nói đến chính sách đãi ngộ nhân tài rất sai trái hiện nay.
Người ta chê trách sự xa hoa kệch cỡm của ông cựu tổng bí thư là nhằm nói đến sự phá sản của chủ trương chống tham nhũng, sự khủng hoảng trong chính sách tuyển chọn nhân sự cho bộ máy cầm quyền lãnh đạo đất nước.
Tác giả Tuấn Khanh có một bài viết nói về sư Hung hãn và Hèn nhát nêu ra hiện tượng đang rất phổ biến ở xã hội Việt Nam hiện nay là mọi người rất hung hăng cuồng nhiệt vào những chuyện tầm phào nhưng lại tỏ ra hèn nhát tránh né những chuyện quốc gia đại sự.
Ngoài vài chuyện cụ thể như chuyện về ông gs Khiêu như tôi nêu ở trên là chưa đúng lắm, còn hầu hết những dẫn chứng khác, Tuấn Khanh đã mô tả khá chính xác về hiện tượng rất đau lòng đang tràn ngập trong xã hội chúng ta ngày nay.
“Người Việt hôm nay dường như rất hung hãn trong những chuyện tự do ngôn luận dân chủ tầm ruồng, bỏ quên hay tránh né về những điều nguy ngập khác, rằng Trung Cộng đã dựng xong sân bay, pháo đài… trên biển, có thể đánh chiếm Sài Gòn trong 24 giờ. Thế nhưng tướng quân đội Việt Nam thì tâm tư tha thiết kêu gọi dân chúng không nên ghét bỏ kẻ đang lăm lăm cướp – giết tổ quốc mình. 
Người Việt hôm nay dường như rất hung hãn trong cách dùng mọi học thuật để chứng minh đối phương đồi bại hay tiến bộ trong những điều chỉ đáng liếc qua và lãng quên, nhưng giỏi cười qua loa với chuyện các dự án bauxite thua lỗ trầm trọng mà vẫn phải tiếp tục, ngày đêm giao nộp sang biên giới,  giỏi giả lơ khi giá xăng được tuyên hô sẽ lên giá không cần lý do, khi dầu thế giới chỉ có giá 50 USD/ thùng – mức giá thấp nhất từ trước đến nay.
Người Việt hôm nay dường như đủ hung hãn chém con heo ra nhiều mảnh, reo hò và tắm máu như thời các bộ lạc dã man, nhưng hèn nhát câm miệng không dám bàn về tài sản các quan chức tham nhũng đang đục ruỗng tổ quốc mình. Người ta im lặng hèn nhát khi nghe những kẻ như Trần Văn Truyền chỉ bị kỷ luật giơ cao đánh khẽ, còn những người tố cáo cái ác như ông  Kim Quốc Hoa, báo Người Cao Tuổi, đang lao đao giữa trùng vây vô lại.
Cái cần phải hung hãn, thì người ta đang chọn cách hèn nhát. Cái cần phải hèn đi thì người ta ồ ạt xông lên: hung hãn giành giật thức ăn buffet, hung hãn trói đánh kẻ trộm chó, hung hãn phán xét, nguyền rủa chung quanh như bản thân mình là hiện thân của ngọn cờ đầu nhân nghĩa.”  TUẤN KHANH- Hung Hãn và Hèn Nhát.
Tôi đã sống qua hai chế độ nên thật lòng nói rằng, xã hội miền Nam trước 75, cái hiện tượng hung hãn và hèn nhát không đúng chỗ ấy dường như rất khó tìm thấy. Nói rằng không có là không đúng, nhưng phổ biến đậm đặc như hiện nay là hoàn toàn không.
Thời đó vẫn có thanh niên chạy theo mốt, chạy theo thời thượng, chạy theo các trào lưu ăn chơi, theo các thần tượng showbiz, theo mê tín dị đoan, nhưng cũng chỉ chạy theo cho vui lúc rảnh rỗi chứ không cuồng nhiêt đến điên khùng như hiện nay. Và hiện tượng đó cũng là phần lặng, phần thứ yếu. Còn phần trội phần chủ yếu thì: Llúc nào cũng có một số đông áp đảo thanh niên chạy theo các trào lưu học thuật, trào lưu triết học để công khai tranh luận nhau đến tóe lửa, lúc nào cũng có số đông áp đảo thanh niên có chính kiến khác nhau, theo Mỹ hay chống Mỹ, theo Việt Cộng hay chống Việt Cộng, theo Quốc gia hay chống Quốc gia, dân chủ hay độc tài,  không chỉ tranh luận trên diễn đàn mà còn cầm súng bắn vào nhau đến chết để dành phần thắng về mình.
Hồi đó thanh niên không hung hăng với nhau vì chuyện tôi mê Hùng Cường anh ghét Hùng Cường, không hung hăng với nhau vì tranh giành lộc cúng mà chỉ hung hăng với nhau vì lý tưởng chính trị và hung hăng với kẻ thù ngoại bang vì sự sống còn của đất nước.
Bây giờ thì khác hẳn, xã hội đổi thay thuộc lùi một cách kinh sợ. Những gì Tuấn Khanh nêu lên vẫn chưa mô tả hết được toàn cảnh của sự xuống cấp, nhưng đó là những nét chấm phá ấn tượng. Chỗ cần hung hãn thì hèn nhát, ngoảnh mặt, ngó lơ và ngược lại.
Tại sao?
Thanh niên và toàn thể công dân được tự do làm và nêu ý kiến về mọi thứ nhưng trừ lãnh vực chính trị. Khi nói đến chính trị thì phải nói trong khuôn khổ của đảng theo sự bày vẽ hướng dẫn của đoàn TNCS HCM nếu là thanh niên, theo Liên Đoàn Lao động nếu là công nhân, theo Hội Nông Dân nếu là nông dân, theo hội Nhà Văn nếu là văn nghệ sĩ…. . Ngay trong việc bày tỏ thái độ với bọn Tàu cộng xâm lược thì người dân cũng không được quyền bày tỏ theo ý và theo cách của mình. Những người yêu nước chống Tàu cộng xâm lược theo cách của mình đã bị đàn áp, trù dập, bắt bớ khắp nơi đã làm chùn đi nhuệ khí yêu nước của bao nhiêu người, là nguyên nhân đưa đến sự hèn nhát hiện nay trước đại sự.
Các học giả đương đại làm sao được phép nêu lên các loại học thuật khác với học thuật đã được định hướng theo chủ nghĩa xã hội. Sinh viên ngày nay làm sao được phép công khai nêu ý kiến về các trào lưu triết học ngoài triết học Mác Lê vô bổ bị nhồi sọ hằng ngày. Làm sao được như Phạm Công Thiện 20 tuổi đã viết hằng chục cuốn sách triết học để đập đổ các tượng đài triết học đương thời như Nguyễn Văn Trung, Thích Nhất Hạnh… Thanh niên ngày nay làm sao được phép trào ra nhiệt tình hừng hực trong mình vào chuyện quốc gia đại sự, vào chuyện chống Tàu xâm lược, chống tham nhũng cường quyền, vào chuyện đấu tranh cho nhân quyền, đấu tranh cho lẽ phải…
Thế thì sức mạnh cuồn cuộn của tuổi trẻ phải hướng vào đâu để giải tỏa năng lượng, nếu như không hướng vào những chuyện vô bổ, bậy bạ mà nhà cầm quyền thả lơ không cấm đoán hoặc chưa nói là còn khuyến khích như làm fan cuồng bóng đá, fan cuồng giới showbiz, fan cuồng các lễ hội dân gian, mê tín dị đoan, tôn phục vật chất, giành giật miếng ăn, gấu ó bạo lực lẫn nhau vì những chuyện lãng nhách…
Người ta hướng sự hung hãn vào đâu và hèn nhát vào đâu thì có nguyên nhân của nó. Cũng giống y như tác giả Tuấn Khanh, dù anh là một nhạc sĩ có tâm có tài, một blogger có trách nhiệm và một công dân rất dũng cảm, nhưng khi viết bài “Hung hãn và hèn nhát” đã phải suy tính để ngòi bút mình hướng mạnh vào chỗ nào và tránh né chỗ nào. Chỗ xoáy mạnh vào là chỗ ít nguy hiểm tức là chỗ chỉ nêu ra hiện tượng và chỗ tránh né là chỗ nhiều nguy hiểm tức là chỗ phân tích nguyên nhân.
Cũng giống như việc phê nụ hôn và câu đối bậy bạ của giáo sư anh hùng Vũ Khiêu thì ít nguy hiểm hơn là nói về sai trật của chính sách đãi ngộ và xây dựng nhân tài để sản sinh ra một trí thức như Vũ Khiêu, như Hòang Quang Thuận…
Cũng giống như việc chê trách sư xa hoa kệch cỡm của nhà riêng ông cựu tổng bí thư thì dễ hơn là phê phán sự sai trật của chính sách nhân sự để đưa một người như ông ấy lên đứng đầu và lãnh đạo đất nước trong bao nhiêu năm.
Ngay khi viết, chúng ta cũng cố tránh né chỗ nhiều hiểm nguy phải không anh Tuấn Khanh?
Tôi hỏi anh là tôi đang chất vấn chính lương tâm tôi. Chúng ta đã sống đến 40 năm trong chế độ nầy nên chúng ta cũng khó mà khác được anh nhỉ?
—–

