Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2015

Hãy để 30/4 như một ngày bình thường


Ngày 30/4

Ngày 30/4 được tác giả liên hệ với những ký ức trong gia đình, lớp người đi trước, bạn bè và bản thân thuộc thế hệ 9X.

Tôi sinh ra và lớn lên sau gần 20 năm đất nước được “giải phóng”.
Hầu như chỉ nghe bà nội kể và nhà trường rao giảng: “30/4 là ngày giải phóng đất nước khỏi Đế quốc Mỹ xâm lược”.
Thế nhưng nhiều người mà tôi tiếp xúc lại có cái nhìn khác về cái ngày này.
Sinh trưởng trong một gia đình hậu duệ cộng sản, bố mẹ tôi được coi như những “hạt giống đỏ” vì ông bà nội ngoại đều là những công thần chế độ.
Ông nội của tôi từng giữ hàm viện trưởng (tương đương chức thứ trưởng lúc bấy giờ). Ông ngoại của tôi từng cai quản cả một bệnh viện lớn ở Hà Nội thời kỳ “kháng chiến chống Mỹ cứu nước”.


Bố mẹ của tôi không những thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa xã hội từ bé, mà còn được học hành đến nơi đến chốn.

VỚI NHỮNG THẾ HỆ ĐI TRƯỚC

Nay tôi xin nói về 30/4 với những thế hệ đi trước.
Hồi nhỏ, khi đi học những trường chuyên lớp chọn ở Hà Nội, chúng tôi đã được ‘quán triệt’ tư tưởng “30/4 là ngày giải phóng đất nước khỏi ách xâm lược của Đế quốc Mỹ, chúng ta phải tự hào vì là dân tộc duy nhất trên thế giới đánh thắng Đế quốc Mỹ”.
Khi về nhà, tôi hỏi bố tôi có thấy tự hào khi đánh thắng Đế quốc Mỹ không, bố tôi chỉ lẳng lặng trả lời ”Khi nào con lớn sẽ hiểu”. Bản thân bố tôi từng làm nghiên cứu sinh và làm việc tại Warsaw, Ba Lan những năm 1990. Có lẽ khoảng thời gian đó bố có cơ hội được tiếp xúc với mặt trái của chủ nghĩa xã hội.
Tôi từng hỏi bà nội: “30/4 là ngày gì mà nhiều chương trình văn nghệ thế ạ?” Bà từng trả lời với giọng đầy hả hê: “Là ngày đất nước giải phóng khỏi tay Mỹ-Diệm”.
Dạo gần đây, khi về Việt Nam, cũng với câu hỏi đó và bà chỉ xua tay đáp “Buồn lắm cháu ạ”. Tôi cũng dần hiểu thế nào là buồn, một con người dành cả đời vì lý tưởng cộng sản mà.
Mẹ tôi kể rằng, anh họ của mẹ từng giữ chức phó giám đốc Đài Phát thanh Truyền hình Sài Gòn trước năm 1975.

Sài Gòn trước 1975
Sài Gòn trước 1975 từng là một đô thị phát triển nổi bật ở trong khu vực, nhất là trong thương mại, kinh tế thị trường.

Sau ngày 30/4, bác ra Hà Nội ăn giỗ, bị anh ruột của mẹ tôi (đến khi nghỉ hưu giữ hàm đại tá của Quân đội Nhân dân Việt Nam) ghẻ lạnh và coi thường ra mặt đến nỗi không thèm ngồi cùng mâm cỗ. Giọng kể của mẹ có chín phần là thương xót cho anh họ, mười phần là không hài lòng với cách hành xử của anh ruột.
Hồi tôi học cấp ba, trong một tiết học văn sát ngày 30/4, cô giáo bảo các bạn đóng cửa lại và tâm sự: “Nếu ngày 30/4 không xảy ra, có lẽ bây giờ Sài Gòn là Singapore của Châu Á rồi, chúng ta không phải đi du học đâu xa, cứ vào miền Nam mà học, tiền Việt sẽ có giá trị hơn, tiếng Việt sẽ được dạy ở nhiều nơi, văn hóa Việt sẽ vang danh bốn phương gấp nhiều lần, và văn hóa K-pop (nhạc Hàn Quốc) sẽ không thể lấn át thế hệ Việt trẻ như ngày hôm nay”.

VỚI NHỮNG 9X BẠN TÔI

Còn ngày 30/4 với những bạn bè thế hệ 9x của tôi, tức là thế hệ được sinh ra trong thập niên 1990, thì sao?
Hồi tôi mới sang Anh du học, vào cái ngày 30/4 đầu tiên xa gia đình, tôi thấy bạn bè Việt Nam đồng loạt thay ảnh cá nhân (trên Facebook) bằng cờ đỏ sao vàng.


Sau hai năm, hình như 30/4 bây giờ chỉ còn là cái ngày mà news feed (một chức năng theo dõi người dùng trên Facebook) của tôi hiện toàn ảnh đi chơi, ăn uống, và cờ đỏ sao vàng nay còn đâu.
Có lẽ đối với chúng tôi, 30/4 giống như một ngày thống nhất về mặt địa lý chứ không còn là giải phóng đất nước.
Quan điểm này có thể không đúng với các bạn ở miền Bắc, nhưng ở miền Nam hình như nó đang càng ngày càng rõ ràng hơn.
Nhiều bạn trẻ đang tranh đấu cho một đất nước với những quyền căn bản của công dân: Phản biện nhà nước.
Còn với tôi…?
30/4 là “ngày giải phóng đất nước” ư, vậy sao người dân Việt Nam vẫn khổ thế?
Ở trong nước hình như người dân không còn tính người trong cụm từ ‘con người’.

30/4 là một dịp 'ăn nhậu', 'xả hơi' với nhiều người, trong đó có giới trẻ ở Việt Nam, theo tác giả.

Ông cưỡng hiếp cháu, nạn đánh chó tàn nhẫn lên hết các mặt báo thế giới, chồng đánh vợ tàn bạo, môi trường ô nhiễm cực độ, tắc đường không lối thoát tại các thành phố lớn, hối lộ tràn lan từ trên xuống dưới, thực phẩm bẩn ngay tại thủ đô, lòng dân oán hận từ ngay trong mỗi bữa cơm tối… là những thứ mà tôi thấy.

HÃY LÀ NGÀY BÌNH THƯỜNG

30/4 là ngày “giải phóng đất nước” sao một bộ phận người Việt vẫn phải bươn chải tại nơi xứ người?
Ở hải ngoại, với những nước châu Âu mà tôi đã từng học tập đặc biệt là Anh Quốc, hình như ở London người Việt nổi tiếng nhất là trồng cần sa, sau đó làm nail, và cuối cùng quán ăn. Khi nói về Việt Nam, liên tưởng của lái xe taxi Anh: Chiến tranh Việt Nam (Vietnam War).
Một người bạn Ấn Độ của tôi kể về ấn tượng đầu tiên khi nghe hai chữ Việt Nam: “Đất nước các bạn rất nổi tiếng với món thịt chó” (đây là con vật biểu tượng của sự trung thành).


Còn thầy giáo người Anh của tôi (từng dạy học tại Apollo, Việt Nam) thổ lộ: “Lý do tôi không muốn lập nghiệp tại Việt Nam vì tham nhũng Việt Nam quá tràn lan, không hối lộ thì không làm được việc. Mà đối với người Anh, hối hộ là phạm pháp dù anh sống ở đâu”.
Khi tôi sang Pháp học, một anh chàng người Hoa kể: “Rất nhiều phụ nữ Việt sang miền nam Trung Quốc lấy chồng, mà những mười ông chồng lấy một bà vợ Việt”.
Bây giờ thay lời kết, tôi nghĩ rằng có lẽ 30/4 hãy nên là một ngày bình thường như bao ngày.
Không kèn trống, không văn nghệ, hãy để nó trôi đi như bao ngày bình dị khác. Xin các thế hệ đi trước đừng khoác lên cho nó một cái ngày “Quốc Tang” hay “Giải Phóng”. Vì thế hệ trẻ cần một sự kiến tạo chứ không phải một di sản tang thương.
Hỡi ôi 30/4!
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả, một sinh viên Việt Nam đang học tập tại Châu Âu. Bài được gửi tới BBC sau khiBBC mời độc giả tham gia viết bài vở, đóng góp tư liệu, chia sẻ thông tin, cảm nghĩ về sự kiện 30/04/1975.

