Thứ Hai, 2 tháng 2, 2015

Sức mạnh thực sự của Chân Dung Quyền Lực


Qua bài viết mới được đăng trên trang Chân Dung Quyền Lực, CDQL, ngày 28 tháng 1 năm 2015, “Dân Nghèo Quảng Ngãi và ông Bí Thư Tỉnh Ủy Nguyễn Hòa Bình”, có lẻ đây là lần đầu tiên trang mạng nổi tiếng CDQL đề cập đến người nghèo nhiều như vậy:
Bài viết đã diễn tả những cảnh sống cơ cực, thiếu thốn, nghèo nàn, và tăm tối của người dân Quảng Ngãi với tên và hình ảnh rõ ràng làm người đọc không khỏi se lòng. Nhưng bên cạnh những cảm xúc buồn thương cho số phận những người dân Việt còn nhiều nổi đọa đày, người đọc không khỏi căm giận khi nhìn những hình ảnh tương phản ở cuộc sống xa hoa của những quan chức lãnh đạo quốc gia, ngồi mát ăn bát vàng, làm giàu trên xương máu của nhân dân. Những ngôi biệt thự đồ sộ bên cạnh những túp lều tranh rách nát làm nổi bật lên cái hố giàu nghèo chia cách. Những buổi dạ tiệc sang trọng thâu đêm suốt sáng làm chua xót thêm hình ảnh của những em bé thiếu ăn nhìn đời bằng con mắt vô vọng.
Dù cho trong bài viết ở trên, tác giả chỉ nêu lên một vài trường hợp điển hình của dân nghèo và so sánh cuộc sống khốn khổ của họ với cuộc sống xa hoa phú quý của một quan chức tại quyền là ông Bí Thư Tỉnh Ủy Nguyễn Hòa Bình, thì người đọc hẳn cũng không khỏi hình dung tình trạng chung của hàng triệu dân nghèo cả nước đang sống lầm than cơ cực trước sự giàu sang tột bực của tầng lớp quan lại bây giờ, mà điển hình là những người như cha con ông Nguyễn Xuân phúc, cha con ông Phùng Quang Thanh, cha con ông Nguyễn Hòa Bình mà trang mạng CDQL đã đưa ra. Dù vô tình hay cố ý, trang mạng CDQL đã đứng về phía nhân dân trong trường hợp nầy. Tuy nhiên đây không phải là một bài viết duy nhất có hình ảnh người dân, CDQL cũng đã đăng lại bài tường trình cuộc hội luận của Chân Như ở đài Á Châu Tự Do, FRA, và ba bạn trẻ ở ngay trang đầu của mình, bài “Gìới trẻ nghĩ gì về phát biểu của lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam” vào ngày 24 tháng 1 năm 2015.
Trong cuộc hội luận nầy đại diện cho nhân dân Việt Nam là ba bạn trẻ Trường Sơn, Minh Hiển và Tiến Trung. Họ đã chứng tỏ là những người am hiểu thời cuộc và tình hình đất nước hiện nay.
Trong buổi hội luận, Trường Sơn đã cho biết: “Như anh Trung và anh Hiển đã đồng tình, ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trước đến giờ không hề có một ảnh hưởng nào lên trên nền chính trị của Việt Nam. Ông giống như một biểu tượng thôi. Về tuyên bố của ông, cái này na ná giống lý thuyết kinh tế của ĐCS áp đặt trên đất nước Việt Nam - đó là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ông nói muốn đổi mới thể chế chính trị mà đã gọi là đổi mới thì phải thay đổi thế nhưng ông lại xoáy thêm “không thay đổi chế độ”. Theo tôi nghĩ ông phải tuyên bố như vậy hoặc ĐCSVN cũng đã cảm nhận một cái gì đó rằng suy nghĩ của người dân Việt Nam cũng đang dần thay đổi buộc họ phải có những tuyên bố để làm thế nào đó bưng bít hoặc chống chế. Thế nhưng hành động chống chế của họ giống như vá một con đường. Họ không làm lại con đường càng vá càng thêm chằng chịt. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà ĐCSVN đang thực hiện ở Việt Nam đã khiến cho nền kinh tế tại Việt Nam trở nên lạc hậu, cồng kềnh và sắp sửa đi đến mức sụp đổ. Bây giờ đến lượt chính trị, họ nói rằng đổi mới chính trị thế nhưng lại không chịu thay đổi thể chế. Thế có nghĩa là bình mới rượu cũ chẳng có gì thay đổi ở đây. Và ông còn nói rằng “tăng cường chống tham nhũng cũng như an ninh quốc phòng”. Trong khi 99% người dân Việt Nam đều có suy nghĩ giống như tôi đó là “đã là quan chức thì tham nhũng” và ai đảm bảo rằng bản thân ông Tổng bí thư có tham nhũng hay không?”
Tiến Trung cũng nhận xét về tình trạng nghèo nàn của đất nước một phần là do bộ máy cồng kềnh mà người dân phải làm để nuôi là chính phủ, Đảng Cộng Sản và mặt trận tổ quốc: “Thật ra chuyện nói là “tinh giản biên chế” những người lãnh đạo ĐCSVN đã nói cách đây từ 40 năm rồi, cho nên bây giờ họ có nói tiếp nữa thì không ai nghe. Trung muốn nhấn mạnh ở đây một điều là người dân không có nghĩa vụ phải đi nuôi ĐCS. ĐCSVN cần phải tự lực cánh sinh bằng cách sống bằng tiền đảng phí của những đảng viên và các tổ chức mặt trận tổ quốc cũng vậy. Họ không thể nào lấy tiền từ ngân sách ra được. Dân chỉ có nghĩa vụ đóng thuế để nuôi chính phủ, và chính phủ đó phục vụ cho dân thôi. Khi Trung thấy bỏ hệ thống đảng và mặt trận tổ quốc ra khỏi ngân sách thì tự động những người trong chính phủ lương được tăng cao, hạn chế bớt tình trạng tham nhũng.”
Còn Minh Hiển thì lên tiếng về tình trạng tự do báo chí ở Việt Nam: “Mình rất đồng ý với ý kiến của anh Trung ở điểm là Viêt Nam bây giờ hiện tại không hề có một tờ báo tư nhân nào. Cái đấy là điều không thể chấp nhận được. Ngoài ra tất cả báo chí ở Việt Nam đều mang tính đảng tức là nó là công cụ tuyên truyền của ĐCS.”
Tiến Trung kết luận bằng một nhận xét vô cùng xác đáng về nguồn gốc của mọi tệ nạn ở Việt Nam là do cơ chế độc tài đảng trị: “Vấn đề của Việt Nam là tư duy độc quyền và cơ chế là tước quyền làm chủ của người dân. Cơ chế đó gọi là cơ chế đảng chủ thì với tư duy với cơ chế như vậy chúng ta dự đoán không có ý nghĩa gì cả. Bất kỳ ai lên nắm chức tổng bí thư hay chủ tịch nước hay thủ tướng hay chủ tịch quốc hội thì cũng vẫn sẽ là như vậy thôi nếu cơ chế vẫn còn như vậy. Đã bao nhiêu năm rồi vẫn lập đi lập lại những lời sáo rỗng. Vấn đề đây là vấn đề tư duy và cơ chế phải thay đổi. Thế nên, khi chúng ta thấy tư duy độc tài và cơ chế đảng chủ như vậy thì những người dân Việt Nam chúng ta cùng phải cùng nhau lên tiếng.”
CDQL đã đăng bài hội luận ở trên có lẽ cũng để phê bình ông Nguyễn Phú Trọng với những nhận xét và phát biểu vô cùng ấu trĩ, giáo điều và lạc hậu. Tuy nhiên điều quan trọng là CDQL đã loan truyền những tiếng nói vô cùng đúng đắn và chính xác, tiến bộ của người dân. Những tiếng nói rất phù hợp với phong trào đấu tranh cho dân chủ, tự do và nhân quyền ở Việt Nam hiện nay.
CDQL đã làm một điều đáng được đề cao và tán thưởng là phổ biến hình ảnh thực sự của dân nghèo, khác với sự tuyên truyền của Đảng và nhà nước Cộng Sản lâu nay là đời sống nhân dân đã được cải thiện. CDQL đã phổ biến những lời phản biện của nhân dân dù cho nó đi ngược lại với những lời tuyên truyền mị dân và chính sách quyết giữ độc quyền cai trị của Đảng.
Trang mạng CDQL ngày càng được nói đến nhiều vì những bài viết và hình ảnh có giá trị. Người dân vô đọc tin tức ở CDQL vì sự tò mò, vì những tin tức động trời mà khó có thể tìm thấy ở bất cứ nơi đâu. Và người dân sẽ càng đọc nhiều hơn nữa nếu CDQL có thêm nhiều bài viết và hình ảnh liên hệ đến nhân dân và mang tính tương phản như những bài viết đề cập ở trên. Cho dù bất cứ thế lực nào đang đứng đàng sau CDQL, sức mạnh lớn nhất để quyết định vận mệnh nước nhà vẫn ở nhân dân Việt Nam. CDQL nên đi theo con đường vì dân đúng đắn đó.
Trần Việt Hoàng

Không thể thế được!