Bàn tiếp về “Hung hãn” và “Hèn nhát”- 198 phương pháp của Gene Sharp

Cục Đất
28-02-2015
Hai bài viết về “Hung hãn” và “Hèn nhát” của anh Tuấn Khanh và anh Huỳnh Ngọc Chênh có nhiều điều thú vị. Xin góp tiếp câu chuyện.
Lâu nay, đã lan truyền thuật ngữ: “Hèn với giặc, ác với dân” để chỉ thái độ của chính quyền hiện tại.
Ý nghĩa của nó là “Hèn nhát” trước kẻ mạnh là bành trướng Trung Quốc, “Hung hãn” đối với kẻ yếu là nhân dân. Có quá nhiều dẫn chứng về điều này, đặc biệt là sự hung hãn với người biểu tình, dân oan, người bất đồng chính kiến với mọi hình thức: đánh lén, giam lõng, nói xấu, ném đồ hôi thối, cấm xuất cảnh, bắt giam… không kể xiết. Ở vế kia, hèn nhát đã nâng lên cấp độ quốc gia với phát biểu nghe ớn lạnh của ông bộ trưởng quốc phòng: “ghét Trung quốc là nguy hiểm…”
Đáng chú ý là: Ở cấp độ dân chúng, sự việc cũng diễn ra tương tự:
“Hèn nhát” trước kẻ mạnh là chính quyền, “Hung hãn” đối với kẻ yếu như: người cô thế, trẻ con, chó, lợn…
Dẫn chứng có khá nhiều qua hai bài viết của anh Tuấn Khanh và anh Huỳnh Ngọc Chênh.
Đâu là giải pháp
Đương nhiên, giải pháp đầu tiên là nâng cao nhận thức. May mắn là internet đã xóa đi mọi rào cản đối với truyền thông, vì thế việc làm của các trang mạng lâu như anhbasam, danlambaovn v.v… (rất nhiều, xin phép không nêu tên hết ở đây) đã thật sự góp phần nâng cao nhận thức của đông đảo người dân. Việc làm của họ là vô cùng cần thiết.
Nhận thức đến đâu thì đủ
Câu hỏi có vẻ lãng xẹt. Vì nhận thức không bao giờ có giới hạn cuối cùng.
Tuy nhiên, ở góc độ nào đó, cũng có thể định lượng.
Về số lượng, nếu đạt đến 15-25% dân số người lớn là được.
Về chất lượng, tức là mức độ nhận thức, xin nêu ra một ví dụ:
Bình thường, một người không dám nhảy từ tầng hai nhà xuống vì sợ gãy chân.
Tuy nhiên trong trường hợp cấp bách, như hỏa hoạn, không còn đường nào khác, người đó có thể quyết định nhảy xuống.
Hành động “nhảy xuống” đó phụ thuộc vào nhận thức về tính “cấp bách”, tính “sống còn” của nguy cơ đang xảy ra.
Chừng nào mà người dân nhận thấy sự mất dân chủ và mất chủ quyền là nguy cơ rất cấp bách với đất nước và bản thân, gia đình mình; chừng đó họ có thể hành động, vượt qua sợ hãi.
Vẫn sợ hãi, thì làm gì được
Câu hỏi này cũng rất phổ biến trên các diễn đàn.
Xin góp ý cho các tổ chức dân sự của chúng ta như sau.
Câu trả lời là : Gene Sharp đã bỏ công nghiên cứu và chỉ ra 198 phương pháp đấu tranh bất bạo động, có nhiều hình thức rất thú vị. Có cả một kho hàng ngàn ví dụ thực tế đã diễn ra ở các để có thể áp dụng. Kho tàng ở đây:
Rất mong ai đó, hoặc chính tôi, sẽ dịch nhiều trường hợp để phổ biến rộng rãi.
Hi vọng nội dung này sẽ giải tỏa được câu phát biểu: “biết thì biết nhưng chẳng làm gì được đâu”, của nhiều người, trong đó có dư luận viên.
Dưới đây là tên gọi của 198 phương pháp, có nhiều phương pháp có thể thực hiện mà không cần phải “sợ”:
=============
Những tuyên cáo chính thức
  1. Các diễn văn công cộng
  2. Thư chống đối hay ủng hộ
  3. Tuyên ngôn của các tổ chức hay cơ sở
  4. Tuyên cáo công cộng có chữ kí
  5. Tuyên ngôn buộc tội và bày tỏ dự tính
  6. Kiến nghị của nhóm hay của tập thể quần chúng
Quảng bá truyền thông
  1. Khẩu hiệu, biếm hoạ, và các kí hiệu biểu tượng
  2. Biểu ngữ, áp phích, và các hình thức thông tin được trưng bày
  3. Truyền đơn, sách mỏng, và sách
  4. Báo hằng ngày và báo định kì
  5. Ghi băng, đài, truyền hình, và viđêô
  6. Viết chữ kéo bay trên trời và viết chữ lên mặt đất
Trình diễn nhóm
  1. Các nhóm uỷ nhiệm
  2. Trao giải thưởng giễu
  3. Nhóm vận động hành lang
  4. Làm hàng rào cản
  5. Bầu cử giễu
Những hành vi công cộng biểu tượng
  1. Trưng bày những lá cờ và những màu sắc biểu tượng
  2. Đeo vật biểu tượng (nút, huy hiệu ủng hộ)
  3. Cầu nguyện và sùng bái
  4. Phân phát những vật biểu tượng
  5. Cởi bỏ áo quần để chống đối
  6. Phá huỷ tài sản của chính mình (nhà, tài liệu, chứng liệu khả năng và thành tích, vân vân)
  1. Ánh sáng biểu tượng (đuốc, đèn lồng, nến)
  2. Trưng bày ảnh chân dung
  3. Sơn vẽ để phản đối
  4. Bảng hiệu hay tên mới và/hay là tên mang tính biểu tượng
  5. Các âm thanh biểu tượng (“những ca khúc biểu tượng” cùng với huýt sáo, chuông, còi, vân vân)
  1. Đòi lại tài sản một cách biểu tượng (chiếm lại đất hay nhà)
  2. Những cử chỉ thô bỉ
Áp lực lên cá nhân
  1. “Bám sát” các giới chức (có thể cần liên tục theo dõi họ, hay là nhắc nhở họ, hoặc có thể giữ im lặng và tỏ sự kính trọng)
  1. Khiêu khích các giới chức (giễu hay là mạt sát)
  2. Kết thân (bắt người ta phải chịu ảnh hưởng mạnh trực tiếp để thuyết phục họ là chế độ mà họ phục vụ không công chính)
  1. Những đêm không ngủ
Kịch nghệ và âm nhạc
  1. Những hài kịch ngắn và các trò đùa tinh nghịch
  2. Trình diễn kịch và âm nhạc
  3. Ca hát
Diễn Hành
  1. Tuần hành
  2. Diễn hành
  3. Đám rước tôn giáo
  4. Hành hương
  5. Đoàn xe mô tô
Vinh Danh những Người Quá Cố
  1. Để tang chính trị
  2. Đám tang giả vờ
  3. Biến lễ an táng thành biểu tình
  4. Công khai biểu lộ sự tôn kính tại những nơi chôn cất
Tụ Họp Công Khai
  1. Tụ họp để chống đối hay để ủng hộ
  2. Mít tinh chống đối
  3. Mít tinh chống đối nguỵ trang
  4. Hội luận với vài ba thuyết trình viên thông suốt vấn đề
Rút Lui và Công Khai Từ Bỏ
  1. Bãi công đột nhiên
  2. Thinh lặng
  3. Khước từ các vinh danh
  4. Từ bỏ
Bất Hợp Tác Xã Hội
Khai Trừ
  1. Từ chối giao tiếp
  2. Từ chối giao tiếp có chọn lọc
  3. Khước từ giao hợp
  4. Dứt phép thông công
  5. Cấm tham dự thánh lễ và rước lễ
Bất Hợp Tác với những Sinh Hoạt Xã Hội, Phong Tục, và các Định Chế
  1. Ngưng các hoạt động thể thao và xã hội
  2. Tẩy chay những buổi giao tế xã hội
  3. Học sinh/sinh viên bãi khoá
  4. Bất tuân xã hội (tập quán hay là quy tắc xã hội)
  5. Rút lui khỏi những định chế xã hội
Rút Lui Khỏi Hệ Thống Xã Hội
  1. Không ra khỏi nhà
  2. Hoàn toàn bất hợp tác cá nhân
  3. Công nhân “trốn” việc
  4. Nơi an toàn
  5. Lẩn tránh tập thể
  6. Di cư để phản đối (hijrat)
Bất Hợp Tác Kinh Tế: Tẩy Chay Kinh Tế
Hành Động Bởi Giới Tiêu Thụ
  1. Người tiêu thụ tẩy chay
  2. Không tiêu thụ những hàng hoá đã bị tẩy chay
  3. Chính sách khắc khổ
  4. Từ chối trả tiền mướn đất/nhà
  5. Từ chối mướn nhà/đất
  6. Tẩy chay toàn quốc bởi giới tiêu thụ
  7. Tẩy chay quốc tế bởi giới tiêu thụ
Hành Động Bởi Công Nhân và các Nhà Sản Xuất
  1. Công nhân tẩy chay
  2. Tẩy chay bởi các nhà sản xuất
Hành Động Bởi Giới Trung Gian
  1. Tẩy chay bởi các nhà cung cấp hay các nhà quản lí
Hành Động Bởi Sở Hữu Chủ và Cấp Quản Trị
  1. Tẩy chay bởi các nhà buôn
  2. Từ chối cho mướn hoặc bán tài sản
  3. Đóng cửa
  4. Khước từ sự hỗ trợ về kĩ nghệ
  5. Thương gia “tổng đình công”
Hành Động Bởi Giới Nắm Giữ các Nguồn Tài Chánh
  1. Rút tiền ra khỏi ngân hàng
  2. Từ chối trả lệ phí dịch vụ, lệ phí thành viên, và lệ phí ấn định
  3. Từ chối trả nợ hay tiền lãi
  4. Cắt ngân khoản hay tín dụng
  5. Khước từ mang lại lợi tức
  6. Khước từ tiền của chính quyền
Hành Động Bởi Chính Phủ
  1. Cấm vận nội địa
  2. Vào sổ đen các nhà buôn đối tượng
  3. Cấm vận các nhà buôn quốc tế
  4. Cấm vận những người mua quốc tế
  5. Cấm vận mậu dịch quốc tế
Bất hợp tác kinh tế: Đình công
Những cuộc Đình Công Có Tính Biểu Tượng
  1. Đình công để phản đối
  2. Bãi công nhặm lẹ (đình công chớp nhoáng)
Những cuộc Đình Công Nông Nghiệp
  1. Nông dân đình công
  2. Nhân công nông trại đình công
Đình Công Bởi các Nhóm Đặc Biệt
  1. Khước từ lao động cưỡng bức
  2. Tù nhân đình công
  3. Thợ thủ công đình công
  4. Đình công của giới chuyên nghiệp
Những Cuộc Đình Công Kĩ Nghệ Thông Thường
  1. Đình công cơ sở
  2. Đình công kĩ nghệ
  3. Đình công thiện cảm
Những Cuộc Đình Công Có Giới Hạn
  1. Đình công riêng rẽ
  2. Đình công tiếp nối
  3. Lãn công
  4. Đình công bằng cách làm đúng theo luật
  5. Báo cáo “bệnh” (khai “bệnh”)
  6. Đình công bằng cách từ nhiệm
  7. Đình công có giới hạn
  8. Đình công chọn lọc
Những Cuộc Đình Công Liên Kĩ Nghệ
  1. Đình công trải rộng
  2. Tổng đình công
Hỗn Hợp các Loại Đình Công và Ngưng Sinh Hoạt Kinh Tế
  1. Hoàn toàn đóng cửa tiệm, văn phòng để phản kháng
  2. Ngưng hẳn mọi hoạt động kinh tế
Bất Hợp tác Chính Trị
Phủ Nhận Uy Quyền
  1. Giữ lại hay rút lui sự trung thành
  2. Khước từ ủng hộ công khai
  3. Tài liệu và diễn văn kêu gọi đối kháng
Công Dân Bất Hợp Tác với Chính Quyền
  1. Tẩy chay các cơ quan lập pháp
  2. Tẩy chay các cuộc bầu cử
  3. Tẩy chay làm việc cho chính phủ và các chức vụ chính phủ
  4. Tẩy chay các bộ, các nha sở, và các cơ quan khác của chính phủ
  5. Rút ra khỏi các cơ sở giáo dục của chính quyền
  6. Tẩy chay các tổ chức được chính quyền hỗ trợ
  7. Khước từ hỗ trợ nhân viên công lực
  8. Tháo gỡ bảng hiệu, dấu chỉ địa điểm
  9. Từ chối chấp nhận các giới chức được bổ nhiệm
  10. Từ chối giải thể các cơ chế hiện hành
Những Giải Pháp Khác của Công Dân Thay Thế cho sự Tuân Phục
  1. Tuân hành một cách miễn cưỡng và chậm chạp
  2. Bất tuân khi không bị giám sát trực tiếp
  3. Dân chúng bất tuân
  4. Bất tuân trá hình
  5. Từ chối tụ tập hay họp nhằm mục đích phân tán
  6. Biểu-tình-ngồi
  7. Bất hợp tác về việc tòng quân và trục xuất khỏi nước
  8. Lẩn trốn, trốn thoát, giấy tờ giả
  9. Bất tuân dân sự đối với những luật “phi pháp”
Hành Động bởi Nhân Viên Chính Quyền
  1. Từ chối có chọn lọc sự hỗ trợ bởi những trợ tá của chính quyền
  2. Chặn hệ thống chỉ huy và thông tin
  3. Trì hoãn và gây cản trở
  4. Toàn bộ hệ thống hành chánh bất hợp tác
  5. Ngành tư pháp bất hợp tác
  6. Cố tình vô hiệu năng và bất hợp tác có chọn lọc bởi nhân viên công lực
  1. Nổi loạn
Hành Động của Chính Quyền Quốc Nội
  1. Tránh né và trì hoãn bán pháp lí
  2. Bất hợp tác bởi những đơn vị thành phần của chính phủ
Hành Động của Chính Quyền Quốc Tế
  1. Những thay đổi đại diện ngoại giao và các đại biểu khác
  2. Trì hoãn và huỷ bỏ các diễn biến ngoại giao
  3. Hoãn lại việc thừa nhận ngoại giao
  4. Cắt đứt quan hệ ngoại giao
  5. Rút khỏi các tổ chức quốc tế
  6. Tù chối gia nhập vào các cơ quan quốc tế
  7. Loại ra khỏi các tổ chức quốc tế
Can Thiệp về Tâm Lí
  1. Dang mình dưới nắng mưa
  2. Nhịn đói
  3. a) Nhịn đói vì áp lực đạo đức
  4. b) Đình công tuyệt thực
  5. c) Nhịn đói để cải hoá [satyagrahic]
  6. Xử án ngược
  7. Quấy nhiễu bất bạo động
Can Thiệp bằng Thân Xác
  1. Ngồi bám trụ
  2. Đứng bám trụ
  3. Diễn hành bằng xe
  4. Lội nước/bùn để phản đối
  5. Đi vòng vòng
  6. Tập trung cầu nguyện
  7. Đột kích bất bạo động
  8. Đột kích bất bạo động bằng máy bay
  9. Xâm lấn bất bạo động
  10. Xen kẽ vào giữa một cách bất bạo động
  11. Gây cản trở bất bạo động
  12. Chiếm cứ bất bạo động
Can Thiệp về Xã Hội
  1. Thiết lập những khuôn thước xã hội mới
  2. Gây tràn ngập các cơ sở
  3. Gây trì hoãn
  4. Chiếm diễn đàn
  5. Du kích kịch trường
  6. Tạo ra những cơ chế xã hội thay thế khác
  7. Tạo ra những hệ thống truyền thông thay thế khác
Can Thiệp về Kinh Tế
  1. Đình công ngược
  2. Đình công tại chỗ
  3. Chiếm đất bất bạo động
  4. Thách thức cấm vận
  5. Làm bạc giả vì động cơ chính trị
  6. Mua chặn hết hàng hoá
  7. Tịch thu tài sản
  8. Thải đổ hàng hoá
  9. Bảo trợ có chọn lọc
  10. Tạo những thị trường thay thế khác
  11. Tạo những hệ thống vận tải thay thế khác
  12. Tạo những cơ chế kinh tế thay thế khác
Can Thiệp về Chính Trị
  1. Tạo tràn ngập các hệ thống hành chánh
  2. Tiết lộ danh tánh các nhân viên mật vụ
  3. Tình nguyện đi tù
  4. Bất tuân dân sự đối với những luật “vô thưởng vô phạt”
  5. Tiếp tục làm việc mà không cộng tác
  6. Hai chủ quyền và chính phủ song hành