  1. 8 câu chuyện nhỏ chứa đựng bài học lớn
  2. 100 lời khuyên lúc lâm chung của vị Thầy thuốc Tru...
  3. Tổ tiên đã lưu lại cho chúng ta 27 bí quyết, thật ...
  4. Tương quan nội bộ thay đổi lớn trước Hội nghị 11 v...
  5. Thích to để “tự sướng”

Sự thật 16 tấn vàng của VNCH đã được Cộng Sản bán cho Liên Xô

Sau loạt bài “Câu chuyện 16 tấn vàng ngày 30-4-1975” đăng trên Tuổi Trẻ tháng 4-2006, nhiều bạn đọc đã đặt câu hỏi: 16 tấn vàng của chính quyền Sài Gòn để lại được sử dụng thế nào? .



Những đoạn liên quan đến việc bán 40 tấn vàng trong cuốn sách Lịch sử Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam


Sự thật 16 tấn vàng của VNCH đã được Cộng Sản bán cho Liên Xô


Nguyên thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN Lữ Minh Châu đã trả lời câu hỏi này: “Nó đã được bán ra quốc tế trong tổng số hơn 40 tấn vàng để giải quyết những vấn đề khó khăn cấp bách của quốc gia, trong đó có miếng ăn của người dân”.
Đến nay những người trong cuộc vẫn còn nhớ rất rõ thương vụ đặc biệt này.
Qua kênh Liên Xô
“Chuyến hàng đầu tiên rời Hà Nội ngày 1-12-1979, số lượng 101 hòm, nặng 4.455kg... Sau đó là những hợp đồng giao vàng tái chế, vay mượn, cầm cố bán vàng với số lượng hơn 40 tấn, thu được trên 500 triệu USD”- đó là một đoạn trích phát biểu của ông Nguyễn Văn Dễ, nguyên tổng giám đốc Ngân hàng Vietcombank, được ghi lại trong cuốn Lịch sử Ngân hàng Ngoại thương VN.
Trao đổi trực tiếp với người viết, ông Dễ tâm sự sau năm 1975 VN rất cần ngoại tệ để giải quyết những nhu cầu cấp bách của quốc gia như mua lương thực, nguyên liệu, trả nợ quốc tế đến hạn phải trả... Đặc biệt là miếng ăn của người dân thiếu hụt đến mức phải ăn trực tiếp cả hạt bo bo chưa kịp xay xát, loại lúa mì, lúa mạch phẩm cấp thấp. Các lãnh đạo chủ chốt của Chính phủ đều phải dành nhiều thời gian chạy gạo cho thấy tình hình hết sức khẩn cấp...
Để tháo gỡ các vấn đề này, nội lực nông nghiệp trong nước lúc ấy không đáp ứng nổi, đòi hỏi phải trông ra nguồn lương thực quốc tế. Nhưng có mua nợ thì cũng phải trả, và lấy ngoại tệ ở đâu ra? Giải pháp khả thi nhất bấy giờ là bán vàng lấy ngoại tệ. Tuy nhiên, thương vụ đặc biệt này hoàn toàn không đơn giản như nhiều người nghĩ, kể cả một số cán bộ cấp cao. Bởi nguồn vàng của miền Nam thì có nhưng lại “kẹt” ở xuất xứ của VN cộng hòa, nhất là lại đang trong giai đoạn cấm vận gay gắt của Mỹ.
Cuốn Lịch sử Ngân hàng Ngoại thương ghi lại: “Kho vàng lúc ấy như sau: ngoài số vàng không đáng kể của miền Bắc (đơn vị tạ), Ngân hàng Nhà nước đã tiếp nhận vàng của chính quyền Sài Gòn và vàng của các nguồn khác. Cơ cấu của kho vàng rất không “đồng bộ”: vàng thỏi của Anh mỗi thỏi nặng 12,7kg, vàng thỏi của Mỹ mỗi thỏi nặng 10kg. Các thỏi đều có mã riêng, nhãn hiệu, xuất xứ. Ngoài vàng thỏi còn có các loại vàng lá Kim Thành, các loại vàng vụn (kể cả nhẫn, vòng, kiềng)".
"Ban đầu những người có trách nhiệm đều nghĩ đơn giản: ta có vàng, đem bán lấy ngoại tệ, việc đó đâu có khó. Nhưng ngay tại phiên giao dịch đầu tiên có tính chất thăm dò với Liên Xô, các bạn Liên Xô cho biết hàng hóa trên thị trường vàng quốc tế phải là những thỏi vàng chuẩn của Anh, Mỹ hoặc Liên Xô. Các loại vàng thỏi Anh, Mỹ... có xuất xứ tại VN không thể tiêu thụ trên thị trường vì có quá nhiều rủi ro do chính sách cấm vận của Mỹ đối với VN”.
Nhắc lại thế bí này, ông Dễ kể VN và Liên Xô đã bàn bạc với nhau và thống nhất phải tái chế vàng theo tiêu chuẩn của Liên Xô, mỗi thỏi 1kg. Khoảng cuối năm 1979, theo lệnh của Chính phủ và sự ủy nhiệm của Ngân hàng Nhà nước, Vietcombank ký với Liên Xô các hợp đồng tái chế vàng, vay mượn cầm cố vàng và tiêu thụ vàng trên thị trường thế giới.
“Liên Xô lúc ấy rất thân thiện, giúp đỡ VN. Tôi bay sang đó liên tục và thường chỉ có món quà duy nhất là mấy chai Nếp Mới mà họ gọi là vodka VN” - ông Dễ nhớ phía Liên Xô cung cấp các hòm thép tiêu chuẩn ngân hàng của họ. Việc chuyên chở vàng được thực hiện bằng máy bay thương mại Liên Xô, nhưng quá trình thực hiện được bảo mật để hành khách không được biết loại hàng đặc biệt này.