Báo Nhân Dân ngày 29/1 cho biết ngày 27/1 Ban Tổ chức Trung ương (TCTƯ) đảng đã họp hội nghị cán bộ viên chức để kiểm điểm công tác năm 2014 và triển khai công tác năm 2015, trong đó quan trọng nhất là hướng dẫn tiến hành đại hội đảng các cấp từ đại hội cơ sở đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII vào đầu năm 2016.
Tại cuộc họp này, ông Tô Huy Rứa, trưởng Ban TCTƯ, cho biết cuộc họp Ban Chấp hành Trung ương (CHTƯ) lần thứ 10 vừa qua đã thông qua danh sách gồm 290 ủy viên trung ương chính thức và dự khuyết cho Đại hội XII, và danh sách 22 ủy viên Bộ Chính trị và ủy viên Ban Bí thư cho khóa XII.
Như thế là thế nào? Tôi đọc đi đọc lại bản tin, không thể tin đó là điều có thật. Tôi không thể nghĩ trong quá trình thoái hóa đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) lại có thể tha hóa về tổ chức đến tận cùng như thế. Làm sao có thể chà đạp thô bạo lên chính điều lệ của nó đến vậy?
Như vậy tất cả nhân sự của đảng khóa XII đã được 197 ủy viên trung ương và dự khuyết khóa XI quyết định xong xuôi. Tất cả vị trí của Bộ Chính trị và Ban Bí thư khóa XII cũng đã được quyết định cả rồi.
Như vậy cuộc họp Trung ương lần thứ 10 đã làm thay tất cả quá trình đại hội từ cơ sở đến Đại hội toàn quốc lần thứ XII trong vấn đề tuyển lựa, ứng cử, bầu cử đảng uỷ các cấp cho đến Ban CHTƯ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Điều lệ đảng để đâu mà có sự rối loạn, chuyên quyền phi lý đến vậy? Tại sao lại có Ban CHTƯ tiền chế, Bộ Chính trị tiền chế, Ban Bí thư tiền chế kỳ quái đến vậy?
Phải chăng tại cuộc họp Trung ương 10, họ đã vĩnh biệt nền dân chủ chập chững nửa vời để chuyển lên thành một đảng kiểu phát xít, tuyệt nhiên không có bầu cử dân chủ, mà nhóm lãnh tụ quyết định hết về mọi cấp nhân sự của đảng và nhà nước.
Như vậy là nhân dân VN có thể biết rõ tên tuổi 290 + 22 = 312 nhân vật sẽ ngự trị trên đầu dân ta ngay từ lúc này. Ngay cái Quốc hội bù nhìn “đảng chọn dân bầu”, và cái gọi là “Mặt trận Tổ quốc” cũng bị hoàn toàn bỏ quên .
Không! Không thể thế được! Mỗi người Việt Nam chân chính không ai có thể chấp nhận sẽ bị cai trị bởi 312 nhân vật không do tự mình tự do chọn lựa. Ngay từ hôm nay nhân dân VN hãy đồng thanh hô vang: Không! Không! 312 con người ấy không phải của chúng tôi. Chúng tôi trả lại đảng CS vì họ không có liên hệ gì với chúng tôi cả. Chúng tôi cần và đòi hỏi một nền dân chủ thật sự, những cuộc ứng cử dân chủ, bầu cử dân chủ, những cuộc tranh cử dân chủ thật sự, bằng lá phiếu trực tiếp của từng công dân tự do.
Hãy nghe ông trưởng Ban TCTƯ Tô Huy Rứa khoe khoang trong cuộc họp nói trên: “Chúng ta đã hoàn thành tốt công việc; đã triển khai tốt công việc một cách có bài bản, có kế hoạch, với khối lượng lớn chưa từng có”.
Có thể nói tất cả cái đại âm mưu tiền chế “quy hoạch cán bộ chiến lược” này của đảng CSVN là mang nhãn hiệu của Tô Huy Rứa, một người cá nhân chủ nghĩa cao độ, không am hiểu gì về “tổ chức học” lại đảm nhận mảng tổ chức.
Chắc rằng mạng “Chân Dung Quyền lực” sau khi công bố toàn bộ việc lấy phiếu tín nhiệm tại hội nghị Trung ương 10, sẽ có thể đưa công khai danh sách 290 + 22 nhân vật lãnh đạo cho 5 năm 2016- 2021 do Tô Huy Rứa và phe nhóm áp đặt cho đảng CS, cho toàn dân ta.
Sức đề kháng của dân VN rất cường tráng. Hãy lập tức nói “Không!” với bước phát xít hoá cực kỳ nguy hiểm của nền dân chủ mang chất cộng sản cuối mùa hiện nay../.
Bùi Tín viết cho VoA