Hung hãn và hèn nhát


Xã hội Việt Nam đang rất sôi động. Một sức sống như đang bừng bừng trẻ trung với bề ngoài của nó. Hào nhoáng. Chộn rộn. Mỗi ngày, khi trên báo chí hay truyền hình ra một đề bài lá cải, khắp nơi nhộn nhịp tham gia bàn tán như các cô cậu học sinh mùa thi được thử thách tâm sinh lý. Ở các ngã tư đường, các quán nhậu, các diễn đàn facebook… đâu đâu người ta cũng bàn tán về đề thời sự mới nhất. Một ông già hom hem ngấu nghiến hôn cô gái trẻ được báo chí ghi lại, lập tức trở thành quốc sự. Nền dân chủ lý sự tầm ruồng phất cao ngọn cờ ngời sáng với 2 phe: một bên thì đập ngực đem tất cả vốn liếng đạo đức để chỉ trích, một bên thì chống nạnh, viện dẫn mọi tư duy cấp tiến để nói rằng đó là chuyện bình thường, thậm chí đáng yêu.
Quốc sự về nụ hôn của một cụ già trỗi máu xuân tình dĩ nhiên không quên bàn về nước dãi của cụ còn để lại trên gò má căng phính lông tơ của cô gái trẻ. Quốc sự về hình ảnh đó cũng có đủ mọi lời bảo vệ bằng cách đưa ảnh một vị lãnh tụ khác cũng hay hôn phụ nữ, đàn ông và trẻ con như một truyền thống đáng noi theo. Dĩ nhiên, khi đã tranh luận, mỗi phe càng nói càng hăng. Ngôn ngữ mỗi lúc một mạnh bạo, thậm chí rất hung hãn.
Sự hung hãn của một dân chủ xã hội đầy sôi động đó cũng được mô tả bằng bản tin hơn 5000 người Việt đánh nhau đến nhập viện trong một mùa xuân cầu mong yên lành. Sự hung hãn được chỉ định bằng việc giết heo trong lễ hội theo lối yêu trảm (chém ngang lưng) du nhập từ đời nhà Tần phương Bắc sang Việt Nam. Sự hung hãn được xác nhận như phần cần thiết của lễ hội mua thần bán thánh, từ miệng của một quan chức cấp cao, phó chủ tịch Uỷ ban Nhân Dân Sóc Sơn “Lễ hội không tổ chức phát lộc cho người dân nên ai muốn có phải cướp. Xô xát là bình thường”. Loại câu nói đủ biết hạng người nào, tri thức kiểu gì đang đứng trên đầu dân chúng.
Một khi chuyện hôn hít của một ông già, chuyện đánh nhau vỡ đầu giành lộc, chuyện hung hãn đánh nhau giữa đường rồi cùng nhập viện… nay đã trở thành quốc sự hạng một, chiếm lĩnh mọi sự quan tâm của quốc dân, thì đó cũng là một chỉ dấu của con đường đến mạt vận.
Người Việt hôm nay dường như rất hung hãn trong những chuyện tự do ngôn luận dân chủ tầm ruồng, bỏ quên hay tránh né về những điều nguy ngập khác, rằng Trung Cộng đã dựng xong sân bay, pháo đài… trên biển, có thể đánh chiếm Sài Gòn trong 24 giờ. Thế nhưng tướng quân đội Việt Nam thì tâm tư tha thiết kêu gọi dân chúng không nên ghét bỏ kẻ đang lăm lăm cướp – giết tổ quốc mình.
Người Việt hôm nay dường như rất hung hãn trong cách dùng mọi học thuật để chứng minh đối phương đồi bại hay tiến bộ trong những điều chỉ đáng liếc qua và lãng quên, nhưng giỏi cười qua loa với chuyện các dự án bauxite thua lỗ trầm trọng mà vẫn phải tiếp tục, ngày đêm giao nộp sang biên giới, giỏi giả lơ khi giá xăng được tuyên hô sẽ lên giá không cần lý do, khi dầu thế giới chỉ có giá 50 USD/ thùng – mức giá thấp nhất từ trước đến nay.
Người Việt hôm nay dường như đủ hung hãn chém con heo ra nhiều mảnh, reo hò và tắm máu như thời các bộ lạc dã man, nhưng hèn nhát câm miệng không dám bàn về tài sản các quan chức tham nhũng đang đục ruỗng tổ quốc mình. Người ta im lặng hèn nhát khi nghe những kẻ như Trần Văn Truyền chỉ bị kỷ luật giơ cao đánh khẽ, còn những người tố cáo cái ác như ông Cao Kim Hoa, báo Người Cao Tuổi, đang lao đao giữa trùng vây vô lại.
Cái cần phải hung hãn, thì người ta đang chọn cách hèn nhát. Cái cần phải hèn đi thì người ta ồ ạt xông lên: hung hãn giành giật thức ăn buffet, hung hãn trói đánh kẻ trộm chó, hung hãn phán xét, nguyền rủa chung quanh như bản thân mình là hiện thân của ngọn cờ đầu nhân nghĩa.
Hung hãn và hèn nhát, hai mặt đối lập của số đông trong một quốc gia, cho thấy sự sục sôi của chủ nghĩa duy lợi đang lây lan như một loại virus trọng bệnh, mà tỷ lệ nghịch với làn sóng đó, là sức sống còn cho một quốc gia.

CTQH Nguyễn Sinh Hùng: Đất nước chỉ một Đảng, có cần Hội đồng bầu cử quốc gia độc lập?