Ông Nguyễn Duy Lộ, người tham gia thương vụ đặc biệt 40 tấn vàng năm 1979 - Ảnh: Q.V.
Những kiện hàng bí mật trên Aeroflot
Là người tham gia nhiệm vụ này ở đoạn trong nước, nguyên phó tổng giám đốc Vietcombank Nguyễn Duy Lộ cũng không quên: “Ông Dễ phụ trách đoạn ở Liên Xô. Còn tôi là thành viên hội đồng kiểm kê quốc gia lo những việc trong nước như kiểm kê số lượng vàng, đóng hòm theo tiêu chuẩn và niêm phong. Vàng từ kho ngân hàng được bảo mật chở ra sân bay Nội Bài. Công tác bảo vệ rất kín. Tôi kiểm tra niêm phong, hoàn tất thủ tục xong mới chuyển ra máy bay của Hãng hàng không Liên Xô. Ngay cả nhân viên sân bay cũng ít người được biết loại hàng đặc biệt này”.
Khi các hòm vàng được đưa lên máy bay, ông Nguyễn Văn Dễ lúc ấy là phó tổng giám đốc Vietcombank có nhiệm vụ trực tiếp theo chuyến bay của Hãng hàng không Aeroflot. Ông được cấp hộ chiếu ngoại giao đi Liên Xô bất cứ lúc nào cũng được để lo đàm phán, ký kết hợp đồng giao hàng, tái chế vay cầm cố bằng vàng, bán hàng với Ngân hàng Ngoại thương Liên Xô. Máy bay hạ cánh, ngân hàng phía Liên Xô có xe bọc thép đón sẵn. Họ không mở hòm, kiểm đếm số lượng vàng trong đó mà chỉ niêm phong rồi tiếp tục chuyển về kho bảo mật.
Nhiều năm sau, ông Dễ vẫn nhớ rất chi tiết: “Tất cả khoảng hơn 40 tấn, trong đó có 16 tấn vàng thỏi tiếp quản của ngân hàng VN cộng hòa, còn lại là các loại vàng khác nhau từ những nguồn khác. Ngay sau chuyến đầu tiên chuyển đi 4.455kg trong 101 hòm vào ngày 1-12-1979, Chính phủ VN đã gửi công hàm đến Liên Xô đề nghị vay 100 triệu USD để dự phòng thanh toán nợ đến hạn trong khi chưa có nguồn thu xuất khẩu”.
Chính ông Dễ được Bộ Ngoại giao ủy nhiệm ký hợp đồng vay ngoại tệ này. Phía Liên Xô đồng ý cho vay, nhưng phải theo thông lệ thương mại quốc tế vì họ cũng không có ngoại tệ dư thừa, phải huy động từ thị trường tự do.Theo đó, VN chỉ có thể được vay với điều kiện thế chấp bằng chính số lượng vàng chuyển sang Liên Xô. Hiệp định vay 100 triệu USD thế chấp bằng vàng đã hoàn tất vào khoảng tháng 3-1980.
“Sở dĩ VN phải vay nóng ngoại tệ như vậy bởi lượng vàng chuyển sang tái chế ở Liên Xô không kịp đem ra thị trường bán, trong đó có Thụy Sĩ. Các nhu cầu cấp bách của quốc gia gồm cả vấn đề nóng bỏng lương thực cho người dân đòi hỏi phải có ngoại tệ ngay. Sau đó VN dùng tiền bán vàng trả lại cho Liên Xô”.
Hầu như tháng nào ông Dễ cũng bay sang Liên Xô. Hơn 40 tấn vàng được chuyển đi nhiều đợt. Nhiệm vụ bảo vệ của VN chỉ đảm trách đến khi đưa lên máy bay Liên Xô, sau đó thuộc trách nhiệm của họ. Khoảng năm 1988, Vietcombank đã chuyển về nước lại khoảng 2,7 tấn vàng còn gửi tại Liên Xô do tình hình bất ổn của họ. Đặc biệt, khoảng 5,7 tấn vàng gửi tại Ngân hàng Thụy Sĩ cũng được VN chuyển về Tiệp Khắc. Họ đã bán giúp để VN lấy ngoại tệ sử dụng cho nhu cầu quốc dân. Trước khi Tiệp Khắc gặp biến động chính trị, khoảng 500kg vàng VN còn lại ở nước họ cũng được chuyển kịp thời về nước.

Quốc Việt

Năm 1979, chở 40 tấn vàng đi bán để giải quyết khó khăn cấp bách và để mua gạo. Nhưng 10 năm sau, năm 1989, VN đã nhập vàng về, gấp 4 lần số chở đi bán.Và một đề xuất của bộ trưởng thương mại mà lúc ấy nhiều người cho là “bị điên”: VN xuất khẩu gạo!

Thứ Tư, 15 tháng 4, 2015

(Bài đã bị xóa) Tổng Thanh tra Chính phủ yêu cầu thanh tra trung thực việc chặt cây xanh

Bài đã bị xóa đây nè cả nhà

Phản hồi Thanh tra Chính phủ, UBND TP Hà Nội khẳng định, dự án cải tạo và thay thế cây xanh trên địa bàn Thủ đô đã được cấp thẩm quyền phê duyệt theo đúng quy định pháp luật nhưng việc thanh tra vẫn đang được tiến hành.
Hà Nội vẫn đang thanh tra việc chặt hạ cây xanh gây bức xúc dư luận thời gian qua.


Hà Nội vẫn đang thanh tra việc chặt hạ cây xanh gây bức xúc dư luận thời gian qua.
Tại cuộc họp báo thường kỳ của Thanh tra Chính phủ sáng 15/4, ông Trần Đức Lượng - Phó tổng Thanh tra Chính phủ - cho biết UBND TP Hà Nội đã có văn bản báo cáo cơ quan này về chủ trương, cơ sở pháp lý trong việc chặt hạ, thay thế 6.700 cây xanh gây bức xúc dư luận thời gian qua.
“Họ gửi báo cáo cho chúng tôi từ ngày 13/4. Nói đầy đủ thì đây là dự án cải tạo và thay thế cây xanh trên địa bàn Hà Nội. Hiện nay Hà Nội vẫn đang chỉ đạo thanh tra việc đó. Dự án này đã được cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật. Nội hàm của việc thay thế cây ở đây là gì? Đó là thay thế cây sâu mọt, cây cong vênh, cây dễ khả năng đổ gãy vào mùa mưa bão hoặc cây xanh gây phương hại tới môi trường. Nếu chỉ thay thế những cây như thế thì chúng ta phải ủng hộ chứ. Nhưng tổ chức thực hiện đã đúng chưa thì bây giờ phải có cơ quan đánh giá. Bây giờ Hà Nội đang làm việc đó”- ông Lượng cho biết.
Ông Lượng nói tiếp: “Đích thân Tổng Thanh tra Chính phủ đã điện thoại tới đoàn thanh tra đó (đoàn thanh tra của UBND TP Hà Nội - PV) yêu cầu phải làm một cách khách quan, trung thực, chính xác để trả lời cho công luận được rõ. Thanh tra Chính phủ cũng có đoàn giám sát cuộc thanh tra này. Cái nào đúng thì chúng ta ủng hộ, còn làm sai thì chúng ta lên án và phải xử lý theo quy định của pháp luật”.
Như Dân trí phản ánh trước đó, Phó tổng Thanh tra Chính phủ Nguyễn Đức Hạnh đã ký văn bản số 573/TTCP-C.I gửi Chủ tịch UBND TP Hà Nội cho biết những ngày gần đây nhiều báo đài, mạng xã hội đăng tải thông tin về việc UBND TP Hà Nội triển khai dự án chặt hạ, thay thế 6.700 cây xanh trên một số tuyến phố thuộc địa bàn Hà Nội có nhiều vấn đề chưa minh bạch, rõ ràng, có dấu hiệu vi phạm khoản 2, điều 14 Luật Thủ đô và khoản 1, điều 14 Nghị định 64/2010 của Chính phủ quy định về quản lý cây xanh đô thị, gây bức xúc dư luận nhân dân.
“Tổng Thanh tra Chính phủ đề nghị Chủ tịch UBND TP Hà Nội sớm chỉ đạo việc tiến hành thanh tra, kiểm tra, làm rõ về chủ trương, trình tự, thủ tục lập, thẩm định phê duyệt dự án và xử lý nghiêm những sai phạm của tổ chức, cá nhân liên quan theo đúng quy định pháp luật. Đồng thời có biện pháp ngăn chặn kịp thời việc đốn hạ cây xanh tương tự có thể xảy ra. Thực hiện nghiêm túc việc bảo vệ cây xanh trên địa bàn theo quy định Luật Thủ đô và quy định pháp luật khác có liên quan”- văn bản của Thanh tra Chính phủ nêu rõ.
Thanh tra Chính phủ đề nghị UBND TP Hà Nội báo cáo kết quả xử lý, gửi tới cơ quan này trước ngày 15/4.
Theo đại biểu Quốc hội Nguyễn Sỹ Cương việc UBND TP Hà Nội cho phép chặt hạ ồ ạt cây xanh trong thời gian qua là có biểu hiện vi phạm quy định của Luật Thủ đô. Điều 14 Luật Thủ đô đã quy định rất rõ việc quản lý và bảo vệ môi trường Thủ đô được thực hiện theo nguyên tắc phát triển bền vững gắn với việc duy trì các yếu tố tự nhiên, văn hóa và lịch sử ở Thủ đô; bảo đảm tỷ lệ không gian xanh theo quy hoạch. Đặc biệt tại khoản 2 điều 14 quy định: “Trên địa bàn Thủ đô, nghiêm cấm san lấp, lấn chiếm, gây ô nhiễm sông, suối, hồ, công viên, vườn hoa, khu vực công cộng; chặt phá rừng, cây xanh; xả chất thải chưa qua xử lý ra môi trường; sử dụng diện tích công viên, vườn hoa công cộng, sai chức năng, mục đích”.
“Quy định là như vậy nhưng Hà Nội lại cho lập dự án chặt hàng loạt cây xanh. Phải chăng đó là hành vi vi phạm pháp luật?”- ông Cương đặt vấn đề.
Thế Kha