Những trí thức từ Pháp trở về


(Sau câu chuyện về triết gia Trần Đức Thảo nhiều người đặt câu hỏi, lý do gì mà những trí thức có điều kiện phát triển như thế ở tại môi trường nước Pháp lại quyết định bỏ tất cả để về nước kháng chiến? Câu hỏi không hề đơn giản, nếu ta không đặt mình vào hoàn cảnh, điều kiện của chính những nhân vật đó, và phải phần nào hiểu được tâm tư, nguyện vọng của họ! Câu chuyện sẽ hơi dài và có quá nhiều nhân vật, ai không quan tâm thì nên bỏ qua, còn ai thấy “dân ta nên biết sử ta” thì tác giả hy vọng sẽ chia sẻ được một góc nhìn tổng thể về đề tài này, cũng đã ba phần tư thế kỷ trôi qua rồi...)
Thời điểm năm 1941 nước Pháp bị chia đôi, Paris nằm ở lãnh thổ bị Đức chiếm đóng, còn phía Nam thì vẫn nằm trong tầm quản lý của Thống chế Pétain. Thế chiến bắt đầu giai đoạn đẫm máu, khốc liệt nhất sau khi Đức bất ngờ tấn công Liên Xô 22/6/1941. Lúc cao điểm nhất có tới 80 nghìn người Việt Nam (thời đó vẫn bị gọi là An Nam) khoác áo “lính” của Pháp và ở châu Âu. Lính có 2 loại:”lính thợ”-làm lao động chân tay cho Pháp-Đức; “lính chiến” –các tiểu đoàn quân đội Pháp, nhưng thực chất toàn người Việt được tuyển mộ để đánh nhau với Đức. Thời đó Việt kiều tại Pháp có nhưng số lượng rất ít! Tại Paris có khoảng gần một nghìn người Việt đang theo học đại học, cao đẳng, hoặc đã học xong đang đi làm hay lấy bằng thạc sỹ, tiến sỹ...
Câu chuyện bắt đầu từ trường đại học Cầu đường Paris. Đây là một trong những cơ sở đào tạo hàng đầu của Pháp, với phương châm tuy hơi tếu nhưng nói lên đòi hỏi rất cao của sinh viên trường này: “Người tốt nghiệp cầu đường phải biết làm bất cứ việc gì, kể cả làm cầu đường!”( và quả thật sau này ông Caquot-thầy giáo nổi tiếng của môn sức bền vật liệu, một trong những người đề xướng và áp dụng “bê tông dự ứng lực”, “linh hồn” của trường- sau 1945 được Chính phủ Pháp De Gaulle giao cho trọng trách phụ trách toàn bộ công cuộc tái thiết đất nước). Đây là trường trước kia của Hoàng Xuân Hãn, Xuphanuvông...(và cách đây chỉ vài năm thôi một trong 6 giảng đường lớn của trường Cầu đường được gắn tên Hoàng Xuân Hãn để tri ân người học trò kiệt xuất của trường vì thành tựu to lớn ở các lĩnh vực chính trị, khoa học kỹ thuật và công lao đối với nước Pháp!). Phạm Quang Lễ (tên thật của Trần Đại Nghĩa) vừa tốt nghiệp xong, và với bằng này ông có quyền xin học tiếp ở rất nhiều trường khác, lúc này ông học đồng thời ở trường Điện và trường Hàng không. Ông được một “đàn em” cùng trường-sinh viên năm cuối Trần Hữu Phương-mời tham gia cùng với anh em trong trường thành lập ra một sân chơi cho tất cả đồng hương. Gọi là “anh em” chứ tại trường lúc đó mỗi năm chỉ có một sinh viên Việt Nam-dưới năm Phương một năm là Trần Lê Quang, mới vào trường là Nguyễn Hy Hiền. Vì Phạm Quang Lễ quá bận học nên chỉ hứa sẽ cùng tham gia với anh em, thế nên mọi người rủ thêm Trần Văn Du (sinh viên của Alfort-một dạng của Viện vệ sinh dịch tễ). Và thế là ra đời “Hội ái hữu của những người Đông Dương ở Paris”!
Mấy sinh viên trường đó ngoài học cầu đường theo chính khóa còn hay chạy sang học ké thêm ở Sorbonne và College de France thế nên góp tiền nhau, tìm thuê ngay cạnh đó một gian nhà ở tầng một, rộng chỉ sáu bảy chục mét vuông, sơn sửa lại, mua bàn ghế và thậm chí mua cả một cái piano. Tất nhiên trong lúc Đức chiếm đóng, thời chiến như vậy thì Hội ra đời phải xin phép nhà cầm quyền Đức rồi, nhưng khi biết tiêu chí hoạt động của Hội là trợ giúp đồng hương Paris và đấu tranh với Chính phủ Pháp về vấn đề độc lập cho Đông Dương thì Hội nhanh chóng được chấp nhận cho hoạt động.
Với tài tổ chức của Hội trưởng Trần Huy Phương (có những lúc là Trần Văn Du làm thay hội trưởng, nhưng chưa bao giờ là Hoàng Xuân Mẫn như báo chí hay viết vậy) địa điểm này nhanh chóng trở thành điểm đến yêu thích của đồng hương Việt Nam ở Paris. Họ thường tụ tập nhau vào chủ nhật hay thứ bảy, góp tiền liên hoan nhẹ, uống trà, trao đổi tin tức quê nhà, bàn chuyện học hành rồi bao giờ cũng đi đến chủ đề chính trị. Sau một thời gian, cũng vì lý do chính trị, Hội đổi tên thành “Hội Ái hữu của những người Việt Nam ở Paris”-tức là các hội viên tự thấy nếu có đấu tranh cho chủ quyền độc lập, thì phải từng nước đấu tranh chứ không thể hô hào cho cả Đông Dương được, và đây chính là tiền thân của các “Hội Việt kiều” ở Paris và Pháp sau này. Võ Quý Huân, Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Mẫn (cháu cụ Hoàng Xuân Hãn), Lê Văn Thiêm, Phạm Huy Thông... là những hội viên tích cực nhất. Sau này có cả anh em lính thợ cũng qua lại Hội, rồi nhiều ông cố đạo người Việt cũng hay đến. Hội bắt đầu đủ mạnh để có thể tổ chức được cả những chương trình văn hóa nhỏ, ví dụ mời danh cầm Thái Thị Liên, vợ của ông Trần Ngọc Danh-sau này là đại sứ đầu tiên của VNDCCH tại Pháp-sang biểu diễn...
Lúc đó ngoài học ra, các nhà trí thức trẻ tất nhiên phải quan tâm đến chiến sự xung quanh. Càng học hành cao, thì họ càng không thể nuốt được cái cảm giác ê chề là dân của nước thuộc địa đồng nghĩa với sự lạc hậu, nghèo hèn (mặc dù quả là đúng như vậy thật!!). Và càng nặng nề hơn nữa khi họ nhìn thấy “mẫu quốc” Pháp là thực dân sừng sỏ ngày nào, giờ đây bị Hitler chia cắt và sẽ nuốt dần thôi. Sau nữa họ lại thấy Liên Xô và quân đồng minh quyết chiến với phát xít Đức như thế nào, trong chiến cuộc đó Pháp chỉ có một vai trò quá nhỏ bé, không tương xứng! Thế mà nước Pháp rệu rã ấy vẫn một mực áp đặt chế độ thuộc địa lên những nước như Việt Nam, quyết không nhả ra! Gần như tất cả hội viên của Hội Ái hữu cảm nhận được rõ ràng và thống nhất rằng PHẢI ĐẤU TRANH MỚI CÓ ĐỘC LẬP-những người yêu nước trẻ tuổi này rất nhanh đi tới kết luận đó và sau này khi có nhiều thông tin hơn thì rất cảm tình với đường lối đấu tranh của Hồ Chí Minh.
Thời đó thủ lĩnh của “cộng sản thứ thiệt” ở Paris là bác sỹ Nguyễn Khắc Viện, ông là đảng viên cộng sản Pháp từ lâu và cũng là đàn anh của sinh viên lứa những năm 40. Ông đã nổi tiếng học giỏi từ khi còn ở nhà, đã học xong ra đi làm bác sỹ, nhưng chính bản thân lại liên tục đau ốm phải nằm viện liên miên, nên rất ít khi anh em ở HAH thuê xe đón ông từ viện về Hội để gặp gỡ, mà thường có gì cần hỏi thì vào thăm ông Viện ở trong bệnh viện. Cảnh thường thấy là ông Viện nằm trên giường bệnh, ôm quyển từ điển Anh-Pháp đọc liên miên rồi khoe “hôm nay tao học xong chữ O”-tức là ông cứ thế học hết từ này đến từ khác, trang này đến trang khác, thế mà ông nhớ hết và sau này rất giỏi tiếng Anh! (Phải nói thêm là sinh viên Việt ở Pháp thời đó chỉ bắt đầu học tiếng Anh khi Anh bắt đầu tham gia cuộc chiến, và phải nghe đài Anh để có thông tin chính xác về chiến sự toàn châu Âu...). Vậy nên các trí thức, sinh viên người Việt lúc đó chỉ biết đến cộng sản qua hình tượng Đảng cộng sản Pháp là chính, còn biết về Hồ Chí Minh qua đấu tranh giải phóng dân tộc tại quê nhà (cũng có tin tức thường xuyên trên báo Pháp, nhưng anh em phải tìm thêm nhiều nguồn khác nhau để chọn lọc...). Và phải khẳng định rằng từng sinh viên-hội viên của Hội Ái hữu tự tìm hiểu về chính trị chứ không hề có sự tuyên truyền, nhồi sọ, lôi kéo từ bất cứ phía đảng phái nào!
Năm 1945 Đức thua trận, quân đồng minh Anh-Mỹ giao trả nước Pháp cho tướng Le Clerc-tướng bộ binh của De Gaullle, thời kỳ “Cộng hòa thứ tư” bắt đầu. Các tri thức Việt tại Paris đón nhận tin độc lập ở quê nhà 02/9/1945 rất vui mừng, tuy vậy chỉ có thông tin một chiều qua báo Pháp, họ cũng chưa biết được nhân vật Hồ Chí Minh là cộng sản, người của Quốc dân đảng (là của phe đồng minh) hay là một thế lực chính trị nào nữa. Hồi đó báo chí Pháp đưa tin theo chiều hướng: Việt Nam tuyên bố độc lập đối với Nhật (Việt Minh dành lại quyền từ chính quyền Bảo Đại do Nhật dựng lên). Và sau này Pháp (Leclerc) đưa quân vào Sài Gòn với chiêu bài giúp Tây (các lực lượng còn lại trên đất Đông Dương) lập lại trật tự tại cựu thuộc địa của mình (mà trước kia đã bị Nhật cướp một cách bất hợp pháp qua việc dựng nên chính phủ Trần Trọng Kim)...
Ở Paris cuộc sống của các trí thức trẻ người Việt cũng có nhiều xáo động. Đức rút đi vơ vét theo hết sạch lương thực nên cuộc sống khá khó khăn. Tuy vậy Pháp vẫn giữ chế độ học bổng tiếp tục cho các sinh viên đang học, còn ai tốt nghiệp rồi thì có thể học tiếp lên hay đi tìm việc làm cho các công ty Pháp, các bác sỹ thì mở phòng khám...đó là một chính sách khuyến khích ở lại học và làm việc tương đối rõ ràng đối với những người là nguồn chất xám đáng quý ngay cả đối với xã hội Pháp. 1945 hầu như không có ai về Việt Nam cũng vì lý do tình hình ở nhà chưa rõ ràng đối với những kẻ xa nhà (mà người ít nhất cũng đã ra đi cách đây 6-7 năm rồi!).
1946 đoàn Việt Nam sang hội nghị Fontainebleau là một sự kiện lớn, được giới trí thức người Việt ở Paris và Pháp rất trông đợi. Hội Ái hữu là một trong những tổ chức tích cực đón tiếp, giúp đỡ đoàn nhất trong suốt thời gian đoàn ở Paris. Pháp đã công nhận Hồ Chí Minh là Chủ tịch hợp hiến, tuy vậy chỉ đối với phần Bắc kỳ thôi, chứ không phải của toàn Việt Nam thống nhất (và đó cũng là chủ đề chính của hội nghị Fontainebleau!). Đoàn gồm: chủ tịch Hồ Chí Minh (thực ra đi đoàn riêng), ông Phạm Văn Đồng-Phó thủ tướng (cụ Hồ kiêm Thủ tướng), Tạ Quang Bửu-bộ trưởng quốc phòng, Vũ Đình Huỳnh-bộ trưởng bộ Lễ nghi, Phan Anh, Hoàng Minh Giám, Dương Bạch Mai, Nguyễn Mạnh Hà... Nhân vật đặc biệt: ông Đỗ Đình Thiện-trợ lý chủ tịch, nhưng thực ra cụ Thiện là “nhà tài trợ” cho chính phủ, mọi chi phí-rất nhiều đấy-cho chuyến đi lịch sử này đều do một tay cụ cống hiến, một nghĩa cử cao đẹp, rất đáng quý! Cụ Hồ thì ở nhà riêng của Aubrac-lãnh tụ kháng chiến của phe Đảng cộng sản (họ chống Đức ngay trên đất Pháp, đối nghịch với phe De Gaulle-sang Anh để chống Đức), còn cả đoàn thì ở khách sạn hạng sang mấy tháng trời. Hội nghị Fontainebleau đi vào bế tắc, 2 điều khoản không thể chấp nhận được là:
- Pháp đòi hỏi Hồ Chí Minh chỉ làm chủ tịch của Bắc kỳ, còn Trung kỳ và Nam kỳ thuộc sự cai quản của Bảo Đại. (Bảo Đại sau này lại mời Diệm đứng ra lập chính phủ, mà Diệm lúc đầu được Mỹ hậu thuẫn, mà đồng minh Anh-Mỹ lại không ủng hộ Mao, đứng chung với Tưởng Giới Thạch ở Hội đồng bảo an LHQ-thế nên mọi chuyện càng rối như canh hẹ! Cũng phải hiểu rõ rằng chính quyền của Bắc kỳ lúc này KHÔNG được sự ủng hộ của Stalin, chứ không thì Pháp đâu có dám ép Việt Nam nhiều như vậy, cũng chả cần gì hội nghị Fontainebleau, “kẻ chiến thắng” mà chỉ “hừ” nhẹ một tiếng thì cái đám quân thất trận như Pháp đời nào dám trái ý!).
- Pháp bắt bí bằng cách đòi đền bù cho các công ty, tài sản của mình nếu Việt Nam cứ đòi độc lập! Ví dụ rõ nhất là đòi đền bù mỏ than Hòn Gai, trước kia triều Nguyễn bán cho Pháp chỉ 10 quan!!! Nay Pháp đòi một cái giá thị trường mà cả chính phủ Việt Nam lúc đó nằm mơ cũng chả có được!
Tất nhiên người Việt ở Pháp càng thấy được bộ mặt trơ trẽn của tên thực dân mới là Pháp, qua đó càng thêm có cảm tình với chính phủ Hồ Chí Minh. Và cũng phải nói Hồ Chí Minh là một chính trị gia kiệt xuất, rất phong độ, uyên thâm và cảm phục được đa số bà con ta ở Pháp lúc đó!
Tạ Quang Bửu trước tốt nghiệp Trung tâm kỹ nghệ Paris, và lần này ông sang là lần thứ hai sau độc lập, lần trước ông đi cùng đoàn Quốc hội với các ông Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng với nội dung chính là “hữu nghị”, cũng đã tiếp xúc nhiều với kiều bào. Với sự giúp đỡ của Trần Ngọc Danh ông đã tiếp xúc với một số trí thức trẻ để đề nghị họ về nước giúp đỡ chính phủ kháng chiến chống Pháp-vì với kết quả hội nghị như thế này, muốn giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc thì chỉ có cách là kháng chiến chống Pháp thôi! Tất nhiên đường lối đó phải được Hồ Chí Minh đồng ý, Bác Hồ có nói chuyện với vài vị, nhưng cứ nói một cách sáo rỗng như báo chí sau này “các trí thức nghe theo lời kêu gọi của Hồ chủ tịch, về nước kháng chiến” thì e rằng bỏ qua hết tài tổ chức cũng như công sức của bác Bửu và lòng hảo tâm của bác Thiện! Và trước nhất, họ tự nguyện quay về theo tiếng gọi của núi sông!
Không có cuộc “tuyển mộ” ầm ĩ nào, mà qua sự giới thiệu của Nguyễn Khắc Viện, Trần Ngọc Danh ông Bửu đã tiếp xúc với một số người theo ông đánh giá là cần thiết cho kháng chiến sau này, và hội tụ điều kiện để có thể về đợt này. (Trần Ngọc Danh hồi đó là đại sứ ta tại Pháp-chưa có tòa đại sứ, nhân vật đối với kiều bào Paris cũng gây rất nhiều đồn đoán mà không có giải đáp, ví dụ “là em của Trần Phú, người của Quốc tế cộng sản do Nga cử sang...”; sau này ông bị kỷ luật ra khỏi đảng, thực hư không biết thế nào!?). Điều kiện: đó là nhiều người muốn về nhưng đang “kẹt”, và có nhiều người chưa muốn về ngay-không phải ai cũng có đủ số tiền mua vé tàu về nước, và tuy ở Pháp khó khăn, nhưng tình hình ở trong nước vừa qua nạn đói năm Ất Dậu nghe nói còn khủng khiếp hơn nhiều!