Theo Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, không nên có Hội đồng bầu cử quốc gia độc lập.
Theo Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, không nên có Hội đồng bầu cử quốc gia độc lập.
“Đất nước chỉ một Đảng thì làm gì có Hội đồng bầu cử Quốc gia độc lập? Thực tế không có chuyện bầu lại Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng không, nên không cần phải bầu Hội đồng bầu cử Quốc gia”.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh như trên khi Ủy ban Thường Vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân sáng 25/2.
Liên quan đến vấn đề Hội đồng bầu cử quốc gia, hiện vẫn còn hai loại ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng, cũng như Hội đồng bầu cử ở trung ương – là cơ quan phụ trách bầu cử đã được quy định trong văn bản luật về bầu cử, Hội đồng bầu cử quốc gia được thành lập và hoạt động gắn với từng cuộc bầu cử của từng nhiệm kỳ cụ thể.
Bên cạnh đó, ý kiến thứ hai cho rằng, bầu cử là quyền quan trọng của công dân. Quyền đó được thực hiện không chỉ ở cuộc bầu cử chính thức đầu mỗi nhiệm kỳ mà còn được thực hiện thông qua việc bầu cử bổ sung đại biểu bị khuyết trong thời gian giữa nhiệm kỳ.
Việc dự thảo Luật đã trình Quốc hội quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập Ủy ban bầu cử bổ sung để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn như Hội đồng bầu cử quốc gia trong các lần bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội là không phù hợp với quy định của Hiến pháp. Bởi vì, theo quy định của Hiến pháp thì Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội bao gồm cả bầu cử chính thức ở đầu mỗi nhiệm kỳ và cả bầu cử lại, bầu cử thêm cũng như bầu cử bổ sung giữa nhiệm kỳ.
Theo báo cáo giải trình tiếp thu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phương án 1 cơ bản giữ các quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia như trong dự thảo Luật đã trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8. Các thành viên của Hội đồng bầu cử quốc gia hoạt động kiêm nhiệm. Tuy nhiên, phương án này chưa thể hiện được nhiều điểm mới trong việc tổ chức bầu cử, chưa tạo lập được bộ máy chuyên nghiệp, độc lập để thực hiện công tác bầu cử…
Còn phương án 2 sẽ có các thành viên hoạt động chuyên trách làm đầu mối đảm nhiệm những công việc của Hội đồng, giữ mối liên hệ với các thành viên khác và thực hiện mối quan hệ phối hợp công tác với các cơ quan, tổ chức hữu quan. Phương án này cũng không làm phát sinh đáng kể về biên chế, bộ máy.
Cho ý kiến về nội dung này, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho rằng phương án 1 cũng giống như Hội đồng bầu cử trung ương, không có gì khác. Phương án 1 cũng chưa được thể hiện rõ và phương án 2 đã khắc phục được điều này, cũng có sự đổi mới nhưng lại có khả năng phát sinh thêm biên chế.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc Ksor Phước lại cho rằng, phương án 1 sẽ thuận hơn, vì khi có nhu cầu thì Quốc hội sẽ quyết định thành lập, nhưng cũng có mặt hạn chế là chưa thực hiện đầy đủ tinh thần Hiến pháp. Mặc dù phương án 2 đầy đủ hơn, song ông Ksor Phước lại nghiêng về phương án 1, vì nếu lập ra một tổ chức phải có bộ máy hoạt động trong 5 năm, nhưng chủ yếu là “lau bàn ghế”, lãng phí nguồn nhân lực, lãng phí ngân sách. Ngoài ra Chủ tịch Hội đồng dân tộc cũng đề nghị cần làm rõ thêm quyền hạn nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử, vì luật này liên quan đến Luật tổ chức Quốc hội.
Cho rằng không nên thực hiện theo phương án 2, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng: “Đất nước chỉ một Đảng thì làm gì có Hội đồng bầu cử quốc gia độc lập?” Trên thực tế không có chuyện bầu lại Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng không (chỉ trừ trường hợp tách, nhập tỉnh) nên không cần phải bầu Hội đồng bầu cử Quốc gia. Do vậy phương án 1 sẽ thuyết phục hơn. “Chúng ta chỉ có 1 Đảng, không có đa Đảng, không có tranh cử giữa Đảng này Đảng kia nên chỉ bầu 1 Hội đồng”.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng cũng đề nghị phải quy định rõ tỷ lệ bầu cử chuyên trách và không chuyên trách. Ngoài ra quá trình hiệp thương cũng phải ghi rõ tỷ lệ nữ, tỷ lệ chuyên trách và số dư.
Theo dự kiến, dự thảo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân sẽ được Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 9 diễn ra vào tháng 5 tới đây.
Thành Nam
25-02-2015

Ông Kim Quốc Hoa, TBT báo Người Cao Tuổi, gửi đơn kiến nghị cho TBT Nguyễn Phú Trọng


Đôi lời: Việc Bộ Thông tin và Truyền thông thanh tra đột xuất báo Người Cao Tuổi là làm đúng theo ý của TBT Nguyễn Phú Trọng: “Ném chuột không để vỡ bình”. Báo Người Cao Tuổi đã “ném chuột” mạnh tay quá, cái bình suýt vỡ tan tành mà ông TBT Kim Quốc Hoa không thấy sao? Ông còn viết đơn kiến nghị này gửi TBT Nguyễn Phú Trọng, TBT biết trả lời ông thế nào đây?
26-02-2015
H1
H1
H1
H1

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

THỬ LÝ GIẢI HIỆN TƯỢNG GS. VŨ KHIÊU BỊ DÂN MẠNG NÉM ĐÁ VÌ ÔM HÔN HOA HẬU KIỂU TRAI LỰC ĐIỀN VÀ TẶNG NÀNG ĐÔI CÂU ĐỐI ĐẠO VĂN







Trần Mạnh Hảo.

GS. Vũ Khiêu, thần tượng trí thức và biểu tượng văn hóa của chế độ hiện hành, anh hùng lao động, vừa được thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tặng câu đối ca tụng ông lên mây, nhân việc ông thọ 100 tuổi như sau :

"Triết gia trong cách mạng - Nghệ sĩ giữa Anh hùng"

Ông cũng là người được giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu 1996 về các cuốn sách mỹ học, triết học, văn hóa học như :" Nghệ sĩ và anh hùng"
"Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng và văn hoá (1987), Người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử" nhằm ca ngợi Bác và Đảng.

Năm 2000, giáo sư được phong danh hiệu Anh hùng Lao động thời đổi mới.
Ngày 12 tháng 9 năm 2006, Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa thay mặt Hội đồng Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng nhất cho Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu vì có nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp phát triển khoa học xã hội và nhân văn, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Đại hội Thi đua Thủ đô Hà Nội, khi được trao tặng danh hiệu "Công dân Ưu tú Thủ đô".
( Theo từ điển mạng)

Ông từng được nhà nước tặng biệt thự, được chế độ ưu đãi công thần, chế độ coi ông là thần tượng văn hóa của chế độ…

Năm 1963 GS. Vũ Khiêu đã viết cuốn sách về Mỹ học có tên là “Đẹp”. Năm đó, chúng tôi đã mua cuốn sách này để đọc và thấy kiến thức của GS. Vũ Khiêu phải nói cho công bằng là rất hạn hẹp và ấu trĩ. Mỹ học trong cái nhìn của GS là Mỹ học có tính giai cấp, có tính đảng. Cái gì đảng ta nói, đảng ta làm đều đồng nghĩa với cái đẹp. Ví dụ như cải cách ruộng đất là cái đẹp, đánh nhân văn giai phẩm là cái đẹp, căm thù giai cấp địa chủ tư sản là cái đẹp…

Sau đó tôi đã đọc hầu hết các cuốn sách của GS. Vũ Khiêu như vừa kể trên thì thấy trình độ GS chưa thể gọi là trí thức.

Việc chế độ nâng GS. Vũ Khiêu từ một ông giáo tiểu học, từng hành nghề lao công tạp dịch trong bệnh viện thời Pháp lên thành biểu tượng cho giới trí thức : là anh hùng văn hóa, là nhà triết học số 1, mỹ học số 1, nhà nghiên cứu văn hóa số 1, thậm chí thành Nguyễn Trãi của chế độ…khiến dư luận giới trí thức thứ thật bất bình, không phục; nên khi GS. Ôm hôn cô hoa hậu Nguyễn Cao Kỳ Duyên mãnh liệt quá mức ông cháu và nhất là cụ lại tặng cô này một câu đối thiếu văn hóa, khiến thiên hạ bực mình ném đá khắp nơi trên FB và trên các blog, website…

Chúng tôi đã đọc hầu hết các cuốn sách của GS. Vũ Khiêu thì thấy nếu ta xếp cụ vào hàng ngũ trí thức thì quả là một điều quá lố. Chỉ riêng việc GS. Vũ Khiêu lên tiếng nhiệt liệt ủng hộ hành vi của mộ kẻ điên rồ đòi sửa lại, viết lại Truyện Kiều như dưới đây, chứng tỏ cụ không phải là người trí thức :

"Trong cuộc hội thảo về Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ từ Truyện Kiều đến phong trào Thơ mới tổ chức vào ngày 15.12.2012 tại khu di tích Nguyễn Du, Hà Tĩnh, mỗi đại biểu tham dự được tặng một cuốn sách (bản photo) có nhan đề Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng, do Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, khảo dịch - nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin in năm 2012. Cuốn sách này có lời đề tựa rất trang trọng của GS. Vũ Khiêu:
“Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, tìm đọc hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó, ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều…”.
Với hơn 1.000 chỗ sửa, tức 1/3 tác phẩm, gần như bất cứ chỗ nào trong Truyện Kiều, cũng bị ông kỹ sư cắt xé, bức tử. Điều đáng nói là, việc sửa thơ này của ông kỹ sư lại nhận được cổ xúy của một bậc giáo sư lừng danh: Anh hùng lao động, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu."
http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Khi%C3%AAu

GS. Vũ Khiêu quả tình không thể gọi là trí thức khi muốn lấy hoa mào gà làm quốc hoa. Ơ hay, bệnh mào gà là bệnh gì chắc GS. chưa biết hay sao ?

GS.Vũ Khiêu tặng cô hoa hậu Nguyễn Cao Kỳ Duyên câu đối thiếu văn hóa dưới đây sao có thể gọi là trí thức :

Giáo sư Vũ Khiêu đã viết tặng hoa hậu Kỳ Duyên đôi câu đối:
"Trí như bạch tuyết tâm như ngọc
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung"

GS.Vũ Khiêu đã lấy nguyên vẹn một câu thơ của đại thi hào Lý Bạch trong bài thơ “Thanh Bình điệu” : “ Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” làm câu đối trên. Đạo văn như trên sao là trí thức ?

Câu đối trên ngay từ câu đầu, GS. Vũ Khiêu đã diễu cô hoa hậu rằng trí của cháu trắng như tuyết, nghĩa là cháu không có trí; có lẽ GS. Vũ Khiêu muốn nói đến câu thơ Nguyễn Du : “ Mai cốt cách tuyết tinh thần” chăng ? Nhưng TRÍ và TINH THẦN là hai điều khác nhau thưa cụ GS ! Tinh thần trong câu Nguyễn Du có thể hiểu là tâm đấy ! Trí mà như tuyết thì trí ấy bằng không à ? Câu đối tặng người ta mà xỏ xiên như thế sao gọi là trí thức ?

Bài thơ “Thanh bình điệu” của Lý Bạch là bài thơ ca ngợi thân xác gợi dục của Dương Qúy Phi sau khi làm tình với Đường Minh Hoàng, sao lại lấy ra ca ngợi một cô gái còn chưa có chồng là sao ? Dương Qúy Phi vốn là một dâm phụ, từng là vợ con trai Đường Minh Hoàng, bị vua cha cướp lấy. Dương Qúy Phi với sắc đẹp dục tính đã khiến con nuôi Đường Minh Hoàng là An Lộc Sơn muốn cướp người đàn bà dục tình này nên đã làm loạn, gây chết một phần ba dân số Trung Hoa thời đó…

Có thể vì chế độ nâng GS. Vũ Khiêu, một người không phải trí thức lên thành biểu tượng của trí thức, biểu tượng của văn hóa Việt Nam mà nhân dịp cụ ôm hôn gái trẻ kiểu trai lực điền và tặng nàng đôi câu đối đểu nên đã bị dân mạng ném đá cho bõ tức vì bị lừa hết vụ này sang vụ khác chăng ?