Tổng TTCP gọi điện cho đoàn thanh tra cây Hà Nội


Thông tin được Phó Tổng TTCP Trần Đức Lượng cho biết sáng nay tại  cuộc họp báo về công tác thanh tra quý 1.
cây xanh, Hà Nội, thanh tra, TTCP
Phó Tổng TTCP Trần Đức Lượng (trái). Ảnh: Hồng Nhì
Trả lời câu hỏi của phóng viên về việc đã hết hạn báo cáo của Hà Nội về việc chặt hạ thay thế cây xanh, TTCP đã nhận được báo cáo của Hà Nội chưa, ông Trần Đức Lượng cho biết Hà Nội đã có báo cáo ngày 13/4, hiện Hà Nội đang chỉ đạo đoàn thanh tra làm rõ.
Cũng theo ông, trong việc cây xanh, ta dùng nhiều từ khác nhau, nhưng ở đây nên dùng từ là "cải tạo", "thay thế". Đây là dự án cải tạo, thay thế cây xanh đã được cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật. Nội hàm thay thế cây gì, cây sâu mọt, cong vênh, dễ có khả năng đổ gãy trong mưa bão, làm phương hại đến môi trường, như thế chúng ta phải ủng hộ, xã hội phải ủng hộ.
Tuy nhiên để xem vấn đề tổ chức thực hiện đúng chưa thì bây giờ phải có một cơ quan đánh giá giai đoạn bước đầu. Hiện Hà Nội đã lập đoàn thanh tra liên ngành.
"Đích danh Tổng TTCP cũng thông qua điện thoại trực tiếp yêu cầu đoàn thanh tra phải làm khẩn trương, chính xác, khách quan, đúng pháp luật", ông Lượng cho biết.
Phó Tổng TTCP cũng cho biết thêm, TTCP đã có đơn vị theo sát việc này để bảo đảm cho kết luận đánh giá đó khách quan, chính xác.
"Cái nào đúng thì ta ủng hộ, cây nào sâu mọt, dễ cong vênh, ảnh hưởng môi trường đô thị, còn làm sai thì chúng ta lên án và xử lý theo quy định của pháp luật".
Hồng Nhì

Chủ tịch HN: Không dừng việc chặt cây nguy hiểm


Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo cho rằng, với cây có nguy cơ gãy đổ gây nguy hiểm đến tính mạng, tài sản của người dân thì phải chặt hạ thay thế ngay.
Ông Nguyễn Thế Thảo phát biểu tại hội nghị triển khai nhiệm vụ phòng chống thiên tai năm 2015 của TP sáng nay.
Hà Nội, cây xanh
Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Thế Thảo: Ai cũng muốn đường Nguyễn Chí Thanh sau này giống đường Phan Đình Phùng... Ảnh: hanoi.gov.vn
Liên quan đến kế hoạch thay thế 6.700 cây xanh trên các tuyến phố, Chủ tịch Hà Nội cho hay, các đơn vị đã nóng vội, giản đơn trong cách làm, ai cũng muốn đường Nguyễn Chí Thanh sau này giống đường Phan Đình Phùng nên thay đồng loạt mà không thay từng cây. gây nên sự phản cảm, mọi người không đồng thuận.
Tuy nhiên, theo Chủ tịch TP Nguyễn Thế Thảo, không nóng vội trong cải tạo thay thế cây không đúng chủng loại, cây cong, cây xấu nhưng với cây có nguy cơ gãy đổ gây nguy hiểm đến tính mạng, tài sản của người dân thì phải chặt hạ thay thế ngay, là ưu tiên số một.
Ông cũng cho rằng, không vì dư luận phản ứng trong việc thay thế cây xanh trên một số tuyến phố vừa qua mà dừng việc chặt hạ, dịch chuyển, thay thế những cây có nguy cơ gãy đổ trong mùa mưa bão.
“Sai sót đâu khắc phục đó, ai sai phạm thì xử lý người đó theo quy định pháp luật. Nhưng không dừng việc chặt hạ cây nguy hiểm. Sở Xây dựng tiếp tục lập hồ sơ và thay thế, chỉnh trang cây nguy hiểm theo đúng quy định của pháp luật”.
Chủ tịch TP yêu cầu Sở Xây dựng tiếp tục khảo sát, đánh giá và thay thế những cây xanh có nguy cơ gãy đổ trong mùa mưa bão. Các đơn vị liên quan phải lập hồ sơ từng cây nguy hiểm được thay thế. Hồ sơ phải đầy đủ thông tin, công khai, minh bạch, rõ ràng từ quyết định chặt hạ cây, gỗ chuyển về đâu, bán cho ai, bán như thế nào, cây mới trồng là cây gì.
Hồng Nhì

Việt Nam có chưa?