Tất nhiên “Hội ái hữu” là nhóm mà ông Bửu quan tâm tới đầu tiên. Chủ tịch Hội những người An Nam tại Paris lúc đó là Trần Hữu Phương-người Sài Gòn-rất có cảm tình với chủ tịch Hồ Chí Minh-nhưng anh không thể về được vì mới cưới vợ là một cô đầm dòng dõi quý tộc, nên bắt buộc phải theo đạo cùng dòng tu với nhà vợ, không theo kháng chiến được (sau này ông về miền Nam và làm Thống đốc một Ngân hàng). Nguyễn Hy Hiền nhận nhiệm vụ ông Phạm Văn Đồng giao, sang Pháp học thêm về thủy lợi, về sau. Trần Lê Quang chưa về ngay được, vì có về thì anh phải về với gia đình ở Sài Gòn (sau này ông về Nam, làm bộ trưởng bộ giao thông của miền Nam, có hai chị và em gái hoạt động cách mạng nội thành, còn người em trai được phong tặng "Anh hùng lực lượng vũ trang"; năm 1975 ông là chuyên viên Liên hiệp quốc tại Beirut). Lê Văn Thiêm còn phải sang Đức bảo vệ nốt luận án tiến sỹ, Trần Đức Thảo và Phạm Huy Thông chưa thi xong thạc sỹ (Agrege-còn khó và quý hơn tiến sỹ)... Nhiều bác sỹ đang mở phòng mạch hay kỹ sư đang làm cho hãng Pháp không dễ bỏ ngang (và cũng phải đấu tranh tư tưởng lắm chứ!). Để từ bỏ “kinh đô ánh sáng” mà về bưng biền kháng chiến thì hành động này cũng đòi hỏi rất nhiều lòng dũng cảm, đó vừa là trách nhiệm cao cả (một đi không trở lại) lại vừa là một vinh dự to lớn (được chính phủ đài thọ vé về nước-đó cũng là một khoản tiền lớn thời bấy giờ!). Anh em hồi đó cứ đùa: “giá cụ Thiện có đủ tiền thì tốt nhất mang được hết số lính chiến người Việt về-mấy chục ngàn lính giúp cụ Hồ đánh Pháp thì chắc là kháng chiến sẽ mau chóng thành công...
Cuối cùng 4 người được Tạ Quang Bửu giới thiệu để đi cùng tàu, theo đoàn với Bác Hồ về nước năm 1946 (sau hội nghị Fontainebleau) trên chiếc tàu “Dumont d'Urville” là:
- Trần Đại Nghĩa-lúc này vẫn tên Phạm Quang Lễ-về nhận chức thiếu tướng quân đội, cục trưởng Cục Quân giới-là người đặt nền móng cho ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam. Ông đã giữ nhiều vị trí lãnh đạo trong quân đội cũng như ngạch giáo dục, quản lý khoa học-kỹ thuật. Công lao rất lớn của ông là một “nhà quản lý” rất giỏi, trong những điều kiện khó khăn nhất mà phát huy tối đa được sức mạnh tập thể, thế nhưng báo chí sau này cứ hay ca ngợi ông như một “nhà chế tạo vũ khí”, “nhà phát minh”-dễ gây hiểu sai cho vai trò và đóng góp của ông trong lịch sử nước nhà!
- Võ Quý Huân-kỹ sư đúc, chia tay con gái nhỏ với người vợ đầm (gốc Nga-gia đình quý tộc đã lưu vong sau 1917). Người đi đầu trong công cuộc phát triển ngành đúc-luyện kim cho miền Bắc.
- Võ Đình Quỳnh-con đại tư sản miền Trung, kỹ sư mỏ-anh của Võ Đình Bông. Ông về rồi vào Nam, bị kẹt luôn ở đó sau toàn quốc kháng chiến, trở thành nhà buôn gang thép lớn, tuy nhiên cự tuyệt không làm gì cho chính quyền miền Nam. Thế nhưng người em ruột lại khéo đổi tên, sang được Pháp, trở thành đảng viên đảng cộng sản Pháp, rồi đến 1952 lại từ Pháp trở về miền Bắc, sau này cống hiến khá nhiều cho ngành điện-than.
- Trần Hữu Tước-người “nổi tiếng” vì đi đâu cũng dẫn theo con chó, phong thái giống dân Tây- bác sỹ tai-mũi-họng lâu năm ở Paris, đã tốt nghiệp đi làm từ lâu-đi về cùng để dọc đường chăm sóc sức khỏe cho đoàn. Sau này sáng lập ra ngành tai-mũi-họng của miền Bắc Việt Nam.
Theo sự sắp xếp của ông Phạm Văn Đồng, sau đó vài tháng 5 trí thức Paris khác đã về theo tàu “Félix Roussel” (tổ chức mua vé, cho mỗi người 3000 quan để mua áo quần, đồ đạc) về Sài Gòn rồi sau đó được đưa vào chiến khu. Tàu đi đến Singapore thì nghe được tin “toàn quốc kháng chiến”. Gồm có:
- Hoàng Xuân Nhị-em út của cụ Hoàng Xuân Hãn-Sorbonne (tốt nghiệp cử nhân văn chương Pháp)-rất giỏi ngoại ngữ, đã dịch Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc... và in ở Paris (cũng như dịch, in Gorky, Mayacovskiy sang tiếng Pháp)! Sau này làm ủy viên phụ trách giáo dục & văn hóa trong Ủy ban kháng chiến Nam Bộ. Sau 1954 làm Chủ nhiệm khoa ngữ văn ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Nhật- tốt nghiệp Trường Trung tâm Cơ khí Paris, về cùng người vợ đầm. Sau này làm ủy viên phụ trách tôn giáo, mặt trận (bố là lãnh tụ Cao Đài ở Bến Tre, đã tặng hết tài sản cho kháng chiến). Nguyễn Ngọc Nhật chết trong tù tại Sài Gòn, người vợ sau đó quay lại Pháp. (Ông đã chết rất anh dũng, tôi đã có riêng một status về ông!)
- Trần Văn Du-bác sỹ thú y (tốt nghiệp trường Alfort-trường dược và thú y lớn nhất của Pháp-như kiểu Viện Pasteur ở nhà mình). Trong chiến khu ông làm giám đốc một quân y viện của Nguyễn Bình, bị Tây nhảy dù, bắt về Sài Gòn, bị bắt buộc làm việc cho Tây nhưng ông kiên quyết không chịu. Tuy vậy Tây phục tài ông nên cũng không làm khó dễ nhiều, cho ra ngoài làm riêng. Mới mất cách đây mấy năm, trước khi mất ông đã di chúc tặng lại Thành phố HCM cả một cơ sở thực nghiệm và chế biến vắc xin của mình! Ông lấy con gái của ông Thái Văn Toản-thủ tướng thời Khải Định-Bảo Đại, bà là công dân Mỹ nên có thể vì thế Tây phải nể nang mấy phần...
- Nguyễn Văn Thoại-bác sỹ dinh dưỡng, tiến sỹ sinh hóa, có thời gian giúp đỡ cho Bửu Hội (Bửu Hội là nhà bác học Việt Nam có nhiều nghiên cứu về ung thư, có thể nói là nhà bác học Việt Nam nổi tiếng nhất thời đó tại Pháp)-xin về để nghiên cứu về hoạt động của anh em trí thức ở chiến khu như thế nào. Về Nam, ông có đi thực tế một thời gian, nhưng sức khỏe yếu nên xin về. Muốn được đi cùng đoàn từ chiến khu miền Nam đi ra tận miền Bắc, vì theo lời đồn (có thể là ý kiến của ông Bửu Hội) trên đường Trường Sơn có một loại cây rất quý để chữa ung thư, nhưng sức yếu nên không đi được. Sau này quay lại Pháp sống và làm việc, sau 1975 ông thỉnh thoảng về Hà Nội chơi, và có kể là đã có người tìm ra loại cây quý kia, ông đã có mẫu vật trong tay, ở bên Pháp đang tiếp tục nghiên cứu. Kết quả chưa thấy được công bố...
- Nguyễn Hy Hiền-Đại học Cầu đường Quốc gia Paris, về chiến khu đổi tên thành Lê Tâm, nhận chức đại tá quân đội. Kỹ sư quân giới dưới quyền của tường Nguyễn Bình, tác giả súng không giật SS chế tạo tại rừng Sác. Sau khi tập kết ra Bắc ông chuyển sang ngành giáo dục đào tạo, rồi sau đó sang quản lý khoa học-kỹ thuật, và như một cơ duyên, ở nhiều cương vị ông đã song hành cùng người anh cùng trường đại học Cầu đường Paris, người thủ trưởng trực tiếp ở nhiều cơ quan là Trần Đại Nghĩa: Cục Quân giới, trường đại học Bách Khoa Hà Nội, Ủy ban Khoa học nhà nước...
- Lê Văn Võ: tốt nghiệp khoa hóa ở cao đẳng Grenoble (giống Võ Quý Huân). Sau này về Ban quân giới ở chiến khu Nam Bộ cùng Lê Tâm, phụ trách chế tạo thuốc súng. Sau khi tập kết ra Bắc làm kỹ sư trưởng của Nhà máy bia Hà Nội-trong vị ngon của bia Hà Nội ngày nay chắc cũng có đóng góp của ông.
Sau 2 đợt các trí thức về nước năm 1946 thì vẫn có lác đác những trí thức hàng đầu thu xếp xong công việc riêng để về, trong hoàn cảnh chiến sự ở nhà đang rất nóng bỏng. Không thể không nhắc tới 3 vị sau:
- Lê Văn Thiêm: cử nhân trường đại học Sư phạm Paris (khoa toán), sau đó làm luận án tiến sỹ và phải sang Đức để bảo vệ. 1948 ông bảo vệ luận án tiến sỹ quốc gia tại Pháp, rồi 1949 ông từ Pháp về Bangkok-rồi đi đường bộ thằng về chiến khu trong bưng biền không qua Sài Gòn, sau đó lại quay lại Bangkok-Bắc Kinh, từ Bắc Kinh quay về Nam Ninh để cùng phụ trách giáo dục cho trường Khu Học Xá là nơi sơ tán và đào tạo con em cán bộ cách mạng miền Bắc qua (cùng các ông Võ Thuần Nho, Nguyễn Xiển). Sau hòa bình ông là viện trưởng Viện Toán đầu tiên, và có công lớn sáng lập ra những trường đại học đầu tiên của miền Bắc.
- Trần Đức Thảo: cử nhân và thạc sỹ của trường đại học Sư phạm Paris (khoa triết). Ông được chính chủ tịch Hồ Chí Minh mời về nước từ đợt 1946, nhưng ông xin hoãn lại để hoàn thiện luận án tiến sỹ, đồng thời nghiên cứu chuyên sâu về chủ nghĩa Marx-Lê, rồi 1952 mới về. Về số phận vinh quang và cay đắng của ông đã có rất nhiều bài viết... Hãy nhớ, Thảo là nhà triết học đúng nghĩa duy nhất mà Việt Nam ta đã từng có!
- Phạm Huy Thông: nói về các trí thức từ Paris về, không thể bỏ qua ông. Ông sang Pháp năm 1937 để học trên đại học, con người rất tài hoa, nhà thơ mới (ví dụ tác phẩm "Tiếng địch sông Ô"), đã trở thành luật sư từ năm 21 tuổi. Sang Pháp, chắc là về học hàm học vị trong số người Việt không ai nhiều như ông. Là người có uy tín và tích cực bậc nhất tại Hội Ái hữu, năm 1946 ông cùng Hội Ái hữu được cụ Hồ chọn làm những người trợ giúp cho đoàn đi dự hội nghị Fontainebleau, và ông đã quyết định chọn cho mình con đường đấu tranh như con đường của cụ Hồ. Tuy vậy vì lấy vợ đầm nên ông chưa về ngay được, ông chọn con đường đấu tranh vì độc lập ngay trên đất Pháp. Rất có tài tổ chức, ông phụ trách Việt kiều hải ngoại (bây giờ mới có từ Việt kiều), làm giới chức Pháp khá đau đầu, chúng trục xuất ông về Sài Gòn năm 1952, vợ và con cũng theo ông về Việt Nam. Ông tham gia đấu tranh cùng với Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát...rồi bị địch bắt. Cũng như bà Nguyễn Thị Bình, ông Nguyễn Hữu Thọ... ông đã được trao đổi tù binh và ra miền Bắc năm 1955. Sau này người ta nhớ nhất về ông là Hiệu trưởng Sư phạm Hà Nội và Viện trưởng Viện Khảo cổ, tuy nhiên tài tổ chức và uy tín của ông có lẽ chưa được tận dụng hết!
Ngoài các vị kể trên thì cũng rất nên nhắc tới 2 trí thức từ Pháp về khác:
- Nguyễn Như Kim: “tri thức Việt kiều bất đắc dĩ”. Học trong nước, khi từ chiến khu Việt Bắc được giao mang 18kg vàng sang Thái Lan để mua khí tài cho miền Bắc và chở về bằng tàu biển, ông bị Pháp bắt cho vào tù, và khi thấy ông là tri thức, Pháp đưa cho ông 2 lựa chọn: hoặc bị xử (chắc chết) hoặc “phải” sang Pháp học, và tất nhiên ông phải chọn phương án 2 (chứ không phải như người ta hay viết, trong tù nhưng vẫn “xin ý kiến tổ chức” và “tương kế tựu kế, sang Pháp trau dồi kiến thức và chờ lệnh”-cuộc sống nhiều khi có những lý lẽ khác với người đời tô vẽ!). Ông học về điện và vô tuyến điện (có thể nói ông là người đầu tiên được học bài bản về điện tử chân không thời đó). Quả là lòng yêu nước vẫn không nguôi ngoai trong ông, nên sau 1954 khi được ông Tạ Quang Bửu gửi lời mời, ông đã thu xếp để đưa cả vợ con về nước. Ông làm chủ nhiệm khoa Cơ-Điện đầu tiên tại ĐH Bách Khoa Hà Nội (sau là khoa Điện-Điện tử) và sau là viện trưởng Viện Thông tin...
- Lê Bảo: học trường Hàng hải tại cảng quân sự Toulon (cũng là một trường rất nổi danh ở Pháp)-có thể nói là người được đào tạo bài bản nhất về đóng tàu. Sau 1954 ông đã về miền Bắc và khi đó khoa Cơ-Điện của ĐH Bách khoa được tách ra, ông làm chủ nhiệm khoa Cơ khí, tuy vậy sau này ông chưa có dịp áp dụng kiến thức về bộ môn đóng tàu...
Nhìn lại tiểu sử tóm tắt của các tri thức quay về từ Pháp, ta có thể thấy mấy điểm chung sau:
  • Họ là những NGƯỜI YÊU NƯỚC, họ tự nguyện về nước, biết trước sẽ vô cùng gian khổ, xuất phát từ ý nguyện “đáp lời sông núi”, đa số chỉ trở thành đảng viên sau này.
  • Không có ai trở thành cán bộ lãnh đạo ở những cương vị chủ chốt cao nhất, tuy vậy tất cả họ đều đã áp dụng vốn kiến thức được học bên Pháp trên mọi cương vị. Đất nước chưa tận dụng hết khả năng của họ (cũng như chưa thu hút được hết trí thức giỏi khác từ Pháp về), khá đáng tiếc!
  • Sáu người trong số họ được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về thành tựu khoa học-kỹ thuật: Lê Văn Thiêm,Trần Đại Nghĩa, Lê Tâm, Trần Đức Thảo, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước.
  • Là những tri thức thự thụ, họ đã sống hết mình và không có kẻ nào luồn cúi cầu vinh, cầu lợi. Họ xứng đáng là tấm gương cho các thế hệ sau noi theo!
P.S. Căn nhà của Hội Ái hữu- đ/c 11 Rue Jean de Bauvais, quận 5 Paris-được các hội viên góp tiền mua lại năm 1942. Người đóng góp nhiều nhất-40% giá tiền mua- là Lâm Ngọc Huấn-một người Tàu Chợ Lớn, sang Paris chả học gì, chủ yếu ăn chơi thôi, tuy vậy rất ủng hộ Việt Minh và cụ Hồ (sau này về miền Nam làm Sở Mật vụ thì phải?!), và anh Tuyên, con một địa chủ miền Nam. Bây giờ vẫn là trụ sở của Hội Việt kiều yêu nước tại Paris.
Chưa từng có cuộc gặp lại nào có tương đối đầy đủ những tri thức từ Pháp về.
Các nhân vật của status này đại đa số đã thành người thiên cổ, theo tác giả thì hiện nay chỉ còn 3 cụ đều đã ngoài 90: Lê Tâm (tức Nguyễn Hy Hiền), Lê Bảo (cả hai đều ở Hà Nội) và Trần Lê Quang (Mỹ).
Chắc bài viết mang tính chủ quan, còn có nhiều sai sót, xin ACE lượng thứ và góp ý thêm!
Nam Nguyên