Sài Gòn lúc 23 h 28’ ngày 27-2-2015

Trần Mạnh Hảo


Lại nói về ông già họ Vũ, những ngày qua có không ít người bênh vực, nói rằng xã hội chĩa mũi dùi nhọn vào một ông già trăm tuổi là vô lễ, rằng chỉ là cái hôn xã giao, rằng câu đối cũng bình thường khen ngợi vẻ đẹp của nàng Huê hậu. Nên bài này không bàn và nhắc đến việc đó nữa.

Tra trên Wikipedia thì có dòng tiểu sử như này:
Vũ Khiêu, tên thật là Đặng Vũ Khiêu (19/09/1916), là một học giả nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, Viện trưởng đầu tiên của Viện Xã hội học Việt Nam, nguyên Phó Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam).

Cũng trong Wiki về ông này, phần MỘT SỐ PHÁT NGÔN, xin chép lại y nguyên để thấy được “học vấn uyên thâm” của ngài:
Gần đây nhất, trước khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị chất vấn tại quốc hội, ông Vũ Khiêu đã có bài khen ngợi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong khi nhiều người, đặc biệt là ngoài nước đặt câu hỏi về năng lực và trách nhiệm của ông Nguyễn Tấn Dũng trong vụ Vinashin vỡ nợ và vụ khai thác Bauxite tại Tây Nguyên. Đáng chú ý, người thực hiện bài này yêu cầu thẳng Vũ Khiêu đánh giá về Thủ tướng, và được ông khen rằng Nguyễn Tấn Dũng "có thể là một trong những người nắm bắt được xu hướng phát triển thời đại". Việc những bài như vậy đăng ở Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tạo cảm giác rằng bên hành pháp đang muốn tạo dư luận thuận lợi trước phiên chất vấn và cũng "nhắc nhở" các vị dân biểu.

Link đây:
http://baodientu.chinhphu.vn/…/Phong-van-G…/201011/49039.vgp
http://www.bbc.co.uk/…/vi…/2010/11/101118_na_questions.shtml

Nhận xét về nhiệm kỳ hoạt động của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông Khiêu nói: "Thành công của Thủ tướng cũng là thành công của tập thể lãnh đạo, mà trách nhiệm của Thủ tướng thì cũng là trách nhiệm chung của ban lãnh đạo, chứ không chỉ của một mình Thủ tướng"

Nói có sách mách có chứng:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/11/101129_na_pmdung.shtml

Về quốc hoa của Việt Nam, Vũ Khiêu có ý kiến cho rằng "Nếu chọn được bông hoa khác, ngoài các loại hoa trên thì cũng nên chọn, miễn là được nhân dân đồng ý. Ví dụ như hoa Mào gà, nếu được đông đảo nhân dân đồng ý cũng nên chọn làm quốc hoa của Việt Nam".

Link tham khảo:
http://khampha.vn/khoa-hoc/quoc-hoa-mao-ga-hay-hoa-sen-xung-dang-c7a68997.html

Ông còn viết lời đề tựa cho cuốn Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng, do Đỗ Minh Xuân khảo dịch – Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin in năm 2012, một cuốn sách đã xâm phạm trắng trợn và thô bạo bản quyền tác giả và bị dư luận lên án gay gắt.

Link: http://motthegioi.vn/van-hoa-giai-tri/sua-hon-1000-don-vi-tu-cua-truyen-kieu-mot-hanh-dong-vo-dao-65826.html

Bài phóng sự "Sự thật ấn đền Trần ở Thái Bình" đăng trên phiên bản điện tử của báo Tiền Phong ngày 11/06/2010 viết về lễ khai ấn tại đền Trần Hưng Hà bắt đầu vào ngày 13 tháng Giêng năm 2010 cho biết, trong dịp khai ấn này, đã có hàng vạn bản ấn được đóng, phát/bán cho nhân dân. Quả ấn được đóng là một quả ấn "nhái", bị khắc ngược, có 4 chữ "Thượng Nguyên Chu thị" nhưng lại được coi là ấn cổ, ấn quý, "ấn vua Trần" vì Giám đốc Bảo tàng tỉnh Thái Bình đã thông qua một cán bộ ở Bộ Công an, "nhờ GS Vũ Khiêu đọc giúp, và GS trả lời rằng đó là bốn chữ "Quốc vương thiên nhân"
Link đây:

http://www.tienphong.vn/xa-hoi.../su-that-an-den-tran-o-thai-binh-503111.tpo

Thế nhưng, còn chưa kinh hồn bằng việc, ông Đặng Vũ Khiêu – Niềm tự hào của dòng họ Vũ, từ bỏ họ Đặng (Họ gốc Việt), lấy họ Vũ, và nhận Vũ Hồn (An Nam Đô Hộ Kinh Lược Sứ Tàu) làm tổ Vũ. Bảo sao khi mừng thọ 100 (lúc mới có 98 tuổi), ngài lại đội nón cộc và vận áo lễ của triều Mãn Thanh.
Đừng tưởng ko ai biết: 

http://danlambaovn.blogspot.com/2014/09/giao-su-vu-khieu-tu-bo-ho-viet-e-lay-ho.html

Kinh hơn nữa, ngôi mộ tổ mà ông Khiêu vẫn hô hào con cháu 2 dòng họ Vũ - Võ hàng năm về tế lễ lại là mộ giả, mới chỉ có niên đại khoảng 300 năm, trong khi đó, bà Vũ Thị Đức – mẹ ruột của Vũ Hồn, lại sống cách đây ngót 1200 năm. Tức là theo ông Khiêu, dòng họ Vũ mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng thế kỷ thứ 9.

Link:
 http://www.baomoi.com/Phat-hien-chan-dong-Ho-Vu-va-ho-Vo-tho-nham-mo-to/79/4184891.epi

Lại còn kinh hơn nữa, đôi câu đối Câu đối của ông Khiêu dâng vào Miếu Thần tổ Vũ Hồn ở Mộ Trạch, Hải Dương "Vạn cổ càn khôn hưng tái tạo/ Cửu tiêu nhật nguyệt phúc trùng quang", do ông ăn cắp gần nguyên xi đôi câu đối ở đình làng An Trì ở tận Hải Phòng "Vạn cổ càn khôn hưng tái tạo/ Cửu vân nhật nguyệt ánh trùng quang".

Đạo sư:
http://hovuvovietnam.com/Mot-so-Cau-doi-cua-Giao-su-AHLd-Vu-Khieu_tc_313_315_358.html
http://haiphonginfo.vn/vPortal/4/51/450/766/Di-tich-lich-su/Dinh-An-Tri.aspx

Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu âm thầm, đơn giản như người cả đời đi tìm dòng tích chữ Việt cổ Đỗ Văn Xuyền, chỉ là một ông giáo nghèo, nhưng đã có những phát hiện chấn động, về một thầy giáo họ Vũ (Vũ Thê Lang) quê ở Mộ Trạch (Hải Dương) đã cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thục, quê ở Đông Ngàn (Kinh Bắc), đã lên vùng này dạy học vào thời Vua Hùng thứ 18. Thầy cô đã chết vào cùng một giờ, ngày 2-2 năm Quý Dậu (288TCN). Vợ chồng thầy cô giáo được song táng trong lòng một ngôi miếu cổ và được người dân thôn Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt 2.300 năm, hiện vẫn còn văn bản, thư tịch lưu lại trong miếu và qua lời kể của người dân.

http://vtc.vn/su-that-ngoi-mieu-tho-thay-tro-thoi-hung-vuong.394.282997.htm
http://baotangnhanhoc.org/vi/tin-tuc-su-kien/tin-tuc-su-kien-1/1253-ngoi-n-th-s-hc-c-nht-vit-nam.html

Các vị cứ bênh lão già mất nết đi.

Đừng để vụ án Phương Anh chìm xuồng


“...Vụ án này khác ở chỗ nó không có ngay cả lý cớ và cũng không cần thiết cho chế độ. Nó đã có chỉ vì chính quyền cộng sản nhìn con người Việt Nam một cách rẻ rúng và nghĩ rằng họ có thể làm bất cứ gì. Mọi người Việt Nam đều phải cảm thấy bị xúc phạm. Sự im lặng của đa số những trí thức có tên tuổi thực là khó hiểu..."