Ảnh mang tính minh họa. Nguồn Internet
Ảnh mang tính minh họa. Nguồn Internet

Từ cơ xưởng sản xuất của thế giới, chỉ trong vòng mười năm, Tàu chuyển mình thành nhà đầu tư với số vốn hằng tỷ đô-la nhằm vào những khu vực chiến lược trên khắp thế giới. Từ khai thác nguyên vật liệu, kỹ nghệ nông phẩm, du lịch, kỹ nghệ cao cấp, tiếp liệu, …tới kỹ nghệ mũi nhọn, không thứ gí thoát khỏi tham vọng của những nhà tư bản mới lên của Bắc kinh.
Nhưng đó là cách làm ăn của Trung ương đảng cộng sản Tàu. Ở địa phương, đảng làm ăn nhỏ, chỉ lượm bạc cắc thôi.
Thi hành lệnh tiêu diệt Pháp Luân công của Giang Trạch dân, đảng bắt những người tu tập theo Pháp Luân công để bán nội tạng.
Trong hướng kinh doanh về con người, ngày nay, một số đảng viên ở nhiều tỉnh, đi vào vùng quê lùng bắt cóc trẻ con từ 3 tuổi tới 10 tuổi đem bán về miền Nam. Ngành kinh tài mới này đang phát triển mạnh.
Cỏ May nhớ lại lời của một người bạn Tàu nhưng tây học, nhà có tiệm may âu phục ở đường Catinat (sau này là đường Tự do), may quần áo cho Tây lúc Tây còn ở Sài gòn “Tụi bây nên nhớ người Tàu cái gì cũng dám làm hết miễn có bạc cắc”. Anh ta cười để trả lời cái nhìn ngạc nhiên của bạn “Tao là Tàu, nhưng không còn Tàu nữa. Nhờ là Tàu nên tao hiểu rõ người Tàu”.
70 000 vụ bắt cóc trẻ con/ năm
Cùng chung số phận với hằng chục ngàn đứa trẻ khác, bé Jiacheng của vợ chồng nông dân Wu Xinghu ở trong một thôn xóm của vùng quê nghèo Shaanxi đêm khuya đang ngủ với cha mẹ trên giường bị “kẻ lạ” lẻn vào nhà bắt cóc mang đi mất. Từ nhiều năm qua, vợ chồng WU Xinghu ra sức đi tìm nhưng đứa con vẫn biệt tâm tích.
Hằng năm, ở xứ Tàu có không dưới 70 000 trẻ con từ 3 tới 10 tuổi bị “kẻ lạ” bắt trộm đem cung cấp cho thị trường buôn bán trẻ con đang thịnh hành ở Tàu. Nhiều nhà giàu không có con hoặc không có con trai do chánh sách kế hoặc gia đình quá máy móc muốn mua con trai nuôi. Các tỉnh miền bắc như Bắc kinh, Jinan, Shijiazhuang, Zhengzhou, Xian, Zhumagian là nơi trẻ con bị bắt cóc nhiều nhứt. Có lẽ nơi này là sào huyệt của băng đảng những “kẻ lạ”?
Trường hợp bé Jiacheng của vợ chồng Wu Xinghu bị bắt cóc như một cảnh của phim trinh thám được đặc phái viên Ursula Gauthier của tuần báo Le Nouvel Obs, số tháng 3/2015, tường thuật chi tiết.
Đêm đó, khá khuya, bé Jiacheng vẫn còn chơi đùa với cha mẹ, chưa muốn ngủ. Gần nửa  đêm, bé đi ngủ. Theo thói quen, bé được mẹ đặt nằm sát vách để không bị té. Vợ chồng Wu Xinghu cùng nằm kế con.
Lối 2 giờ sáng, Wu Xinghu gịựt mình thức giấc, choàng dậy nhưng vô cùng khó nhọc. Người bị dật dờ và buồn nôn. Như linh tính báo anh có chuyện chẳng lành, anh vội quơ tay tìm con trong mền nhưng không có con ngủ ở đó. Anh vụt bước  xuống giường, tuôn ra cửa thì cửa phòng ngủ mở toang. Chạy ra ngoài thì cửa nhà và cửa rào cũng mở. Anh chạy ngay ra ngoài với ý định rượt theo bất kỳ một bóng dáng nào trông thấy lúc đó nhưng trời lạnh đóng băng. Anh đành trở vào nhà để mặc áo lạnh và mang giày thì áo, quần, giày dép đều bị kẻ lạ cuốn đi hết để ngăn chặn anh không thể đuổi theo được. Tới lúc này, anh mới biết vợ chồng anh ngủ mê và thức dậy khó khăn vì bị đánh thuốc mê.
Vợ chồng anh như bị điên loạn không biết phải làm gì. Chỉ biết cụ thể là bị mất con.
Họ gào thét ầm ĩ. Lối xóm vội chạy tới. Biết sự vìệc, mọi người giúp anh cùng tỏa ra xóm, lục lạo tìm kiếm mọi chổ khả nghi kẻ gian có thể ẩn núp. Trong thôn xóm chỉ có 200 nhà dân nên không có cảnh sát. Phải đợi tới 9 giờ sáng tới thị xã trình cảnh sát.
Trao đổi tin tức với cư dân thôn xóm, anh Wu Xinghu được biết vụ bắt cóc con của anh đã được điều nghiên kỹ lưỡng. Hôm qua, có một chiếc 4 X 4 màu đen theo sau xe đạp của vợ anh chở con tới nhà trẻ. Cũng chiếc xe này, với 3  người đàn ông trên xe, sau đó đậu rất lâu trước nhà anh. Một người xuống xe kiếm chuyện vui đùa với một trẻ con đang chơi và hỏi con của anh Wu Xinghu là trai hay gái. Chờ tới khi trong nhà tắt đèn ngủ là họ hành động.
9 giờ sáng, anh Wu vội tới cảnh sát trình sự việc. Viên cảnh sát hất hàm,  thản nhiên:
_ Tại sao có chuyện ai lại đi bắt con của anh? Anh có bình tĩnh không? Con anh đi lạc đâu đó chớ gì. Lẽ ra anh đã phải quản lý nó cẩn thận hơn chớ?
Anh Wu Xinghu nghĩ cảnh sát hình sự phải ghi nhận lời trình của anh, làm thủ tục truy tìm tội phạm và tìm lại trẻ bị bắt cóc nhưng thực tế không có gì cả. Anh hiểu là nhân dân không thể trông chờ ở nhà cầm quyền bất kỳ một điều gì.
Suốt trong nhiều tháng, cảnh sát xã và huyện đều từ chối điều tra. Họ cứ đổ trách nhiệm cho nhau như hai bên đang đánh bóng bàn.
Wu và các bạn tập họp lại được khá nhiều chi tiết về nhơn dạng của người đàn ông nói chuyện với cậu bé trước nhà và cả chiếc xe 4 X 4 đen hi vọng cung cấp cho cảnh sát để lập hồ sơ điều tra và phổ biến kêu gọi có ai nhận ra được kẻ tội phạm nhưng cảnh sát Huyện cũng từ chối. Với lý do có quá nhiều chuyện bắt cóc giả xảy ra.