TRẢ LẠI LỊCH SỬ NHỮNG GÌ CỦA LỊCH SỬ - Tại sao bầu cử thống nhất đất nước năm 1956 không thành...


Tại sao bầu cử thống nhất đất nước năm 1956 không thành...

Trước giờ chúng ta thường được thông tin của lề phải nói rằng, tại vì chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm không chấp nhận bầu cử vì sợ sẽ thất cử trước chính quyền VNDCCH của Chủ Tịch Hồ Chí Minh...
Ta sẽ sơ lược để tìm hiểu nhé. Thời điểm từ năm 1954, là năm ký Hiệp Định Giơnevơ cho đến năm 1956là năm sẽ phải Tổng tuyển cử thống nhất hai miền, thì như các bạn đã biết là công cuộc Cải Cách Ruộng Đất đang "Long Trời Lở Đất" trên khắp lãnh thổ miền Bắc của VNDCCH. Những cuộc di cư của hàng trăm ngàn đồng bào Công Giáo vào Nam vẫn tiếp diễn ,khiến cho các vùng Công Giáo truyền thống Bùi Chu, Phát Diệm...vắng tanh, chỉ còn các cha ở lại để giữ tài sản Nhà Thờ. Vùng tập kết tự do cho dân di cư ở Hải Phòng vẫn hoạt động trong thời hạn 300 ngày...Ước tính có khoảng 900.000 ngàn đã rời bỏ quê hương ở Miền Bắc để di cư vào Miền Nam. Số người di cư này, vốn có sự căm thù hiển nhiên với CS, cộng với các Giáo Phái Cao Đài, Hòa Hảo...đều có mối thù không khoan nhượng với CS. Và hơn tất cả là tuyệt đại đa số người Miền Nam, miền Trung đều không ủng hộ CS. Và thực tế trong cuộc kháng chiến 9 năm thì Việt Minh không thành công ở miền Nam và miền Trung như ở Miền Bắc được..

Ngược lại chỉ có khoảng 160.000 ngàn người vừa dân vừa quân đội Việt Minh đã rời bỏ quê hương để tập kết ra Bắc. Bối cảnh thì như vậy, và với truyền thống thắng cử của nền dân chủ trước nền độc đảng thì hẳn là ngược đời nếu cho rằng chính quyền Ngô Đình Diệm không dám Tổng tuyển cử vì sợ...thất cử.


Việc từ chối Tổng tuyển cử thống nhất là sự thật chứ không phải là bịa đặt của chính quyền CS. Tất cả dường như bắt đầu từ một con người. Nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm. Và với lý do là không tin có sự bầu cử công bằng, chứ không phải là sợ thất cử. 


Khi Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ, phải chấp nhận ký hiệp định Genever 1954, thì chỉ có 7/9 nước tham gia ký Hiệp Định này. Và hai nước không ký chính là Hoa Kỳ và Quốc Gia VN, tên của QG mà lúc đó còn do Bảo Đại làm quốc trưởng và Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Mặc cho Pháp thúc ép, và ngay cả QT Bảo Đại thúc giục nhưng TTg Diệm vẫn cương quyết không chấp nhận ký, vì lý do chia cắt đất nước...Ông chỉ đạo cho ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn QGVN dứt khoát không ký với một tuyên bố long trọng :


"Việc ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có những điều khoản gây nguy hại nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam. Hiệp định đã nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và tước mất của (Quốc gia) Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ. Bộ Tư lệnh Pháp đã tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái đoàn quốc gia Việt Nam... chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở."


Và khi cái Hiệp Định tai họa đó đã ký thì QG VN và Hoa Kỳ đã không ký. Ông ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã bật khóc...TTg Ngô Đình Diệm tuyên bố treo cờ rủ vào ngày ký kết hiệp định vì biết trước sự chia cắt đất nước...Và ông đã có một câu nói nổi tiếng :


"Phải thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ"


Và khi năm bầu cử 1956 đến, khi đó ông đã là Tổng Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, ông đã bác bỏ mọi khả năng bầu cử hòa bình để thống nhất hai miền. Vì không tin rằng sẽ có một cuộc bầu cử hợp lệ, tự do và công bằng. Chính phủ Việt Nam DCCH lại được nước, liên tiếp đưa ra các đề nghị bầu cử. Nhưng chính quyền NĐD không trả lời...Và thế là chiến tranh giữa hai miền nổ ra sau đó đưa đến bao cảnh tan nát điêu linh. Và Chính quyền VNDCCH cũng lên tiếng tố cáo chính quyền NĐD không chịu bầu cử thì cũng không sai...


Nhưng trong vòng thân tình thì ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã cười ruồi khi trả lời phóng viên nước ngoài rằng : "Nếu có bầu cử thì dù chúng tôi có nhắm mắt lại cho họ (CS) gian lận bầu cử thì chúng tôi vẫn thắng lớn"


Mai Tú Ân


Mai Tú Ân 's facebook

TRẢ LẠI CHO LỊCH SỬ NHỮNG GÌ CỦA LỊCH SỬ... - Tại sao Hoàng Sa...


Tại sao Hoàng Sa...

Tại sao có sự kiện Trung Cộng chiếm Hoàng Sa và giờ thì nghiễm nhiên coi đó là đất của họ. Ta sẽ trở lại bối cảnh lúc đó để xem xét sự kiện này...

Đầu năm 1974, Hiệp định Paris (1973) đã ký và quân đội Mỹ đã rút ra khỏi miền Nam Việt Nam. Mỹ và Trung Cộng đã ngầm bắt tay nhau để mưu tính việc nhớn, bỏ chuyện Việt Nam lại tự giải quyết với nhau...Và thế là miền Bắc đã quyết định giải phóng miền Nam bằng vũ lực. Tất cả tài lực, binh lực đã được chuẩn bị sẵn sàng nhưng có một vấn đề cốt tử mà Bắc Việt còn đắn đo chưa quyết, mà phải giải quyết vấn đề này thì họ mới đặt ra việc thực hiện quyết tâm giải phóng MN trên. Đó là người Mỹ có quay trở lại không ? Người Mỹ, mà cụ thể là lực lượng quân sự hùng mạnh của họ có quay lại cứu đồng minh VNCH không khi Bắc Việt xé toang HĐ Paris để tấn công toàn diện và triệt để miền Nam hay không ? Hoặc ít ra là họ có cho lực lượng hải, không quân của họ trợ chiến cho miền Nam như trước hay không ? Vì cái tên pháo đài bay B.52 cứ hiện lên như một bóng đen hãi hùng ám ảnh BV. Nếu tấn công miền Nam, mà không có Mỹ trợ giúp đối thủ thì cơ hội của miền Băc là có thể thành công. Còn có Mỹ trợ giúp, chỉ cần bằng hỏa lực thôi, thì cơ hội ấy là bằng 0.