tudo_cho_lethiphuonganh
Vụ xử Lê Thị Phương Anh, Đỗ Nam Trung và Phạm Minh Vũ tại Đồng Nai ngày 12-02 vừa qua đã không gây được sự chú ý lớn như những vụ án chính trị trước. Nó đã không sôi nổi, hầu như không có biện hộ, Phương Anh và Trung đã nhận tội và xin khoan hồng. Các bản án cũng tương đối nhẹ so với những vụ án trước đây; Phương Anh bị xử 12 tháng, Trung 14 tháng, Vũ 18 tháng. Trước đó Phương Anh cũng đã nghe lời công an, từ chối luật sư do gia đình và bạn bè chọn để chấp nhận luật sư của công an.
Dầu vậy sẽ là một sai lầm nếu để vụ án này chìm dần vào quên lãng, nó đáng lẽ phải được chú ý và bình luận hơn mọi vụ án trước. Hơn hẳn các vụ án chính trị khác nó phơi bày rõ rệt bản chất của chế độ và nó cũng phơi bày một nét dậm của văn hóa cộng sản mà nhiều người nghĩ một cách vội vàng đã lùi vào quá khứ nhưng thực ra vẫn còn gần như nguyện vẹn trong não trạng của những người lãnh đạo chế độ. Hơn thế nữa nó còn nhắc nhở hai bí ẩn lớn mà một cách nghịch thường dư luận quên đi quá nhanh.
Những gì đã xảy ra?
Ngày 15/05/2014 ba người trẻ này bị bắt tại Biên Hòa, Đồng Nai, khi họ tới đó để quan sát tình hình sau những vụ bạo loạn tại các khu công nghiệp Đồng Nai và Sông Bé. Họ bị bắt vì bị cáo buộc là âm mưu gây rối loạn nhưng sau đó công an Đồng Nai cho là "chưa có cở sở để kết luận" là họ đã có ảnh hưởng đến những vụ bạo loạn (1) và tội danh của họ được chuyển thành "lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân" theo điều 258 Bộ Luật Hình Sự, với "vật chứng" là những trương mục Facebook và email của họ.
Câu hỏi đầu tiên là tại sao chính quyền lại thấy cần phải đổi tội danh? Chắc chắn không phải là vì sự chính xác, chính quyền này bất chấp sự chính xác, họ có thể buộc tội và kết án một cách rất tùy tiện như họ đã từng kết án Bùi Thị Minh Hằng và các bạn là vi phạm luật giao thông vì đã đi hàng ba trên hai xe gắn máy. Họ đổi tội danh chỉ vì họ không muốn có thảo luận về những vụ bạo loạn đã xẩy ra tại Bình Dương, Đồng Nai và nhiều nơi khác.
Nhắc lại:
Ngày 01/05/2014 Trung Quốc đem giàn khoan HD 981 vào tìm dầu khí ngay trong hải phận Việt Nam, chính quyền Hà Nội đã không có phản ứng nào cho đến khi các hãng thông tấn quốc tế đưa tin và nhiều chính quyền lên tiếng. Lúc đó dù không thể tiếp tục im lặng được nữa Hà Nội đã chỉ phản ứng ở mức độ tối thiểu miễn cưỡng. Bộ ngoại giao đã không dám triệu tập đại sứ Trung Quốc để phản đối mà chỉ gửi đại diện tới sứ quán Trung Quốc để "giao thiệp" và đưa công hàm. Về phía các cấp lãnh đạo cao nhất thì "bất xứng" là tiếng quá nhẹ để đánh giá cách ứng xử của họ. Ông Nguyễn Phú Trọng im lặng. Ông Trương Tấn Sang thì cả tuần sau trong một cuộc tiếp xúc với cử tri quận 1 Sài Gòn mới nói không khác một dân oan "anh phải rút đi chứ, nhà tôi chứ đâu phải nhà anh"; ông Sang thừa biết những tiếng than của dân oan có trọng lượng nào. Tệ hơn nữa là thái độ của ông Nguyễn Tấn Dũng. Ông được những cơ hội bằng vàng để tố giác mạnh mẽ hành động xâm lược của Bắc Kinh trước dư luận quốc tế và tranh thủ sự yểm trợ của thế giới đối với chủ quyền của Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa -Đối Thoại Shangri-la tại Singapore và Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới tại Manilla- nhưng ông đã chỉ nói những lời vớ vẩn như"không thể đổi chủ quyền lấy một quan hệ hữu nghị viển vông". Ông đại tướng bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh còn tuyên bố hành động của Bắc Kinh là chuyện riêng giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam đã vô cùng phẫn nộ, cả với hành động ngang ngược của Trung Quốc lẫn thái độ nhu nhược của chính quyền Việt Nam. Trong bối cảnh tâm lý đó chính quyền Hà Nội đã không thể ngăn cấm những cuộc biểu tình bày tỏ ý chí bảo vệ chủ quyền quốc gia. Tuy vậy quyết định ngăn chặn những cuộc biểu tình kế tiếp đã rất rõ rệt. Tại Sài Gòn và Hà Nội, bên cạnh những người đi biểu tình vì tình cảm dân tộc đã có những bọn đầu gấu đông đảo và có tổ chức dương những biểu ngữ khiêu khích không liên quan gì tới vụ giàn khoan HD 981 như "Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn năm", "Hồ Chí Minh muôn năm". Chúng sẵn sàng gây sự và trên thực tế đã gây sự.
Thế rồi những cuộc bạo loạn xảy ra, qui tụ hàng chục ngàn người và đặc biệt hung bạo, từ Bình Dương lan sang Đồng Nai, ngoại thành Sài Gòn và nhiều nơi khác, gây thiệt hại cho hàng trăm xí nghiệp, trong đó khoảng 20 xí nghiệp gần như bị phá hủy. Bất ngờ và kỳ dị. Không ai có thể tổ chức những cuộc bạo loạn này trừ chính quyền. Các nhóm dân chủ, dân chủ đối lập cũng như dân chủ kiến nghị, đã chứng tỏ rằng ngay cả nếu hợp sức với nhau và được sự cổ võ đồng thanh trên mạng từ cả trong lẫn ngoài nước họ cũng chỉ tập hợp được tối đa một hay hai ngàn người là cùng ở Hà Nội và Sài Gòn. Biểu tình tự phát thì chỉ vài chục người như khối hơn một triệu dân oan đã chứng tỏ trong nhiều năm qua. Bàn tay của công an trong các vụ bạo loạn này cũng đã quá rõ rệt.
Qua phỏng vấn trên các đài nước ngoài nhiều công ty cho hay khi bọn đầu gấu tới đòi công ty ngừng làm việc để cho công nhân tham gia biểu tình họ đã cầu cứu công an và được trả lời là công an được lệnh không can thiệp. Trong một phóng sự của ký giả Mặc Lâm trên đài Á Châu Tự Do ngày 14/05/2014, một công nhân còn cho hay là chính công an đã vào công ty yêu cầu công nhân đi biểu tình, sau đó đi theo đoàn biểu tình và khi thấy những người biểu tình quá hiền thì thất vọng (2). Sau này chính quyền cho hay là đã bắt 800 đối tượng tham gia bạo loạn và cũng có xử án tù nhẹ một vài người vì tội hôi của nhưng tuyệt nhiên không ai bị cáo buộc là chủ mưu hay cầm đầu các cuộc bạo loạn cả.
Người bình thường phải ngạc nhiên tại sao công an có thể hiệu lực đến độ ba thanh niên vừa đến Đồng Nai để tìm hiểu về các cuộc bạo loạn đã bị bắt ngay trong khi không có một tên cầm đầu bạo loạn nào bị bắt. Lý do chỉ giản dị là những tên cầm đầu là người của công an, có thể là những công an mặc thường phục. Ngày nay không còn ai có thể ngờ vực là chính công an đã tổ chức những vụ đốt phá này. Chính quyền không buộc tội Lê thị Phương Anh, Đỗ Nam Trung và Phạm Minh Vũ về tội bạo loạn bởi vì họ không muốn dư luận nhắc lại các vụ bạo loạn này nữa.
Tại sao chính quyền cộng sản lại phát động những cuộc bạo loạn này? Để có lý cớ cấm đoán những cuộc biểu tình thực sự chống Trung Quốc? Đúng, nhưng có lẽ chưa đủ.
Trở lại với vụ án Phương Anh, Trung và Vũ. Chưa bao giờ bản chất trâng tráo và ngược ngạo của chế độ được phơi bày rõ rệt như thế. Ngay khị bị bắt họ đã phải chịu những sức ép thô bạo để nhận tội và xin khoan hồng. Phương Anh đã từ chối luật sư do gia đình và bạn bè chọn để nhận luật sư của công an. Công an vừa bắt, vừa buộc tội, vừa đảm nhiệm luôn việc bào chữa. Trong suốt thời gian bị giam giữ Phương Anh cũng không được gặp chồng để bàn cách tự vệ. Chỉ có Phạm Minh Vũ là kiên trì khẳng định mình không có tội và đòi được biện hộ bởi luật sư do mình chọn. Vũ cũng là người bị tuyên án nặng nhất.
Bản kết luận điều tra của công an Đồng Nai, sau đó trở thành cáo trạng của Viện Kiểm Sát, đã là một tuyệt tác của sự vớ vẩn tùy tiện. Nó có tựa đề là "Vụ án Đỗ Nam Trung cùng đồng bọn lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân xảy ra tại tp Biên hòa, tỉnh Đồng Nai ngày 15/5/2014".Như vậy mọi người bình thường đều phải hiểu là phiên tòa có mục đích thẩm định xem các bị cáo có phạm tội gì ngày 15/5/2014 hay không. Về điểm này chính cáo trạng lại nhận định: "Cơ quan an ninh điều tra – Công an Đồng Nai chưa có cơ sở kết luận những bài viết, hình ảnh kích động biểu tình, gây rối trên đã có ảnh hưởng đến hành vi của những người tham gia gây rối…". Như vậy thì các bị can hoàn toàn vô tội và không có lý do gì để xét xử họ, chưa nói bỏ tù họ. Câu này không những thế còn xác nhận rằng những gì các đương sự đã viết và nói trước đó cũng không ảnh hưởng gì đến những vụ bạo loạn, và những gì "xẩy ra tại tp Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ngày 15/5/2014" (như tựa đề của cáo trạng) chỉ là một vụ bắt người vô can. Chắc chắn các  điều tra viên và giám sát viên phải biết như vậy nhưng họ vẫn viết như thế. Để làm gì nếu không phải là để gạt hẳn mọi tranh luận về những cuộc bạo loạn? Họ sợ cuộc thảo luận này vì nó sẽ cho thấy ngay rằng bọn phá rối không ai khác hơn là công an, là chính quyền.
Tuy vậy, vì không có gì để nói, cáo trạng vẫn rất dài dòng trên những chi tiết về vụ bắt người ngày 15/05/2014, như về hai chiếc xe máy mà các đương sự dùng ngày hôm đó: của ai, mang số đăng ký nào, đã qua bao nhiêu đời chủ, ai đã gọi điện thoại cho ai để yêu cầu cho các đương sự mượn xe v.v. hay về những "vật chứng" bị tịch thu dù chúng hoàn toàn không có gì là phạm pháp như điện thoại di động, thẻ ATM, thẻ sinh viên, đồng hồ đeo tay, ví xách tay v.v. Tóm lại viết để cáo trạng không quá ngắn, viết vì không có gì để viết.