Cảnh sát trưởng khuyên Wu nên giữ kín câu chuyện tốt hơn để may ra còn có cơ hội  tìm lại được con.
Vài tuần sau, Wu được tin có chiếc 4 X 4 đen như vậy xuất hiện ở tỉnh Hunan đồng thời nhiều trẻ con biến mất. Anh vội chạy tới cảnh sát thì ở đây họ bảo “Anh không biết sắp Tết rồi sao? Có gì cũng phải đợi qua sau Tết chớ. Tuy nhiên, chúng tôi có thể đặc cách một nhân viên theo giúp anh. Công tác phí là 30 000 yuans, phụ phí tính riêng. Anh trả tiền mặt, không giấy tờ gì cả”.
Nghe qua, anh tá hỏa vì số tiền ấy hơn cả năm thu nhập của anh. Anh tìm ở đâu ra !
Wu Xinghu sáng mắt
Khi thảm họa bỗng đổ ập xuống đầu anh trong một đêm tối, anh chạy ngược chạy xuôi gõ cửa chánh quyền các cấp cầu cứu nhưng không nơi nào có một cử chỉ đáp ứng. Anh cùng bạn bè biểu tình trước Bộ An ninh với hi vọng cuối cùng nhưng bị cảnh sát chống biểu tình với dùi cui tới giải tán. Anh bắt đầu thấy cái hệ thống mà trong đó, từ bấy lâu nay, gia đình anh sống đang hiện rõ bộ mặt vô cảm trước nhân dân. Cái đảng xưa nay cai trị anh không phải là cái đảng phục vụ nhơn dân như họ từng rêu rao.
Vụ con anh bị bắt cóc cho anh thấy bộ máy cầm quyền là ù lì, bất động trước tính mạng của nhân dân.
Wu Xinghu với vài người bạn lao mình đi vừa tìm dấu tích đứa bé, vừa đánh động dư luận về thảm nạn bắt cóc trẻ con đem bán. Wu giải thích thủ phạm không phải là vài cá nhân vì kiếm tiền mà đi tìm bắt cóc trẻ con đem bán, mà đây là cả một băng đảng lớn. Điều quan trọng đáng suy nghĩ là nhà cầm quyền các nơi đều từ chối mở cuộc điều tra tội phạm.
Trên đường đi, Wu lại được đông đảo người dân bình thường hưởng ứng việc làm của anh và nhiệt tình giúp đỡ anh rất nhiều. Cả biếu không cho anh một chiếc xe ba bánh để di chuyển cho thuận tiện.
Hệ thống kinh tài
Trong quá trình đi tìm con và đánh động dư luận về thảm họa trẻ con bị bắt cóc, Wu Xinghu hoảng sợ khi biết rằng việc bắt cóc trẻ con quả thật  là một thứ kỹ nghệ với những bộ phận chuyên trách riêng biệc của một tổ chức lớn. Kẻ chuyên đi tìm hàng, người khác lo chuyên chở, chỗ khác nữa đặc trách thanh lọc. Bộ phận cầm đầu tổ chức gồm cảnh sát và thẩm phám địa phương. Họ khóa kín mọi liên hệ với bên ngoài.
Khi đem trẻ con về, họ giao cho bệnh viện kiểm soát sức khỏe trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng món hàng. Tới người mua, đứa trẻ đã qua bao nhiêu tay nên khó mà tìm được đứa bé bị bắt cóc. Chỉ có tháo gỡ cả hệ thống. Nhưng chuyện này không khác gì tháo gỡ cả cái đảng cộng sản đang cai trị nước Tàu.
Con trai hội đủ tiêu chuẩn sẽ bán cho nhà giàu ở phía nam mua làm con. Con gái bán cho tổ chức ăn mày, bẻ chân, bẻ tay, để dẫn đi ăn xin. Hoặc bán cho những xưởng sản xuất khai thác lao động. Kinh khủng hơn nữa, có trẻ em bị bán  để lấy nội tạng. Tháng 8/ 2013, một đứa bé 6 tuổi bị bắt cóc trước đó, được tìm thấy, mắt bị mất.
Những đứa bé đem tới cho khách hàng nhưng bất ngờ bị từ chối, người giao hàng sẽ bỏ đứa bé bên đường. Cô nhi viện sẽ lượm đem về nuôi để chờ biến thành một món hàng mới. Bán cho ngoại quốc mua con nuôi. Khi tới Cô Nhi viện, cha mẹ có nhìn được con cũng không thể đòi lại được con vì đã trở thành tài sản hợp pháp của Cô Nhi viện.  Chỉ có bỏ tiền ra chuộc theo già của Cô Nhi viện ấn định. Mà Cô Nhi viện là của nhân dân, tức thuộc hệ thống đảng.
Khi cộng sản lên ngôi
Ai cũng biết ở chế độ cộng sản, Tàu hay Việt Nam, không hề có định hướng đạo đức. Sau khi thủ tiêu triệt để những giá trị truyền  thống dân tộc, đảng cộng sản bắt đầu vứt bỏ cái chủ nghĩa cộng sản. Trên đỉnh chế độ, từ nay, sẽ có một cặp quyền lực đanh thép ngự trị : quyền lực chánh trị do đảng cộng sản độc quyền nắm giử và tiền bạc trở thành lý tưởng tập thể mới.
Số phận những đứa bé bị bắt cóc bán là ánh sáng chiếu rọi làm hiển lộ rõ bản chất phi nhân của một hệ thống mà những cơ cấu phục vụ xã hội như bệnh viện, cảnh sát, tòa án, …dường như chỉ biết quan tâm chia phần hưởng lợi mà thôi.
Không biết ở Việt Nam có tổ chức băng đảng bắt cóc trẻ con đem đi bán chưa? Chớ bán lao động, bán gái ra nước ngoài làm mãi dâm, cả bán nội tạng ở nước ngoài từ những người xuất cảnh lậu, đảng cộng sản ở Hà Nội đã làm từ nhiều năm nay.
Ngày mai này, nếu Việt Nam có bắt cóc trẻ con bán qua Tàu hay hợp tác với Tàu vẫn là điều dễ hiểu vì bán qua miền nam nước Tàu vẫn gần hơn từ Bắc kinh đưa xuống. Phước đức cho người dân Việt Nam là nếu Tàu không thèm mua trẻ con Việt Nam vì miệt thị không phải cùng chủng loại Hán tộc, mà là thứ Nam man.
Xưa nay, hễ Tàu làm việc gì thì ít lâu sau, Việt Nam sẽ làm theo không sai.
Người cộng sản ở Việt Nam ngày nay cho rằng họ với Tàu là “đồng văn, đồng chủng”. Đồng văn hóa xã hội chủ nghĩa và đồng chủng cộng sản!
Nguyễn thị Cỏ May