Bắc Việt không cần học ở đâu ngoài học chính họ. Lịch sử cuộc chiến VN đã chỉ rõ các bài học đau thương đó. Năm Mậu Thân 1968, hiểu rằng không thể thôn tính được VNCH bằng các cuộc nổi dậy, hay du kích chiến mà chỉ có thể bằng tấn công tổng lực, lại ảo tưởng ngây thơ về sức mạnh quân sự của mình, cũng như đánh giá thấp đối thủ nên miền Bắc đã tung toàn lực để tấn công đồng loạt các đô thị miền Nam trong khi lực lượng quân sự Mỹ còn dầy đặc ở khắp lãnh thổ. Và kết quả người Mỹ chỉ cần hỏa lực yểm trợ khủng khiếp của họ cùng với sức chiến đấu mạnh mẽ của miền Nam thì miền Bắc đã bị vỡ đầu năm đó với gần 100.000 chiến sĩ hy sinh oan uổn...

Không học được bài học lịch sử đó, lại chọn vào đúng năm bầu cử Tổng Thống Mỹ 1972, miền Bắc lại tiếp tục cuộc tổng tấn công hoành tráng, mặt đối mặt với VNCH ở miền Trung (trước đó có đánh nghi binh ở Tây Nguyên). Họ tấn công vượt sông Thạch Hãn, (chứ không vượt sông Bến Hải cũng nằm y chang và cũng ngay gần đó để tỏ là không "vi phạm" Hiệp Định Giơ ne vơ 1954) Và chiếm được Quảng Tri. VNCH phản công và sau một tháng rưỡi tấn công, và nhất là được pháo đài bay B.52 ném bom không mệt mỏi thì TQLC của VNCH đã tái chiếm Thành Cổ Quảng Trị. Và chỉ riêng ở nơi này 10.000 chiến sĩ miền Bắc đã hy sinh trong mùa Hè đỏ lửa 1972.

Và cùng với đợt ném bom kinh hồn của B.52 ra Hà Nội trong 12 ngày đêm cuối đông 1973 trước ngày ký HĐ Paris thì miền Bắc đã rút ra được bài học nhớ đời của mình. Đó là đừng mơ tới chiến thắng, nếu ông Kẹ hỏa lực Mỹ còn trợ giúp VNCH...Với những vết sẹo to tướng như thế thì hẳn là các ông tướng ở Nhà Rồng, HN (BTTM MB) vừa vạch kế hoạch giải phóng miền Nam năm 1975-76 vừa cầu trời được chiến đấu khi không bị B.52 Mỹ rải bom như rải cát xuống đầu.
Và đỉnh cao trí tuệ thời đó đã có một việc làm không biết khôn hay dại. Đó là nhờ ông anh Trung Cộng giúp đỡ với một phương pháp thử thăm dò. Một hay hai hành động quân sự để thăm dò Mỹ, xem Mỹ có còn vương tình quay lại với VNCH hay không....Và hai hòn đảo nhỏ bé và xa xôi nhưng là máu thịt của dân tộc Việt Nam là Hoàng Sa và Trường Sa đã bị dâng cho Trung Cộng trong phương pháp thăm dò đối phương đó. Tất nhiên là tạm thời thôi, vì với Tàu Cộng không có khái niệm cần mở cửa ra biển Đông làm gì vì tàu bè của TC lúc đó chạy ở sông còn không đủ lấy đâu mà ra biển lớn như bây chừ. Và theo kế hoạch đã được thỏa thuận giữa hai bên, TC đã tấn công và chiếm Hoàng Sa tháng 1/1974 và đúng như mong ước của BV, Mỹ đã không hành động gì, ngoài vài lời tuyên bố lên án tào lao...Thế là đủ hiểu, và cùng với test thử nghiệm riêng của mình qua việc giải phóng tỉnh Phước Long vài tháng sau đó, thì BV đã nhận được một tín hiệu không thể rõ ràng hơn. Đó là trong bất kỳ tình huống nào, người Mỹ và đặc biệt là con Ngáo Ộp, pháo đài bay B.52 sẽ không quay trở lại chiến trường... Và thực tế sau đó diễn ra đúng là như vậy.

Cuộc " Đại Thắng Mùa Xuân" năm 1975 đã diễn ra với không một quả bom đạn chính thức nào của Mỹ ném xuống chiến trường, đặc biệt là BV không phải vừa chiến đấu vừa ngóng lên trời để nhìn thấy những vệt dài khói dài đặc trưng của từng đoàn B.52 cùng với tiếng bom chùm rền vang như động đất như những năm trước. Từng đoàn xe tăng, xe tải BV dài hàng cây số cứ ngời ngời chạy trên các xa lộ rộng lớn của miền Nam để liên tục tiếp viện cho chiến trường. Và VNCH đành thúc thủ...

Nhưng BV còn một chút khôn ngoan khi nhận ra chân tướng ông anh lớn Tàu Cộng của mình, nên họ đã "qua mặt" ông anh để nhanh chân chiếm đảo Trường Sa trước cả khi chiếm Sài Gòn. Để đề phòng ông anh lớn thừa cơ lộn xộn làm luôn Trường Sa theo thỏa thuận trước đó là "thử nghiệm" cả cặp HS và TS, hai hòn đảo đang thuộc về VNCH mà để đổi chác, VNDCCH cũng đã thừa nhận thuộc về TC từ trước đó rồi (Công hàm Phạm Văn Đồng 1958)

Và ở đời không có gì là cho không cả. Dâng gà cho cáo thì mất gà, ra mắt giới thiệu vợ đẹp cho Sở Khanh thì vợ vẫn còn nhưng bị Sở Khanh quất ngựa truy phong. Hoàng Sa mãi là vật thế chấp giữa hai ĐCS, cho mưu đồ thâm hiểm của TC cũng như sự ấu trĩ, tham nhỏ để mất lớn của VN. Thời gian lần trôi, vật đổi sao dời cùng với sự thay đổi từ anh em sống chết có nhau thành không đội trời chung với nhau, rồi lại thành đồng chí 4 tốt 16 chữ vàng, qua lại giữa bạn và thù đến chóng cả mặt thì rồi cuối cùng Trung Cộng đã lộ ra mặt là kẻ ăn cướp đảo Hoàng Sa của chúng ta. Vì lúc này với sự phát triển kinh tế mau lẹ thì con đường ra biển Đông của họ là cực kỳ cần thiết và lại đã có sẵn "của cống" tạm Hoàng Sa mà ông em tội nghiệp VN đã dâng hiến. Thế là nghiễm nhiên TC coi Hoàng Sa trở thành đảo, thành đất chính thức của họ, đem lại mối hận thù muôn đời với chúng ta. Nhưng trách kẻ cướp 1 thì tự trách mình 10 khi đem dâng cho kẻ cướp cái thứ chúng muốn cướp.

Sự việc đơn giản như thế nhưng tại sao cả hai bên cứ úp úp mở mở giấu diếm mãi như thế. Trung Cộng thì giấu diếm vì đó là hành động giống như dụ trẻ con ăn cứt gà, lật lọng và là hành động cướp nước. Còn Việt Nam thì giấu diếm vì đó là hành động bán nước.

Chỉ có dân tộc Việt Nam là đau và nhục mãi mà thôi...


Mai Tú Ân

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=542061509230485&set=a.432262976877006.1073741836.100002799225969&type=1&theater

"Chuyến Xe Cuối Cùng"


Chuyện xảy ra vào đầu năm 2000 được báo chí đăng trên nhật báo. Chuyến xe do một nữ tài xế điều khiển lao nhanh xuống đèo không thắng, 45 người tử nạn không ai sống sót kể cả tài xế.

Khi tin tức loan đi thì khoảng 9 giờ sáng có một anh thanh niên mặt mày sưng húp, tay cầm tờ báo đến tòa soạn đính chính: anh là người hành khách duy nhất đi trên chuyến xe đó sống sót, sao lạ vậy? Các phóng viên liền phỏng vấn, và chuyện như sau:
Chuyến xe cuối cùng xuất bến do nữ tài xế điều khiển chở hành khách về quê ăn tết. Nữ tài xế chạy rất cẩn thận, đúng hơn là chạy chậm nữa là đằng khác.

Cả xe đang thiu thiu ngủ, bỗng dưng có hai anh công an ngồi trên chuyến xe đó lên chọc ghẹo nữ tài xế... một anh nói "này cô em, cứ chạy như thế thì có mà đến tết Ma rốc mới về đến nơi à!" Còn anh kia đưa tay lên sờ vào má cô tài xế nói "phóng nhanh đi em, nếu không chạy nhanh thì để anh chạy cho", rồi cười hô hố.
Cô tài xế nghiêm giọng "đề nghị hai anh về chỗ để tôi làm việc, trên xe không phải một mình các anh, tôi còn phải bảo đảm tính mạng của nhiều người khác nữa."
Nhưng hai anh công an đó cứ chọc ghẹo và cả xe không ai dám lên tiếng vì sợ, họ cứ ngồi im re, không ai lên tiếng bênh vực cho nữ tài xế, cũng là để bảo vệ tính mạng cho mình.

Được một lúc có anh thanh niên ngồi gần đó lên tiếng "tài xế nói đúng! đề nghi hai anh về chỗ ngồi cho tài xế làm việc để bảo vệ tính mạng cho hai anh và cho tất cả mọi người!"
Thế là hai anh công an xoay ngang xán cho người thanh niên đó mấy tát: "Đ.M mày dám dạy đời bọn tao à?" Nói xong họ đánh anh thanh niên đó một trận tơi tả. Cả xe vẫn tiếp tục ngồi im nhìn hai anh công an với ánh mắt sợ hãi.

Khi xe đi lên đến đỉnh đèo, nữ tài xế thắng xe lại, lấy lược chải đầu xong liền nói "yêu cầu người bị đánh hồi nãy xuống xe thì tôi mới chạy tiếp, nếu không tôi sẽ cho xe nằm lại đây luôn không chạy nữa."
Cả xe nhốn nháo, mọi người đều nói "tôi còn bao nhiêu việc phải làm, không thể nằm ở đây được, vì chuyến xe này là chuyến cuối cùng, không còn có chuyến nào khác đi qua đây."
Hành khách bắt đầu la ó đuổi anh thanh niên kia xuống xe! Thế là hai anh công an liền túm cổ anh thanh niên kia kéo ra cửa xe và đạp anh ta xuống đường, vứt hành lý vào mặt nạn nhân đang nằm ra đó giữa đêm khuya lạnh giá trên đỉnh đèo.

Sau khi đóng cửa xe hai anh công an nói "bây giờ cô em cho xe chạy được chưa, và chạy nhanh lên nhé?" Cô tài xế gật đầu đồng ý rồi nổ máy xe chạy hết tốc độ, lao thẳng xuống đèo trước sự bất lực của hành khách và hai anh công an. Và, tất cả mọi người trên xe không một ai sống sót!
Người sống duy nhất đó là anh thanh niên đang tường thuật với tòa soạn báo. Anh đính chính với toà soạn là cô tài xế đã chạy chậm chứ không phải chạy nhanh như báo đã đăng. Bởi cô tài xế muốn cứu anh nên mới đuổi anh xuống đường đêm hôm đó.

Dân tộc Vietnam cũng đang đi trên chuyến xe cuối cùng với hơn 80 triệu hành khách. Những anh chị em thanh niên tốt dám lên tiếng đều đã bị đánh bị đạp xuống xe như chị Tần, chị Hằng, anh Quân, anh Điếu Cày, anh Duy Thức...

Hy vọng cho một ngày mai không phải đọc tin loan báo tất cả hơn 80tr hành khách trên chuyến xe cuối cùng... đã tử nạn!

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=970500546313231&set=a.388830817813543.102393.100000598832323&type=1

NÓI VỚI CÁC BẠN TRẺ: Hãy quan sát, tìm hiểu & nhận xét mọi thứ xung quanh cuộc sống mình

"Những người trẻ - các bạn vẫn còn thời gian để tra xét, thăm dò mọi thứ xung quanh cuộc sống mình, vẫn còn thời gian nhưng còn ít lắm. Tôi nghĩ bạn hoàn toàn có thể nhìn thấy một chế độ hủ bại tệ hại đến mức độ nào, người ta sợ những kẻ cầm quyền, làm việc cho "tổ quốc" và bên trong tôi biết đi kèm là sự căm phẫn nữa nhưng không ai, không một ai dám lên tiếng cả, chỉ cố gắng nương theo cái xã hội này mà an phận sống cho qua ngày.

Kẻ khôn ranh thì kiếm tiền bằng đủ mọi thủ đoạn và rồi ung dung hưởng thụ mặc kệ mọi thứ ra sao. Chẳng phải các bạn đều thấy sao?? Các bạn có thể nhìn lại chính bản thân mình xem mình đã bị quy định ra sao? truyền thống, văn hóa, tư tưởng?? Nhìn đâu dù ít hay nhiều cũng toàn những người khôn ranh bợ đít kẻ trên, cay nghiệt với kẻ dưới, khúm núm rồi lại vênh váo với đời...Các bạn nhìn đi, có nhắm mắt cũng thấy mọi thứ ở cái đất nước này đều ở dưới đáy cùng rồi, từ Giáo dục, Kinh tế, Chính trị, Môi trường...

Không còn nhiều thời gian đâu, một khi bạn ra trường và đi làm rồi lập gia đình thì bạn lại bị nghiền nát bởi những bánh răng của hệ thống này thôi. Lại an phận mà lo cho cuộc sống nhỏ bé của mình: kiếm tiền, sinh con, uống rượu, tìm khoái lạc, an phận cho đến chết và rồi đến đời con cháu chúng ta, chúng ta cũng không biết giúp đỡ thế nào cho số phận chúng nó, vì bản thân ta đã ngu muội tối tăm lắm rồi.

Những người bạn, hãy cùng tôi. Tôi 23 và các bạn cũng chừng tầm đó, hãy mở mắt to ra và nhìn cái "tổ quốc" này, cái hệ thống xã hội này nó đang hủy hoại cuộc sống con người ra sao, từ môi sinh bên ngoài cho đến nhân cách bên trong, nhìn xem con người chúng ta, tư tưởng chúng ta bị áp đặt, quy định như thế nào bởi gia đình, truyền thống, giáo dục, truyền thông, báo chí... Nhìn đi!!! Chỉ bước đầu bạn nhận ra thôi, và khi đó bạn sẽ biết làm gì. Thật tệ là bạn còn chưa nhận ra sự thật, bạn lại hỏi rằng "sau đó thì phải làm gì?"...

Tin tôi đi, chỉ cần bạn thấy bản thân mình đã bị uốn nắn ra sao, nhìn hệ thống chính trị hủ bại tệ hại thế nào, thì đó đã là cuộc cách mạng rồi. Bạn sẽ không bao giờ cho phép bản thân mình ở trong guồng máy đó nữa. Và khi đó bạn sẽ không bao giờ cần phải hỏi "tôi phải làm gì" nữa."

-- Admin Hậu 

https://www.facebook.com/Triet.Hoc.Duong.Pho/posts/1039174676096996

Thư cho một bạn trẻ

Bạn quý mến, rất tiếc là tôi chưa được quen thân với bạn, nhưng tôi đã thấy bạn từ bục giảng của tôi, nghe bạn tâm tình qua những bức thư đầy bức xúc về đất nước, về tương lai, và về nhân loại nữa.
Qua đó tôi cảm nhận một nghịch lý: bạn vừa có niềm tin ở một tương lai xán lạn hơn, nhưng niềm tin ấy lại bị xao xuyến do cái hiện tại này. Bởi vậy, nhân dịp xuân về, Tết đến, trước hết tôi cầu mong bạn giữ vững niềm tin ấy, và có ít dòng tâm sự.
Trước tiên, một lời tạ lỗi...
Tôi không có “kinh nghiệm” hay lời dặn dò gì để truyền lại cho bạn, bởi vì tôi nghĩ mỗi thế hệ phải tìm một tương lai cho mình. Hơn nữa, dù nghĩ rằng chúng tôi (thế hệ trước các bạn) đã có nhiều cống hiến nhất định cho đất nước (chúng ta không bao giờ quên hàng triệu người thế hệ tôi, và trước nữa, đã hy sinh để mang lại độc lập, thanh bình và thống nhất cho tổ quốc), chúng tôi cũng đã có rất nhiều lỗi lầm, yếu kém...
Các bạn đang tiếp nhận một xã hội và một đất nước còn nhiều mảng tối, thậm chí có người sẽ nói là, về vài mặt, chúng có chiều đi xuống. Cụ thể, không ai có thể thành thực mà nói rằng nước ta có một nền giáo dục đáng hãnh diện. Và sông núi, ruộng đồng! Có ai dám nói rằng tất cả đều đẹp đẽ như xưa? Để lại cho các bạn một nền giáo dục như thế, núi sông như thế, có lẽ là “tội” lớn nhất của những người mà trách nhiệm là chuẩn bị cho tương lai các bạn, là gìn giữ giang sơn cho các bạn. Những người ấy là chúng tôi.
Tôi phải nhìn nhận rằng trong những năm gần đây, khi cơn lốc “thị trường” bao phủ lên đất nước ta thì (cùng với sự phồn vinh vật chất mà nó đem lại) một bộ phận không nhỏ chúng tôi, nhất là giới được xem là “trí thức”, đã tha hóa. Chúng tôi đã góp phần không nhỏ vào sự “chụp giựt” của cuộc sống ngày nay, một số không ít chúng tôi đã co cụm lại, chỉ lo cho gia đình, con cháu mình mà không nghĩ đến các bạn, thái độ đạo đức giả của một số chúng tôi hẳn đã làm nhiều bạn chán ngán. Một số chúng tôi đã có quyền, có lợi, nhưng chưa làm đầy đủ bổn phận với các bạn. Bởi vậy, trước hết, tôi có lời xin lỗi bạn, thế hệ trẻ. Tôi không dám thay mặt ai để xin lỗi, chỉ xin lỗi cho cá nhân tôi, song tôi nghĩ nhiều người ở thế hệ tôi cũng cùng một tâm trạng.
Nhưng dù hiện tại có thế nào thì tương lai cũng sẽ đến, và tương lai đó sẽ trong tay các bạn. Chẳng những tôi không biết hình tượng vật chất, cơ cấu xã hội hay thể chế kinh tế của tương lai ấy sẽ thế nào, tôi còn ngờ rằng bạn sẽ phải đương đầu với những vấn đề triết lý cực kỳ cơ bản mà tôi chưa thể hình dung. (Ví dụ như với sự tiến bộ của y sinh học, nhất là công nghệ nháy (cloning), đông lạnh thân xác..., tất sẽ có những câu hỏi: “con người là gì?”, “sự sống là gì?”). Mỗi thế hệ phải đi vào một tương lai hoàn toàn mới mà không thế hệ nào trước đó hình dung được. Dù vậy, có vài vấn đề mà tôi nghĩ sẽ là cái trục mà tương lai sẽ xoay quanh. Tôi xin chia sẻ với các bạn.
Toàn cầu hóa và dân tộc tính
Chúng ta đang vào một kỷ nguyên trong đó thế giới thay đổi với một nhịp độ và tầm mức chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, vùn vụt và sâu rộng. Đó là tiến trình vũ bão của cái gọi là “toàn cầu hóa” (gọi cho gọn, dù tôi không thích cho lắm cụm từ thời thượng này). Tin tức từ khắp nơi trên thế giới đến với mọi người từng phút, từng giờ. Các bạn đi du học, du lịch, gặp gỡ bạn bè, thân nhân, từ các nước về thăm nhà. Toàn cầu hóa đem lại cho bạn vô vàn cơ hội, và bạn nên sẵn sàng (trong tư duy cũng như trong kỹ năng) để tận dụng những cơ hội ấy (một việc cụ thể là trau dồi ngoại ngữ), nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề mà tôi mong các bạn cùng suy nghĩ.
Thứ nhất là sự giữ gìn dân tộc tính. Tôi không khẳng định là bạn phải bảo tồn dân tộc tính (cũng xin lưu ý các bạn rằng không phải mọi người đều nhất trí “dân tộc tính” là gì) nhưng tôi muốn chúng ta (bạn lẫn tôi) cùng suy nghĩ có nên “giữ gìn bản sắc dân tộc”, theo nghĩa nào đó, và nếu nên thì nên giữ phần nào, đến mức độ nào. Chọn lựa ấy đòi hỏi những cân nhắc khách quan (không để những sô-vanh phi lý chi phối) song cũng khó thể không chủ quan, bởi vì nó sẽ phản ảnh tình cảm (nào đó) đối với quê hương đất nước, nguồn cội của mình.
Trần Hữu Dũng là giáo sư kinh tế học của Đại học Wright State tại Dayton, Ohio, Mỹ. Ông chuyên về nghiên cứu kinh tế vùng Đông Á, đặc biệt là Việt Nam.
Giáo sư Dũng cũng là biên tập viên quản lý của cổng web nổi tiếng Arts & Letters Daily
Riêng về Việt Nam, ông là tác giả của website Viet-studiescập nhật thường xuyên các bài báo, báo cáo nổi bật trong và ngoài nước về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam.
Vươn ra với thế giới không có nghĩa là chúng ta sẽ xóa nhòa những đặc thù của văn hóa, của ngôn ngữ chúng ta, nhưng cùng với những cơ hội tràn vào từ ngoài là xu thế đồng hóa (tưởng tượng xem: đời sống sẽ dễ dàng biết bao nếu mọi người trên thế giới đều sử dụng... tiếng Anh!). Trong lúc đó, “dân tộc tính” (tạm gọi như vậy) là cái đặc thù. Làm sao để khai thác mọi cơ hội của toàn cầu hóa trong lúc giữ đến một chừng mực nào đó tính đặc thù, cái cá biệt của chúng ta, là một bài toán cho các bạn.
Thứ hai, toàn cầu hóa không có nghĩa là bạn không còn là một công dân của một nước. Nói cách khác, dù bạn có trở thành một “công dân quốc tế” thì bạn cũng vẫn là thành viên của một “địa phương” nào đó. Dù bạn có sang Âu, sang Mỹ sống thì bạn cũng phải đối diện với những vấn đề của cộng đồng, địa phương ấy... Đó không nhất thiết là một ràng buộc đạo đức nhưng là một yêu cầu xã hội thiết thân (và thiết yếu!). Chọn lựa sự dung hòa, kết hợp những trách nhiệm ấy, chính là đóng góp cụ thể vào sự xích gần nhau giữa người và người, xuyên qua lằn ranh quốc gia và chủng tộc. Nói như nhà xã hội học Ted Ward, bạn sẽ là thành viên của một nền “văn hóa thứ ba”.
Nếu bạn đã có dịp du học, hoặc đang du học, thì bạn thật là may mắn, và một quyết định mà bạn phải đối đầu là có nên về nước hay không. Bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe ý kiến tôi: điều đó không thật sự là quan trọng! Tôi tin rằng bạn đủ sáng suốt để quyết định cho chính bạn, bởi nó tùy vào hoàn cảnh, ngành nghề, của mỗi người, và nhất là - trong kỷ nguyên đi đi về về dễ dàng như hiện nay - nó không còn là một quyết định cho suốt đời bạn, không thể thay đổi sau này. Nhưng tôi nghĩ rằng nhu cầu “làm cái gì đó” cho đồng bào mình, nhất là khi đại đa số những người ruột thịt ấy vẫn còn cực kỳ nghèo khổ, là một ước muốn cơ bản nhất của con người. Cũng không nên xem hồi hương là “cống hiến” một chiều của bạn cho đất nước, bởi vì sống giữa lòng dân tộc bạn còn nhận được những tình cảm yêu thương, những ý nghĩa của sự sống, mà bạn không tìm được ở nơi nào khác.
Nhìn rộng ra, tôi nghĩ rằng khi mà sự tương phản giữa dân tộc và quốc tế mờ nhạt đi (vì sự di chuyển dễ dàng) thì những vấn đề tài nguyên, môi trường - nói cách khác là sự phát triển bền vững - sẽ trở thành sâu sắc, bức xúc hơn. Toàn cầu hóa, nhìn theo góc cạnh này, không có nghĩa là không còn biên giới quốc gia, cụ thể là không còn những tranh chấp giữa các quốc gia, dân tộc. Chỉ là, trong kỷ nguyên mới này những xung khắc cũ sẽ tái hiện qua những phương diện khác: tranh chấp về tài nguyên (nhất là năng lượng) và môi trường. Chúng ta phải tỉnh táo, không thể ngây thơ. Chúng ta chia sẻ những quan tâm của quốc tế, hợp tác để tìm những giải pháp chung cho nhân loại, nhưng cũng không quên những quyền lợi thực tế mà mỗi quốc gia đều phải bảo vệ cho mình, dù có toàn cầu hóa hay không.
“Hai văn hóa” và những giá trị nhân văn
Trên đây tôi đã nói về sự giằng co giữa cái đặc thù của dân tộc và cái chung của thế giới, một sự giằng co mà tiến trình toàn cầu hóa làm nổi bật, thậm chí căng hơn. Nhưng còn một bộ mặt nữa trong đời sống của chúng ta - và sẽ rõ hơn trong tương lai các bạn - đó là sự quan trọng của công nghệ trong sinh hoạt hàng ngày. Bộ mặt này sẽ gây ra một sự giằng co nữa, giữa một nền văn hóa dựa vào công nghệ, vào kinh tế thị trường, và một nền văn hóa nhân văn, đi sâu hơn vào con người, mà tượng hình là văn chương và nghệ thuật.
Gần nửa thế kỷ trước, tác giả C.P. Snow (người Anh) đã báo động về cái mà ông gọi là sự xung khắc của “hai văn hóa”: văn hóa nhân văn và văn hóa công nghệ. Dù cảnh báo này của C.P. Snow đã bị nhiều người cho là một báo động lầm, chí ít cũng là phóng đại (tư duy nhân văn và tư duy công nghệ tuy hơi khác nhau nhưng không tương phản như Snow nghĩ), nó là tiền thân của một bức xúc thời thượng: “liệu thị trường có xói mòn đạo đức?”. Cũng vậy, sự tranh chấp giữa hai “văn hóa” (theo cách nói của C.P. Snow): khoa học và nhân văn sẽ làm nổi bật sự xung khắc giữa văn hóa thương mại và văn hóa “ưu tú” (tạm gọi như thế). Nhiệm vụ của bạn sẽ không đơn thuần là bảo tồn những “giá trị cổ truyền”, nhưng là khuếch trương văn hóa nhân văn - một phần đó sẽ là văn hóa dân tộc, nhưng một phần nào nó sẽ đòi hỏi sự sáng tạo của các bạn, cố nhiên là với cái tố chất của dân tộc mình.
Sự hội nhập vào thế giới mang theo nhiều nguy cơ tiềm ẩn, và có vẻ ngày càng trầm trọng. Cuộc sống hối hả, vội vàng, để lại cho chúng ta ngày càng ít thời giờ để suy nghĩ, nhìn lại nội tâm. Đó là thế giới của CNN, của Google, của Wikipedia... Chúng ta có thể tưởng là mình “biết” nhiều, nhưng đó là một thứ kiến thức manh mún, rộng mà không sâu. Thông tin tràn ngập song hầu hết là vô ích. Bạn nên nhín chút thời gian để lắng đọng, ngồi lại một nơi cô tịch để trầm tư.
Với sự tiến bộ của công nghệ thì vai trò của văn chương, nghệ thuật có phần bị lu mờ. Đây là một xu hướng toàn cầu mà nhiều trí thức khắp nơi đã báo động, than phiền. Tôi vẫn biết rằng không phải tất cả các bạn đều “kiếm cơm” trong lĩnh vực văn hóa. Các bạn sẽ là nhà kinh doanh, là kỹ sư, là nhà nông... nhưng tôi mong các bạn lưu tâm, và khuyến khích - ít nhất là trong cương vị một người “tiêu dùng” văn hóa - sinh hoạt ấy, bởi vì một xã hội không thể là “phát triển” nếu nó thiếu vắng những sinh hoạt văn hóa sống động, những người thẩm định văn hóa có trình độ. Và những người đó là bạn, chính là bạn, dù công việc kiếm cơm hàng ngày của bạn nằm trong lĩnh vực nào.
Thay lời kết
Trên đây tôi đã thử đưa một cái nhìn khách quan về những vấn đề mà bạn sẽ đương đầu, và tôi đã hứa sẽ không dám “dạy” bạn điều gì. Thế hệ đi trước bao giờ cũng có nhiều kinh nghiệm nhưng tôi xin để những người khác, sống nhiều hơn và hiểu biết hơn tôi, truyền lại các bạn những kinh nghiệm ấy, và tất nhiên, sẽ có nhiều điều mà chính các bạn, cũng như những thế hệ trước, phải tự trải nghiệm. Tôi chỉ xin chia sẻ với bạn một số linh cảm của tôi về tương lai và gửi gắm vài hoài vọng.
Ở nước ta, sự chênh lệch giàu nghèo, những bất công trong xã hội, còn quá nhiều (và có vẻ ngày càng sâu đậm hơn!). Nếu bạn được may mắn là người khá giả ở thành thị thì thỉnh thoảng cũng nên nhìn đến những người mà đời sống vật chất khó khăn hơn mình (tôi không nói là “bất hạnh”, vì chắc chắn là họ không cần thương hại, và cũng chưa chắc là bạn hơn họ về tri thức, về những đức tính khác của con người). Phải nghĩ rằng chỉ vì một tình cờ nào đó của lịch sử mà bạn được như ngày nay. Tôi luôn nghĩ rằng một xã hội tươi đẹp - một xã hội đáng sống - là một xã hội mà mọi người đều có cơ hội tiến thân, một xã hội mà mọi người “tử tế” với nhau... Đối với những bạn đang có đời sống chật vật thì tôi chỉ xin bạn nhẫn nại và cố gắng, và hãy tin rằng không gì là không có thể...
Nhưng, bạn còn trẻ, trước mặt bạn còn là những ngày nồng ấm của yêu đương, hãy dìu nhau đi trong những buổi chiều hồng, hãy dành nhiều thời giờ cho những đứa con còn đang lớn, với người vợ trẻ, ông chồng chưa... già. Tuổi trẻ không chỉ là chặng đường chuẩn bị cho tương lai. Tuổi trẻ còn là một khoảng hiện thực của chính cuộc đời bạn, với những sướng vui mà bạn sẽ chẳng bao giờ tìm lại được. Bạn hãy tận hưởng tuổi trẻ ấy. Và ngay những lúc bạn... thất tình (hay ve vuốt thú đau thương?), bạn nên nhớ một điều: rồi tất cả cũng qua đi. Điều cần nhất là phải luôn luôn giữ gìn sức khỏe, và tránh những gì mà hậu quả sẽ làm bạn hối tiếc sau này.
Tôi mong rằng trong số các bạn đọc thư này hôm nay, rồi đây sẽ có người viết một bức thư như thế này cho một bạn trẻ khác, và nước Việt Nam - không, cả thế giới này - lúc ấy sẽ đẹp đẽ hơn, và bạn sẽ mãn nguyện về những đóng góp của bạn cho cuộc đời này, trong bất cứ lĩnh vực nào mà bạn chọn lựa.
Cái nguy hiểm là chúng ta sẽ nản chí, chua cay, cho là mình không thể làm gì được nữa... Dù hiện tại có vẻ ảm đạm như thế nào (và thực sự thì nó không ảm đạm như bạn tưởng!), khó khăn ra sao, chúng ta phải giữ niềm tin, và tích cực cùng nhau thực hiện niềm tin ấy, vì đó là bổn phận của chúng ta đối với chính mình...
Xin chúc bạn và gia đình một năm Kỷ Sửu đầy thành công và may mắn.
Trần Hữu Dũng
Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2006)