Các đương sự sau cùng bị kết tội dựa trên những gì công an thấy được trên các trương mục Facebook và email của họ. Nhưng trên điểm này thì sự tùy tiện lại càng trơ trẽn vì cả ba người này đều có đặc tính chung là họ rất ít viết dù trên Facebook hay email. Tổng cộng trên Facebook của Lê Thị Phương Anh chỉ có 11.240 lượt người đọc trong gần một năm, tương đương với số lượt người đọc trong vòng hai hoặc ba tháng của một trang Facebook trung bình. Đỗ Nam Trung (2479 lượt người đọc) và Phạm Minh Vũ (1642 lượt người đọc) thì hoàn toàn không đáng kể. Bản cáo trạng (dù rất dài dòng mô tả hai chiếc xe gắn máy mà họ sử dụng ngày 15/05/2014) đã không dẫn chứng được một câu nào có thể coi là "lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân".Nước ta có trên 12 triệu trương mục Facebook, đại đa số viết nhiều và viết mạnh hơn hẳn ba người trẻ này. Nếu bỏ tù họ thì cũng có thể bỏ tù vài triệu người khác.
Tóm lại trong vụ này công an đã chặn bắt ba người viện cớ họ tham gia vào bạo loạn rồi đọc Facebook và thư riêng của họ, sau đó nhìn nhận là họ không có trách nhiệm gì trong vụ bạo loạn, nhưng vẫn xử án tù dựa vào nội dung những trương mục Facebook và email dù cũng không thể nêu ra một sai phạm cụ thể nào. Dưới tất cả mọi góc nhìn Lê Thị Phương Anh, Đỗ Nam Trung và Phạm Minh Vũ đều hoàn toàn vô tội. Vụ án này là sự tùy tiện thô bạo được đẩy tới mức tuyệt đối. Với cách buộc tội và xử án này thì bất cứ một người Việt Nam nào cũng có thể bị xử án tù. Tất cả những vụ án chính trị trước đây đều tùy tiện và thô bạo và phải bị lên án, nhưng ít nhất chúng còn có một lý cớ, dù là lý cớ gượng tạo. Vụ án này khác ở chỗ nó không có ngay cả lý cớ và cũng không cần thiết cho chế độ. Nó đã có chỉ vì chính quyền cộng sản nhìn con người Việt Nam một cách rẻ rúng và nghĩ rằng họ có thể làm bất cứ gì. Mọi người Việt Nam đều phải cảm thấy bị xúc phạm. Sự im lặng của đa số những trí thức có tên tuổi thực là khó hiểu.
Tại sao điều 258?
Câu hỏi kế tiếp là tại sao chính quyền lại đổi tội danh "gây rối" thành tội danh "lợi dụng các quyền tự do dân chủ" thay vì một tội danh nào khác? Đây là một câu hỏi quan trọng vì nó sẽ khiến chúng ta suy nghĩ và hiểu rõ hơn bản chất của chế độ này. Đây là một "phản xạ cộng sản". Chủ nghĩa Mác-Lenin vừa coi tự do ngôn luận là nguy hiểm lại vừa coi ngôn luận là một lý cớ đàn áp tiện lợi bởi vì công an có thể giải thích tùy tiện theo nhu cầu bất cứ phát biểu nào của bất cứ ai.  Phần lớn những tội trong các chế độ cộng sản là tội tư tưởng. Chúng ta đều đồng ý rằng tự do ngôn luận –và hệ luận của nó là tự do báo chí- là cần thiết nhưng có lẽ nhiều người chưa thực sự ý thức được sự cần thiết đó, bằng cớ là họ đã không phản ứng mạnh mẽ trước vụ án này. Lần này ý kiến cá nhân không chỉ bị chà đạp mà còn bị coi là một tội và bị sử dụng như một lý cớ để trừng phạt. Ba bạn trẻ này không bị phạt tù vì đã viết điều gì bị coi là sai bởi vì tòa không dẫn chứng những gì họ đã viết. Họ bị phạt tù chỉ vì đã viết.
Đây là dịp để chúng ta cùng nhìn lại, dù chỉ là một cách rất vắn tắt, sự cần thiết của tự do ngôn luận. Chấp nhận tự do ngôn luận là cần thiết không đủ, phải hiểu tại sao nó cần thiết chúng ta mới sẵn sàng chấp nhận những thử thách để tranh đấu cho nó. Đây là một là một vấn đề triết lý chính trị và như mọi vấn đề triết lý lập luận quan trọng hơn kết luận. Trong tinh thần đó xin chia sẻ sau đây một vài gợi ý tham khảo.
Cuối thế kỷ 17, để phản bác lập luận của Thomas Hobbes, John Locke đã viết rằng một chính quyền toàn trị cũng độc hại không kém một tình trạng vô chính phủ bởi vì một luật pháp tùy tiện chẳng hơn gì không có luật. Locke chủ trương chế độ dân chủ với một chính quyền do đa số bầu ra. Tư tưởng của Locke đã được hầu hết các nhà tư tưởng chính trị tán thành và đã góp phần quyết định dẫn tới hai cuộc cách mạng dân chủ tại Mỹ và Pháp. Sang thế kỷ 19 nhiều nhà tư tưởng, nổi bật là John Stuart Mill, đã lên tiếng cảnh giác về cái mà họ gọi là nguy cơ "chuyên chính của đa số", nghĩa là sự ức hiếp các cộng đồng thiểu số trong một quốc gia, và trong khi thảo luận về phương thức để ngăn ngừa nguy cơ này họ đã nhận ra sự cần thiết của tự do ngôn luận trong một xã hội tiến bộ.
Trước hết họ lý luận rằng một lập trường được đa số chấp nhận chưa chắc đã đúng và một lập trường thiểu số chưa chắc đã sai, hơn nữa những ý kiến mới bao giờ cũng bắt đầu như một ý kiến của một thiểu số, thậm chí của một người. Một ý kiến chỉ có thể được coi là đúng nếu người ta đã được tự do phản bác nó mà vẫn không phản bác được; nhiều người còn đi xa hơn, coi một ý kiến đúng chỉ là một ý kiến sai chưa bị chứng minh là sai.
Lập luận thứ hai của họ nhắm phản bác quan niệm chính quyền phải nằm trong tay một  "thiểu số ưu tú" mà Plato khởi xướng và sau này Hobbes lặp lại và các chế độ quân chủ chuyên chính sử dụng, theo đó tự do ngôn luận không cần vì quần chúng không thể và cũng không muốn biết những lý luận phức tạp mà chỉ cần được những người cầm quyền sáng suốt và thông thái cho biết những gì là đúng để làm theo là đủ. Đối với họ một hành động với sự hiểu biết khác với một hành động không có sự hiểu biết. Một người không hiểu biết hôm nay có thể làm điều đúng nhưng ngày mai cũng có thể làm điều sai. Họ cũng phản bác sự phân công giữa những người có vai trò lãnh đạo và những người chỉ có vai trò phục tùng; một xã hội như vậy đối với họ không khác một xã hội nô lệ. Họ cho rằng mọi người sinh ra bình đẳng và phải được nhìn nhận có phẩm giá như nhau, do đó không ai có thể bị từ chối quyền hiểu biết bởi vì sự hiểu biết thăng hoa con người. Vả lại xã hội càng nhiều người hiểu biết thì càng lành mạnh và càng dễ phát triển. Muốn như thế phải có tự do ngôn luận và thông tin.
Một lý luận khác cũng rất đáng được lưu ý là ngay cả nếu có lý do chắc chắn để tin một ý kiến là sai cũng không nên ngăn cấm việc phát biểu nó, bởi vì dù sai nó cũng đã có lý do khiến đã có những người tin theo, nghĩa là cũng có thể chứa đựng một yếu tố đúng nào đó, và yếu tố đúng này biết đâu lại chẳng khởi điểm cho một đột phá mới? Ngăn cấm tự do ngôn luận như vậy có rủi ro ngăn chặn sự sáng tạo, làm thui chột trí tuệ và giam hãm xã hội trong sự bất động.
Còn nhiều lập luận khác nữa. Tất cả đã dẫn tới kết luận, được thực tế xác nhận, là tự do ngôn luận là yếu tố nền tảng cho một xã hội văn minh, sáng tạo và năng động, đồng thời bảo đảm cho con người sự hiểu biết và cuộc sống xứng đáng.
Tuy vậy các nhà tư tưởng này đều không thể ngờ rằng có thể có một chế độ như chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay, trong đó không có "chuyên chính của đa số" (vì không hề có bầu cử tự do) mà chỉ có ách chuyên chính của một thiểu số, và thiểu số này cũng không phải là một thiểu số ưu tú -như Plato và Hobbes hình dung- mà là một thiểu số tham bạo thiếu cả văn hóa lẫn đạo đức, những người suy nghĩ thiển cận nhưng lại giành độc quyền suy nghĩ thay cho mọi người. Chế độ này coi sự phát biểu ý kiến cá nhân, bất luận đúng hay sai, là một tội phạm, như vụ án này vừa chứng tỏ. Nó là một sự xúc phạm hàng ngày đối với trí tuệ và đối với mọi người Việt Nam.
Vậy tại sao trí thức Việt Nam đã không phản ứng một cách phẫn nộ? Tình trạng này rất không bình thường. Tất cả những lý do "quốc tế" như hèn nhát, vụ lợi đều không thuyết phục. Những lý do này dân tộc nào cũng có nhưng sao họ vẫn coi tự do là một giá trị không thể thương lượng và thỏa hiệp vì là thành phần không thể thiếu của phẩm giá con người? Lý do chính phải tìm trong di sản văn hóa và lịch sử. Văn hóa Khổng Giáo truyền thống của chúng ta là một văn hóa nô lệ. Kẻ sĩ, tiền thân của trí thức Trung Quốc và Việt Nam ngày nay, chỉ được đào tạo để làm tôi tớ cho kẻ cầm quyền và cũng chỉ nuôi mộng được làm công cụ cho một chính quyền. Chúng ta ra khỏi Khổng Giáo chỉ để rơi vào chủ nghĩa cộng sản mả kẻ viết bài này và nhiều người khác đã nhận định chỉ là một thứ Khổng Giáo tân trang. Các dân tộc khác chau chủ yếu ở lớp trí thức. Trí thức Việt Nam mang trong người một tâm hồn nô lệ và vẫn chưa loại bỏ được nó để có thể sống như những con người tự do, như phản ứng yếu ớt trước vụ án bỉ ổi này vừa chứng tỏ.
Hai bí ẩn
Vụ án này cũng nhắc lại hai bí ẩn lớn.
Bí ẩn thứ nhất là tại sao chính quyền lại chủ động gây ra bạo loạn? Câu trả lời tự nhiên là họ muốn tạo ra một lý cớ để cấm đoán những cuộc biểu tình chống Trung Quốc. Chắc chắn là thế nhưng đây có thể không phải là lý do chính. Khả năng xảy ra những cuộc biểu tình lớn rất thấp và chính quyền cộng sản không cần dàn dựng những cuộc đốt phá dữ dội như vậy để có cớ ngăn chặn. Mặt khác, việc Trung Quốc chịu những chi phí rất lớn để đưa giàn khoan HD 981 và trên một trăm tầu hộ tống tới thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền của Việt Nam tại một nơi mà khả năng tìm ra dầu khí đã được biết trước là không đáng kể để rồi bị thế giới lên án là điều rất khó hiểu. Không thể loại trừ khả năng là họ muốn tạo một biến cố sôi nổi để làm hậu thuẫn cho một người nào đó trong cuộc tranh giành quyền lực quyết định tại Việt Nam, quyết định bởi vì với hiến pháp 2013 thể chế chính trị Việt Nam đã gần như rập khuôn theo Trung Quốc và ai nắm được chức tổng bí thư đảng cộng sản cũng sẽ nắm luôn chức chủ tịch nước và hoàn toàn làm chủ tình thế. Người mà Trung Quốc muốn đưa vào chức vụ này không thể là ai khác hơn là Nguyễn Tấn Dũng.  
Tất cả các cấp lãnh đạo cao nhất trong Đảng Cộng Sản Việt Nam đều phục tùng Trung Quốc nhưng Bắc Kinh cần một người vừa phục tùng họ vừa đủ mạnh bạo để thẳng tay trừng trị những thành phần chống lại họ. Người đó chỉ có thể là Nguyễn Tấn Dũng. Thật là sai lầm khi nhìn ông Dũng như là một người thân phương Tây. Trong thế giới hiện nay mọi người đều hiểu rằng phương Tây đồng nghĩa với dân chủ và một người muốn mở cửa về phương Tây không lặp đi lặp lại một cách dữ dằn rằng sẽ nhất định không để nhem nhúm những nhóm đối lập. Trong mười bốn năm cầm quyền -năm năm trong cương vi phó thủ tướng thường trực với ông thủ tướng bù nhìn Phan Văn Khải và chín năm với chức vụ thủ tướng- ông Dũng đã đưa Việt Nam vào rất sâu trong thế lệ thuộc Trung Quốc, để cho thâm thủng mậu dịch với Trung Quốc gia tăng chóng mặt, biến Việt Nam trên thực tế thành cảng xuất khẩu hàng Trung Quốc mang nhãn made in Vietnam, cho Trung Quốc thuê rừng đầu nguồn, lập những khu riêng của người Hoa, đem cả tù nhân sang làm việc, cho Trung Quốc khai thác bôxit tại Tây Nguyên, để Trung Quốc trúng thầu 80% các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng. Đừng quên Nguyễn Tấn Dũng là lãnh đạo cao cấp duy nhất công khai và quả quyết bênh vực dự án bôxít. Cũng đừng quên ông Dũng là con nuôi ông Lê Đức Anh cha đẻ của chọn lựa lệ thuộc Trung Quốc. Không thể đổ lỗi hết cho bộ chính trị Đảng Cộng Sản, ông Dũng chẳng coi bộ chính trị ra gì cả, bộ chính trị đã muốn thanh trừng ông mà không được. Những cuộc bạo loạn này tạo lý cớ để cấm mọi cuộc biểu tình chống Trung Quốc và vì thế chúng có lợi cho Trung Quốc.  Chúng cũng dựng ra một vấn đề an ninh giả tạo và do đó tăng cường vai trò của công an và quân đội nằm trong tay Nguyễn Tấn Dũng. Chúng đã do công an chủ động và công an hoàn toàn nằm trong tay ông Dũng. Và cũng có cả bàn tay của Trung Quốc. Các chuyên gia Trung Quốc cũng giả vờ cãi nhau để tiếp tay đập phá như một nhân chứng cho biết (3) Một chi tiết đáng lưu ý trong các vụ bạo loạn này là đoàn người đi đầu giơ cao những cành lá trong khi người Việt Nam không có tập quán này.
Vụ giàn khoan HD 981 và các vụ bạo loạn đốt phá sau cùng đã chỉ có lợi cho Nguyễn Tấn Dũng. Với sự tâng bốc của một số trí thức -không biết vì sai lầm hay vì một lý do nào khác- ông Dũng đang là một người bị thù ghét nhất vì bất tài và tham nhũng bỗng nhiên trở thành người dũng cảm dám đương đầu với Trung Quốc và đã về đầu trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tai Hội Nghị Trung Ương 10. Hiện nay khả năng ông Dũng sẽ trở thành tổng bí thư đảng kiêm chủ tịch nước rất lớn. Nếu khả năng này thành sự thực thì nó sẽ là một đại họa cho đất nước và những người đối lập dân chủ.
Bí ẩn thứ hai là là nhân vật Lê Thị Phương Anh. Không ai có thể ngạc nhiên là Phương Anh đã bị công an khuất phục khiến phải từ chối luật sư, nhận tội và xin khoan hồng bởi vì có vô số biện pháp trấn áp mà công an có thể sử dụng với một nữ tù nhân có ba con thơ đang đợi mẹ. Vả lại Phương Anh cũng không phải là một mẫu người cứng cỏi.
Người phụ nữ 30 tuổi này từ một cô gái tỉnh lẻ 20 tuổi ngây thơ và ít học đã bất ngờ bị cuốn hút vào một cơn cuồng phong kỳ dị. Lấy chồng có học thức và địa vị, rồi ra Hà Nội và sự nghiệp bốc lên như diều. Trong vài tháng từ một cô bán hàng trở thành trưởng quầy hàng rồi trưởng phòng tiếp thị một công ty nhà nước lớn, được tuyên dương như một biểu tượng của sự thành công, được hết tổng giám đốc công ty đến phó thủ tướng Hoàng Trung Hải, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tổng bí thư Nông Đức Mạnh nhận làm con nuôi và hứa hẹn hàng tỷ đô la. Sau cùng cô đã cùng chồng là Lê Anh Hùng tố giác các cấp lãnh đạo cao nhất của chế độ về những tội danh cực kỳ nghiêm trọng. Theo lời tố giác của cặp vợ chồng này thì cựu tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã ăn chặn tiền mua vũ khí, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã hiếp dâm một cô gái vị thành niên và sau đó giết nạn nhân để phi tang; phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đứng đầu một đường dây buôn lậu ma túy và đã giết nhiều người để xóa chứng cớ. Cũng theo vợ chồng Lê Anh Hùng – Phương Anh thì Hoàng Trung Hải đã khống chế được Nguyễn Tấn Dũng sau khi nắm được toàn bộ tài liệu và phim ảnh về chuyện hiếp dâm và giết người của ông này. Hai người cũng tiết lộ rằng cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã giúp họ buôn rượu lậu. Điều nghiêm trọng là Phương Anh đã nhận là chính mình đã có tội là đồng lõa trong đường dây ma túy của Hoàng Trung Hải và trong vụ hiếp dâm và giết người mà theo cô ta ông Dũng là thủ phạm. Tôi phải thú thực là những tố giác của vợ chồng Lê Anh Hùng - Phương Anh quá động trời để có thể tin. Nhiều người có lẽ cũng có cùng cảm nghĩ như tôi, nhưng chế độ này thiếu gì những bí mật động trời? Có ai ngờ rằng chuyện ông Hồ Chí Minh thông dâm với cô Nông Thị Xuân rồi thủ tiêu sau khi có con với cô ta lại dần dần được xác nhận là đúng? Có ai ngờ rằng từ năm 1984 trở về sau Lê Đức Anh, cùng với Nguyễn Văn Linh, lại khẩn khoan năn nỉ và làm tất cả, kể cả dâng một phần quần đảo Trường Sa, để xin được hàng phục Trung Quốc? Và trong vụ giàn khoan HD 981 vừa rồi có ai ngờ rằng một chính quyền Việt Nam lại có thể chủ động gây bạo loạn đốt phá các doanh nghiệp Việt Nam?
Điều chắc chắn là những tố giác của vợ chồng Lê Anh Hùng – Phương Anh chưa hề được điều tra tương xứng với mức độ nghiêm trọng của chúng. Đã chỉ có công an Quảng Trị, một cơ quan hoàn toàn không đủ thẩm quyền, điều tra qua loa và đi tới kết luận là "Lê Anh Hùng có dấu hiệu phạm tội vu khống" và "những nội dung Lê Anh Hùng tố cáo không có căn cứ chứng minh là có thực". Nghĩa là không kết luận gì cả. Vả lại làm sao những điều tra viên của công an Quảng Trị có thể thẩm vấn các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Hoàng Trung Hải, Nguyễn Minh Triết để kết luận những tố giác của vợ chồng Lê Anh Hùng – Phương Anh đúng tới mức độ nào? Sau đó Lê Thị Phương Anh bị ép buộc phải nhận là chồng mình mắc bệnh tâm thần. Trong cùng bản kết luận điều tra này (số 04/KLĐT ngày 28.4.2010) lại có "quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với Lê Anh Hùng" vì lý do "bị can thực hiện hành vi sai trái trong tình trạng tâm thần hoang tưởng". Kết luận một người có bệnh tâm thần hay không là công việc của một hội đồng y sĩ chuyên khoa chứ đâu có thuộc thẩm quyền của công an? Người ta tưởng như sống lại những năm 1960 tại Liên Xô trong đó các bệnh viện tâm thần trở thành nhà tù của những người bất đồng chính kiến. Sau đó Lê Anh Hùng bị đưa vào nhà thương điên trong hai tháng rưỡi rồi được trả tự do và được coi là đã chữa trị xong. Nhưng lần này dù đã được chứng nhận là không còn điên nữa Lê Anh Hùng vẫn tiếp tục giữ nguyên những lời tố giác. Từ ba năm qua anh đã đã gửi hồ sơ tố giác tới dư luận và hơn 60 cơ quan để yêu cầu được điều tra một cách nghiêm chỉnh. Mặt khác Phương Anh cũng xác nhân là chồng mình không hề mắc bệnh tâm thần và cô đã chỉ khai như vậy vì bị công an ép buộc. Cố gắng che đậy của chính quyền khiến người ta phải nghĩ rằng những tố giác của vợ chồng Lê Anh Hùng – Phương Anh ít ra cũng có một phần sự thực. Càng có lý do để nghi ngờ vì Lê Thị Phương Anh, một cô gái tỉnh lẻ duyên dáng nhưng ngây thơ và yếu đuối, là mẫu người dễ sử dụng làm bình phong cho những âm mưu đen tối. Cũng cần nói thêm là hai vợ chồng cho biết là chính vì tiếp tục tố giác mà họ đã là nạn nhân của những hành động trù dập rất thô bạo; họ đã bị côn đồ hành hung nhiều lần, Phương Anh còn bị bắt cóc và hiếp dâm. Dĩ nhiên công an không hề truy lùng các thủ phạm.
Người ta chưa thể kết luận gì hết trong vụ này ngoại trừ đã có sự kiên trì tố giác của hai vợ chồng và cũng đã có những biện pháp khỏa lấp thô bạo từ phía chính quyền. Ít ra cũng cần một cuộc điều tra đúng nghĩa.
Đến bao giờ?
Vụ án Lê Thị Phương Anh, Đỗ Nam Trung và Phạm Minh Vũ về tầm vóc là một vụ án nhỏ. Nhưng có những trường hợp mà một sự kiện nhỏ hé mở những vấn đề lớn. Vụ án này lột trần chân dung và bản chất của chế độ này, một chế độ mà dân tộc ta đã phải chịu đựng từ 70 năm qua và vẫn còn đang phải chịu đựng và đã khiến chúng ta là chúng ta hiện nay: tụt hậu bi đát về mọi mặt, một quốc gia không đáng kể trên thế giới và một dân tộc vẫn còn bị từ chối những quyền con người cơ bản nhất.
Đến bao giờ chúng ta mới rũ bỏ được tai họa này? Câu hỏi này đã được nhiều người đặt ra và chúng ta đang dần dần tìm thấy câu trả lời. Nó ở ngay trong những người đặt câu hỏi. Việt Nam sẽ có dân chủ ngay sau khi trí thức Việt Nam quả quyết từ giã tâm hồn nô lệ để sống như những con người tự do.
Nguyễn Gia Kiểng
(02/2015)
Ghi chú:
(2) "Những công nhân nữ họ nói họ  khi họ đang làm việc vào buồi sáng thì có công an vào yêu cầu họ nghỉ việc, đình công đi (…)
Tôi nhìn thấy những công an chạy theo nhóm biểu tình, (thấy) họ có vẻ rất là hiền hòa, (thì) có vẻ nôn nóng và hơi thất vọng. Tôi có chụp một tấm hình hai người công an đang núp sau gốc cây"
. (Lời công nhân Nguyễn Đăng trong bài tường thuật của Mặc Lâm, RFA, 14-05-2014)
(3) "Tôi quan sát thấy trên tầng hai của một công ty thì có mấy ô cửa sổ bị đập vỡ tôi có hỏi thì công nhân nói là có sự cãi nhau giữa chuyên gia Trung Quốc bất đồng quan điểm nên đánh nhau và tự đập phá" (Lời công nhân Nguyễn Đăng trong bài tường thuật của Mặc Lâm, RFA, 14-05-2014)