Trật tự thế giới dưới mắt Henry Kissinger - NÓI VỀ TRẬT TỰ HAY QUYỀN LỰC THẾ GIỚI NGÀY NAY

Trần Bình Nam: Ông Henry Kissinger vừa xuất bản cuốn “World Order” (Penguin press, sách dày 432 trang, giá $36.00). Ông Wolfgang Ischinger, cựu đại sứ Đức tại Hoa Kỳ (2001-2006) và tại Anh (2006-2008) viết nhận xét dưới nhan đề “The world according to Kissinger: How to defend global order” đăng trong tạp chí Foreign Affairs số March/April 2015. Sau đây là các ý chính trong bài viết của ông Wolfgang Ischinger.
———————————–
book
Dùng nhan đề “Trật tự Thế giới” một cách chắc nịch như vậy cho cuốn sách mình viết mà không sợ bị giới nghiên cứu cho là hợm hĩnh có lẽ chỉ có ông Henry Kissinger. Tiến sĩ Henry Kissinger, nguyên Cố vấn an ninh quốc gia và Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ được nhiều người hâm mộ nhưng cũng lắm kẻ ghét cho là người quá nhiều thủ đoạn với bạn cũng như thù. Người có cảm tình cho ông là nhà ngoại giao tinh lọc được sự khôn khéo của nghành ngoại giao Hoa Kỳ mặc dù qua cuốn sách “World Order” ông vẫn chưa chia tay với lối nhìn trật tự thế giới theo khuôn mẫu cũ .
Năm 2014 là năm có nhiều biến cố trên thế giới. Chiến tranh tại Syria đã giết chết mấy trăm ngàn người, và nhóm jihadist(1) làm toàn vùng Trung đông lên cơn sốt. Tại Á châu Trung quốc tự tin vào thế đứng của mình và đang là một mối bận tâm cho các nước láng giềng. Tại Tây Phi châu, bệnh Ebola xuýt làm cho nhiều nước mất hẵn trên bản đồ thế giới. Và tại Âu châu, vùng đất tôn trọng trật tự quốc tế nhất cũng đang bị Liên bang Nga dùng sức mạnh đe đọa thay đổi ranh giới quốc gia hiện hữu. Điều đáng lo khác là các lực lượng vốn có nhiệm vụ giữ gìn hòa bình thế giới như Hoa Kỳ, Cộng đồng Âu châu, NATO cũng đã có dấu hiệu mệt mỏi sau hai cuộc chiến tốn kém tại Afghanistan và Iraq.
Trong khung cảnh đó ông Kissinger vốn là một sử gia và một nhà chiến lược xác định lại “thế nào là trật tự thế giới” và đề ra cách thức xây dựng.
Theo ông, “trật tự thế giới” là một cách nhìn về sự phân chia quyền lực chính trị của một địa phương hay của một nền văn hóa mà họ nghĩ có thể áp dụng cho cả thế giới (“world order” as “the concept held by a region or civilization about the nature of just arrangements and the distribution of power thought to be applicable to the entire world.”
Ông Kissinger nói một “trật tự” như vậy cần 2 yếu tố: (1) một hệ thống quy tắc ứng xử xác định giới hạn hành động của mỗi quốc gia hay của một nền văn hóa, và (2) một sự cân bằng thế lực có khả năng trừng phạt quốc gia hay văn hóa nào vi phạm các nguyên tắc ứng xử đã đồng ý với nhau để ngăn không cho một thế lực nào dùng sức mạnh ép các thế lực khác.
Theo quan niệm đó, quyền lực trên thế giới không phải chỉ là sức mạnh kinh tế và quân sự mà còn là sức mạnh của tư tưởng và ý chí, nhất là ý của kẻ mạnh. Theo ông Kissinger các quan niệm cổ điển từng làm cái khung giúp duy trì hòa bình thế giới trong 4 thế kỷ qua như “quyền chủ quyền” và sự “không can thiệp” vẫn còn có giá trị .
Hôm nay cái khung đó nhòa đi chút ít vì các thế lực chính trị đang lên dùng các khung chính trị khác nhau để duy trì trật tự như “dựa vào tôn giáo” (theocracy), “quyền lực tư bản” (autocratic capitalism) và “hiện tượng hậu văn minh” (postmodernity). Nhưng dựa vào gì đi nữa – theo Kissinger – cái mẫu nào mang hai yếu tính “hợp pháp quốc tế” và “cân bằng quyền lực” mới có khả năng tồn tại. Trong suốt cuốn sách Kissinger không quên nhấn mạnh một nguyên tắc là: đừng vất bỏ một cái khung tổ chức ổn định thế giới nào nếu chưa tìm thấy một cái khung khác có hiệu quả như cái khung cũ .
**
Kissinger cho rằng hệ thống quốc tế hiện nay là sáng kiến của các lãnh tụ quốc gia trong thế kỷ thứ 17 tại Âu châu qua hội nghị Westphalia họp tại Westfalen, Đức, sau một trận chiến tranh dài mà cao điểm là “trận chiến tranh 30 năm” từ 1618 đến 1648 (2). Thỏa ước đạt được đề ra quan niệm “chủ quyền quốc gia” và “quyền chủ quyền” là viên đá góc của trật tự thế giới .
Một trăm năm mươi (150) năm sau, tại Hội nghị ở thành Vienna (Congress of Vienna) 1814-1815 hai nhà ngoại giao Pháp Talleyrand và Áo Klemens von Metternich chính thức công bố nguyên tắc “cân bằng thế lực” và áp dụng nguyên tắc này vạch lại ranh giới lãnh thổ quốc gia của hầu hết các nước Âu châu sau các xáo trộn do cuộc cách mạng Pháp 1789 và các cuộc chiến tranh của Napoleon.
Hai nguyên tắc “chủ quyền” (Westphalia), và “cân bằng quyền lực (Vienna) được tiến sĩ Kissinger đề ra đối với việc duy trì ổn định thế giới hôm nay không được các nhà khoa học chính trị đồng ý cho là quá đơn giản trong một thế giới quá phức tạp nhưng cũng phải đồng ý với nỗ lực trí tuệ đầy tự tín của ông.
Đương nhiên thực tế cho thấy cái quan niệm về quốc gia và chính trị của Tây phương được áp đặt từ thời đại thuộc địa đến nay đã phải chật vật tranh đấu với các luồng tư tưởng khác. Thí dụ tại Trung đông. Ở đó sự tranh chấp không phải là “quốc gia” và “chủ quyền” mà là giữa hai giáo phái Shiite và Sunni của đạo Hồi .
Cái trật tự Westphalia một thời ngự trị tại Trung đông đang bị đe dọa bởi phong trào Hồi giáo không biên giới như phong trào chính trị Muslim Brotherhood, phong trào Jihad chống văn hóa Tây phương như al-Qaeda và Quốc gia Hồi giáo ISIS. Theo Kissinger phong trào ISIS đang làm biến thể quan niệm “quốc gia trong một biên giới xác định” thành một cuộc tranh chấp giữa các bộ lạc đậm màu sắc tôn giáo có khả năng đưa Trung đông đến hỗn loạn và chiến tranh như chiến tranh tại Âu châu thời tiền Westphalia.
Kissinger đặc biệt nghiên cứu quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran. Một bên, Hoa Kỳ chủ trương duy trì trật tự thế giới theo mẫu Westphalia, một bên -Iran – muốn nằm ra ngoài cái trật tự đó. Kissinger đi ngược dòng lịch sử của Iran trở về đế quốc Ba Tư để giải thích tại sao Iran luôn luôn bị dằng co giữa hai ý niệm “một quốc gia” hay “một lý tưởng”. Và sự theo đuổi một lý tưởng của Iran làm cho cuộc thương thuyết chương trình nguyên tử của Iran trở nên phức tạp. Ông Kissinger cho rằng để thuyết phục Iran, nghệ thuật ngoại giao chưa đủ, Hoa Kỳ cần dùng nguyên tắc cân bằng thế lực bằng cách liên kết khối Sunni để cân bằng với khối Shiite của Iran.
Ông Kissingr tiên đoán cuộc thương thuyết nguyên tử giữa Hoa Kỳ và Iran hiện nay sẽ đưa đến kết quả: Hoặc Iran trở thành quốc gia lãnh đạo cuộc cách mạng Hồi giáo hay trở thành một nước lớn khép mình trong khuôn khổ của hệ thống Westphalia .
Ngoài Trung đông, Á châu cũng là nơi quan niệm ổn định Tây phương đụng chạm với quan niệm tổ chức địa phương. Tiến sĩ Kissinger chỉ ra rằng, danh từ Á châu do người Tây phương nặn ra sau khi họ đặt chân đến đó vào thế kỷ 15. Tại đó Trung quốc, đơn vị lãnh thổ lớn nhất tự xem mình là trung tâm thế giới thay trời ban bố trật tự để trị dân – nhân dân toàn thế giới. Bước vào thế kỷ 21, Trung quốc vươn lên như một quốc gia hùng mạnh và không ngừng trăn trở dung hòa cái khung Westphalia với ý niệm vai trò chủ quản của mình dưới bầu trời thế giới.
Kissinger nhấn mạnh rằng tuy Hoa Kỳ và Trung quốc quan niệm khác nhau về dân chủ và nhân quyền, nhưng trong cuộc chạy đua trước mắt cả hai nước đều thấy tránh đụng độ nhau là cần thiết. Trong cuốn “World Order” Kissinger cho rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung quốc ít nguy hiểm hơn là quan hệ giữa Trung quốc với các nước trong vùng. Đông Á là “vùng nóng” có thể bật lửa bất cứ lúc nào.
**
Ông Kissinger nêu ra hai luồng tư tưởng hình thành chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Thứ nhất là “tính thực tế” (pragmatic realism) của tổng thống Theodore Roosevelt (tổng thống thứ 26, hai nhiệm kỳ 1901-1908) và thứ hai là “tính phóng khoáng lý tưởng” (liberal idealism) của tổng thống Woodrow Wilson (tổng thống thứ 28, hai nhiệm kỳ 1912- 1920).
Bàn về cung cách chấm dứt hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq, Kissinger bóng bẩy đồng ý với những ai chê tổng thống Obama không lèo lái vững. Nhắc đến những cuộc chiến tranh Hoa Kỳ dính vào rồi bỏ dở nữa chừng tiến sĩ Kissinger không che dấu sự nghi ngờ của ông đối với các nhà lãnh đạo (trong đó có tổng thống Obama) chọn hành động phóng khoáng lý tưởng “kiểu Wilson” cuối cùng đưa đến những thất bại về chính sách ngoại giao.
Kissinger viết, “người chỉ trích cho rằng các thất bại đó do sự thiếu khả năng trí tuệ của nhà lãnh đạo, nhưng với các sử gia thì đó là vì người lãnh đạo không giải quyết được mâu thuẫn giữa quân sự và ngoại giao, giữa lý tưởng và thực tế, giữa sức mạnh tổng hợp và tính hợp lý của hành động”
Tuy nhiên Kissinger không đứng hẵn một bên, mặc dù ông thiên về tính thực tế. Ông viết: “Hoa Kỳ không còn là Hoa Kỳ nếu từ bỏ các quan niệm lý tưởng của mình”. Theo ông Hoa Kỳ không thể thiếu Âu châu, một đồng minh then chốt. Nếu hợp tác nhau Hoa Kỳ và Âu châu sẽ có ảnh hưởng lớn đối với các vấn đề trên thế giới và có thể gíúp nhau tránh những quyết định chiến lược sai lầm.
Ông Kissinger cảnh giác các nước dân chủ đừng tự cho mình luôn luôn đúng. Ông nghi ngờ một số nguyên tắc “phóng khoáng quốc tế (liberal internationalism) thời thượng, thí dụ nguyên tắc “trách nhiệm bảo vệ” (reaponsibility to protect), nghĩa là nếu một nhà cai trị độc ác với dân mình thì thế giới có quyền can thiệp. Theo Wolfgang Ischinger sự nghi ngờ này của Kissinger là quá đáng vì nguyên tắc “trách nhiệm bảo vệ” có thể giúp bảo vệ trật tự thế giới hơn là tạo bất ổn.
Dẫn chứng mùa Xuân A Rập năm 2011 đưa đến sự sụp đổ hằng loạt các nước độc tài ở Bắc Phi châu và Trung đông (những chế độ độc tài do các nước Tây phương tạo ra với hy vọng tạo ổn định) ông Kissinger kết luận rằng sự độc tài không thể duy trì ổn định lâu dài được. Phải cần có dân chủ. Tuy nhiên ván bài Bắc Phi châu không phải dễ. Câu hỏi cho những thập niên tới là “bao nhiêu dân chủ là liều lượng vừa đủ?”
**
Cuốn sách của Kissinger xoay quanh chủ đề “quốc gia” (nation-state) là cấu trúc an toàn của thế giới. Ông không cho các định chế quốc tế hay các động lực không có tính quốc gia (nonstate actors) là quan trọng. Ông cho rằng thế giới ổn định trong suốt 100 năm cho đến khi xẩy ra thế giới chiến tranh lần thứ nhất (1914) là nhờ hội nghị Vienna (1814) đặt ra nguyên tắc “cân bằng thế lực giữa các quốc gia có chủ quyền”. Năm 1914, các nước Âu châu phá vỡ sự đồng thuận của Hội nghi Vienna đã đưa đến chiến tranh. Và Kissinger lập luận rằng tình hình thế giới hôm nay không khác gì năm 1914 . Nếu các quốc gia đi ra ngoài cái khung tôn trọng chủ quyền quốc gia thì thế giới khó tránh được chiến tranh.
Dưới góc nhìn đó Kissinger không mấy phấn khởi về sự hình thành “Cộng đồng Âu châu”, một mẫu “cộng đồng” nhiều nơi trên thế giới đang mô phỏng theo có thể đưa đến sự phá bỏ ranh giới giữa các quốc gia. Ông cho rằng Âu châu là một vùng đất đặc biệt, nơi khai sinh chủ thuyết Westphalia có thể dọ dẫm thí nghiệm mô thức tổ chức mới, nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu áp dụng tại các vùng đất khác trên thế giới. Ông nhấn mạnh, cái khung Westphalia vẫn còn là căn bản của trật tự thế giới hôm nay.
Ngoài việc xác định chính sách của các nước lớn là chính, cuốn sách “World Order” của tiến sĩ Kissinger không quên các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến trật tự thế giới như (1) kinh tế toàn cầu, (2) sự thay đổi của thời tiết do độ nóng của khí quyển và (3) sự tiến bộ của kỹ thuật. Toàn cầu hóa làm cho các quốc gia lệ thuộc vào nhau, dựa vào nhau đưa đến những tiến bộ kinh tế và cơm áo, nhưng vấn nạn là toàn cầu hóa cũng làm cho sự cách biệt giàu nghèo càng ngày càng sâu đậm. Toàn cầu hóa giúp các thế lực trên thế giới dùng áp lực kinh tế để ép các nước khác thuần phục thay vì dùng vũ lực. Vũ khí kinh tế hiện nay là vũ khí duy nhất Tây phương dùng áp lực Iran từ bỏ chương trình sản xuất vũ khí nguyên tử và áp lực tổng thống Vladimir Putin thay đổi chính sách xâm lấn Ukraine .
Thời tiết, nói chung là bão táp, lụt lội, động đất cũng có thể làm thay đổi trật tự thế giới. Hiện nay các nhà khoa học và một số chính trị gia đang tìm cách kiểm soát sự thay đổi của thời tiết ảnh hưởng đến hàng tỉ người trên thế giới do độ nóng của bầu không khí. Có thể đã chậm, nhưng chậm còn hơn không.
Trước một đại họa về thời tiết, những quốc gia yếu kém có thể không đủ khả năng duy trì ổn định quốc gia đưa đến xáo trộn, nhưng trong cơn mất mát chung, thế giới sẽ đứng bên nhau với sáng kiến mới như đã đứng bên nhau sau hoang tàn do thế giới chiến tranh lần thứ hai mang lại. Liên hiệp quốc và các cơ chế tài chánh do hội nghị Bretton Woods (3) thành lập như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank) hình thành trên đổ nát của thế chiến 2 đã góp phần ổn định thế giới từ năm 1944 đến nay.
Về ảnh hưởng của kỹ thuật, Kissinger không thoải mái, nhất là đối với kỹ thuật tin học “internet” mà ông nghĩ nó làm cho con người sống hời hợt bên cạnh sự phức tạp của thế giới. Kissinger viết : “một cái bấm con chuột giúp bạn biết một chi tiết về sử hay địa bạn đang cần, nhưng điều đó không làm cho bạn thông thái hơn.” Đặt hy vọng vào thế giới ảo (cyberspace) để xây dựng và giải quyết các vấn đề thật của thế giới – theo Kissinger – là một ảo tưởng.
Nhưng nhiều giới, nhất là giới trẻ không đồng ý với Kissinger. Kỹ thuật (vận chuyển, thông tin …) rõ ràng đã giúp thay đổi cung cách lãnh đạo và kỹ thuật ngoại giao. Các nhà ngoại giao phải sẵn sàng trước ống kính truyền hình, phải có tài thương thuyết, vừa phải có khả năng truyền đạt. Và kỹ thuật thông tin đã thay đổi cách ứng xử của các nước lớn trong lĩnh vực quốc phòng. Phòng chống sự xâm nhập điện toán cũng như khả năng xâm nhập hệ thống điện toán của địch cũng quan trọng không kém trong việc bảo vệ và chế tạo vũ khí tấn công.
Qua cuốn “World Order” độc giả thoáng thấy hình như Kissinger ao ước một hội nghị Vienna của thế kỷ 21. Ông nhìn nhận nền chính trị thế giới đang bị ảnh hưởng bởi các ý niệm liên quốc gia (transnational), của sự tiến bộ tin học, của vũ khí giết người tập thể, của nạn khủng bố, và không thể ép vào cái khung Westphalia dựa trên nguyên tắc “chủ quyền” quốc gia, nhưng theo ông quan hệ giữa các siêu cường vẫn là yếu tố then chốt cho sự ổn định của thế giới. Vấn đề là: Ai sẽ là siêu cường?
Theo Kissinger, không cần phải có một trận “Chiến tranh 30 năm” để tạo điều kiện cho một tân Westphalia ra đời, và sau đó một Hội nghị Vienna chia lại thế giới. Kissinger tin sẽ có một biến chuyển trong hòa bình.
Đó là món quà quý hiếm Kissinger tặng cho những ai không muốn thấy một cuộc so gươm trong thế kỷ 21./.
Trần Bình Nam (thuật)
April 13, 2015
© Trần Bình Nam
© Đàn Chim Việt
————————————————-
Ghi chú:
(1) Jihadist: Người Hồi giáo quá khích chống ảnh hưởng của Tây phương và bất cứ chính phủ Hồi giáo nào không theo luật lệ của đạo Hồi.
(2) Thirty-years War : cuộc chiến tranh khốc liệt nhất tại Âu châu từ năm 1618 đến năm1648 giữa các nước theo đạo Tin lành và Thiên chúa giáo La mã, dần dần kéo tất cả các nước lớn vào cuộc. Cuộc chiến tranh làm cho các nước Âu châu kiệt quệ, dân số Đức, Ý và Hòa Lan giảm sút và kết thúc bằng hội nghị Westphalia triệu tập tại Westfalen, Đức quốc đặt căn bản trên “chủ quyền” và “quyền chủ quyền” quốc gia. Khi ảnh hưởng của Âu châu lan ra trên thế giới qua phong trào thiết lập thuộc địa, quan niệm chủ quyền quốc gia trở thành luật quốc tế giúp ổn định hòa bình thế giới.
(3) Bretton Woods (bang New Hampshire, Hoa Kỳ). Năm 1944 Liên hiệp quốc họp ký các chính sách tài chánh quốc tế ấn định sự trao đổi tiền tệ quốc tế và khai sinh Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank).