
Hai Bà Trưng đã đánh đuổi giặc Tàu. Liệu Việt Nam có lặp lại được kỳ tích này?
Đáng lo hơn là một cuộc xung đột có vũ trang không phải không có
khả năng xảy ra. Trung Quốc có hỏa lực mạnh hơn nhiều so với Việt Nam, nhưng Hà
Nội đang tăng cường những năng lực phòng vệ không quân và hải quân của mình.
Lịch sử đã cho thấy nếu bị đẩy vào chân tường, người Việt sẽ đánh trả. Một nước
cờ sai của một trong hai bên có thể dẫn tới đụng độ. Cuộc đụng độ sẽ khốc liệt
và đẫm máu, với những hậu quả khôn lường. Trung Quốc có thể tiếp tục hành xử du
côn – nhưng họ đang đùa với lửa.
******
Đối đầu
với Trung Quốc
Theo Mỹ cứu
nước; theo Tàu cứu đảng. Câu
nói mà đi tới đâu ở Việt Nam
cũng nghe này đặc tả thế lưỡng nan địa chính trị mà Đảng Cộng sản cầm quyền
đang gặp phải.
Bốn mươi
năm sau khi những người lính Mỹ cuối cùng rời Việt Nam , cái đảng đã giành độc lập và
thống nhất đất nước đã đánh mất phần lớn tính chính danh của mình. Đảng có cố
gắng hô hào noi gương đạo đức của Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông đến đâu
đi nữa cũng không đủ để khôi phục nhiệt huyết và dường như cũng không trừ tiệt
nạn tham nhũng có hệ thống. Món nợ lớn nhất của chế độ này là thất bại trong
việc khắc phục một nền kinh tế đang lụn bại. Nhưng dư luận cũng dè bỉu chuyện
chế độ không thể bảo vệ các quyền lợi của Việt Nam trước sự đe dọa của Trung Quốc.
Từ góc nhìn của thường dân ở Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Kinh đã vứt bỏ cái lốt “trỗi dậy hòa bình” (peaceful rise, 和平崛起) và quay lại với vai trò lịch sử của chúng là tên du côn trong khu vực. Tuyên bố chủ quyền lố bịch của Trung Quốc đối với các tài nguyên biển và khoáng sản ở toàn bộ vùng Biển Đông chỉ là ví dụ nổi bật nhất. Việc Trung Quốc xây dựng một loạt các đập nước ở thượng lưu sông Mekong tại tỉnh VânNam
và ủng hộ kế hoạch xây thêm 11 đập nước ở hạ lưu tại Lào đe dọa xóa sạch đợt lũ
hàng năm giúp duy trì độ màu mỡ của vùng Đồng bằng sông Cửu long của Việt Nam .
Từ góc nhìn của thường dân ở Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Kinh đã vứt bỏ cái lốt “trỗi dậy hòa bình” (peaceful rise, 和平崛起) và quay lại với vai trò lịch sử của chúng là tên du côn trong khu vực. Tuyên bố chủ quyền lố bịch của Trung Quốc đối với các tài nguyên biển và khoáng sản ở toàn bộ vùng Biển Đông chỉ là ví dụ nổi bật nhất. Việc Trung Quốc xây dựng một loạt các đập nước ở thượng lưu sông Mekong tại tỉnh Vân
Các công ty
Trung Quốc cũng đang theo đuổi tài nguyên khoáng sản và gỗ của Lào, thách thức
bá quyền của Việt Nam ngay
tại sân sau của Việt Nam .
Ngay tại Việt Nam ,
mức đầu tư ngày càng tăng của các công ty kỹ thuật, xây dựng và khai khoáng
Trung Quốc – đặc biệt là dự án bôxít trị giá hàng tỉ Mỹ kim của Chinalco ở cao
nguyên trung phần – đã bị chỉ trích dữ dội. Hàng Trung Quốc rẻ mạt và thường
kém chất lượng đã tràn ngập thị trường Việt Nam , đè bẹp các hãng sản xuất trong
nước.
Thường dân
muốn đánh trả. Thường dân không hề nghĩ rằng các lực lượng vũ trang của Việt Nam không sánh nổi với Trung Quốc, hoặc Việt Nam rất dễ bị
tổn hại do đòn trả đũa kinh tế.
Quan hệ
đối tác đầy gai góc
Việt Nam và Trung
Quốc chia sẻ biên giới dài 1.350 km và nhiều thứ nữa. Cả hai đều là nhà nước
theo chủ nghĩa Lenin với một văn hóa chính trị được định hình bằng những tư
tưởng tân Khổng giáo về hệ thống tôn ti dựa trên công trạng và các mối quan hệ
được vun đắp kỹ càng. Hai đảng cộng sản cầm quyền đã đứng vững nhờ từ bỏ học
thuyết kinh tế Marxist trong khi dung dưỡng một cỗ máy an ninh nhà nước thâm
nhập mọi ngóc ngách của xã hội. Những “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” của hai nước này cho phép các thị trường tự do năng động tồn tại
song hành với hàng ngàn doanh nghiệp quốc doanh thống lĩnh công nghiệp nặng.
Cả Bắc Kinh
và Hà Nội đều đang hứng chịu làn sóng chỉ trích kịch liệt của giới bất đồng bày
tỏ chính kiến qua mạng internet. Những yếu tố văn hóa và chính trị giống nhau
này là nền tảng của vô vàn cuộc hội ý giữa đảng với đảng, giữa nhà nước với nhà
nước nhằm duy trì hợp tác giữa hai chế độ.
Tuy nhiên,
các quan hệ song phương xưa nay thường gai góc. Ưu thế địa chính trị và kinh tế
lớn hơn nhiều của Trung Quốc khiến mối quan hệ Trung-Việt về căn bản là không
bình đẳng. Nếu quả như người Trung Quốc có chú ý tới Việt Nam , họ thường
xem đó là một tỉnh ngang ngạnh bằng cách nào đó đã tụt khỏi vòng kiềm tỏa của
họ.
Ngược lại,
90 triệu dân Việt Nam
luôn có cảm giác bất an về nước láng giềng phương bắc với dân số đông gấp 15
lần và nền kinh tế lớn gấp 50 lần. Song, người Việt Nam không quỵ lụy trước Bắc Kinh
khi tính toàn vẹn lãnh thổ bị đe dọa. Ngoại trừ Hồ Chí Minh, những anh hùng vĩ
đại nhất của người Việt là các vị tướng đã buộc quân Trung Quốc xâm lăng từ
triều đại này đến triều đại khác phải rút lui. Mới hồi năm 1979, khoảng 20.000
lính Trung Quốc tử trận khi Đặng Tiểu Bình muốn “dạy cho Việt Nam một bài
học” vì đã lật đổ các đồ đệ chủ nghĩa Mao của Bắc Kinh ở Campuchia và
liên minh với Liên Xô.
Đến giữa
thập niên 1990, Trung Quốc và Việt Nam đã trở lại với quan hệ tương
đối thân thiện. Cả hai nước mãi bận tâm với cải cách kinh tế nội địa, Liên Xô
đã tan rã, và Trung Quốc lúc đó đang quảng bá chủ trương “trỗi dậy hòa bình”
với Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), lúc bấy giờ đã kết nạp Việt Nam.
Thương mại
song phương tăng lên, có những thảo luận nâng cấp “các hành lang thương mại” từ
miền tây nam sâu trong đất liền của Trung Quốc tới các cảng Việt Nam , và các
cuộc đàm phán phân chia biên giới đất liền tiến triển tốt. Ngay cả những tuyên
bố tranh giành chủ quyền đối với các bãi san hô, đá và bãi cạn ở Biển Đông
dường như nằm trong tầm kiểm soát, nếu không nói là gần đạt được giải pháp.
Thế nhưng
toàn bộ tình hình đó thay đổi vào năm 2009. Bất luận là do cố tình hay sai lầm
ngoại giao, Trung Quốc không còn bằng lòng với việc xếp xó các tuyên bố chủ
quyền trùng lắp nhau. Vào tháng 5 năm đó, Trung Quốc trình một bản đồ phác thảo
tại Liên Hiệp Quốc, tuyên bố “chủ quyền không thể tranh chấp” đối với 80% Biển
Đông.
Những căng
thẳng leo thang mạnh mẽ sau đó, lôi kéo các quốc gia ngoài khu vực vào cuộc –
trong đó có Mỹ – và thách thức khối đoàn kết ASEAN. Vietnam và Philippines đã
lãnh hậu quả của chiến dịch Trung Quốc dựng nên “dữ kiện” tuy không phù hợp với
luật quốc tế nhưng khó bác bỏ. Tinh thần dân tộc sôi sục ở cả ba quốc gia này,
có nguy cơ bùng nổ các xung đột có vũ trang trên biển. Chủ trương phục tùng
Trung Quốc của Hà Nội tan vỡ.
Nhiều nhân
vật có uy tín ngoài đảng ở Việt Nam, cũng như một số người trong đảng, tin rằng
giải pháp phù hợp là tạo liên minh kinh tế và quân sự không chính thức với Mỹ.
Tuy nhiên những đảng viên cao cấp vẫn còn nghi ngờ ý đồ của Mỹ, tự ràng buộc
mình trong một mâu thuẫn sống còn với chủ nghĩa tự do phương Tây, chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa đế quốc. Họ chỉ miễn cưỡng chấp nhận những cải cách nhằm gầy
dựng tính cạnh tranh kinh tế toàn cầu cho Việt Nam và bang giao với Mỹ để làm đối
trọng với Trung Quốc.
Những đảng
viên kiên định nín thinh trước những yêu sách của Mỹ đòi hỏi Việt Nam cho phép những quyền tự do dân chủ lớn hơn,
vì lo ngại rằng ý đồ thực sự của Washington
là lật đổ chế độ cộng sản. Bất chấp những xích mích gần đây [với Trung Quốc],
họ không tin rằng giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ phản bội một đảng cộng sản cầm
quyền quá giống ĐCS Trung Quốc.
Vẫn há
miệng chờ sung
Thực tình
mà nói hiện nay Trung Quốc ít quan tâm tới việc giúp ĐCS Việt Nam bám giữ
quyền lực. mà chỉ chăm chăm khai thác tài nguyên trong khu vực và vươn
rộng vòi bạch tuộc kinh tế của họ. Với hàng loạt khoản tín dụng xuất
khẩu và được phép vay ưu đãi từ các ngân hàng quốc doanh, các công ty Trung
Quốc đã trở thành những đấu thủ lớn trong hoạt động phát triển cơ sở hạ tầng ở
Việt Nam, đặc biệt là xây dựng các nhà máy nhiệt điện.
Nhìn chung
các công ty Trung Quốc không lấn sân các hãng thầu của Việt Nam , mà chỉ
giành hợp đồng từ tay các đối thủ cạnh tranh Nhật, Hàn Quốc, Mỹ hay Châu Âu
bằng cách chào giá thầu cực thấp. Nhưng giới chỉ trích cáo buộc các công ty
Trung Quốc sử dụng công nhân Trung Quốc và làm kém chất lượng, thường trễ hạn
và có chi phí vượt quá dự toán. Giới có quan điểm cứng rắn về an ninh ở Việt Nam còn nhận
định rằng sự lệ thuộc vào các hãng thầu Trung Quốc trong các ngành chiến lược
như năng lượng sẽ gây phương hại đến an ninh quốc gia.
Một vấn đề
gây tranh cãi khác là thâm hụt thương mại ngày càng cao của Việt Nam với Trung
Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam; nhà kinh tế học Trần Văn Thọ
gọi điều này là “trận sóng thần công nghiệp”. Việt Nam có cán cân thương
mại tương đối cân bằng với chín nước ASEAN kia và với Nhật, và có thặng dư
thương mại rất lớn với Châu Âu và Mỹ. Nhưng với Trung Quốc, Việt Nam có thâm
hụt thương mại 16,4 tỉ Mỹ kim trong năm 2012, khiến Trung Quốc có thặng dư
thương mại song phương 40%.
Đa phần
hàng xuất khẩu của Trung Quốc là hàng trung gian để gia công/lắp ráp ở các nhà
máy chế biến hàng xuất khẩu của Việt Nam : vải, dây kéo, nút áo quần, dây
điện, mạch điện, và đủ thứ linh kiện máy móc. Nhưng Trung Quốc cũng cung cấp
nhiều hàng đầu tư vốn đắt tiền – các loại máy móc để trang bị cho các nhà máy
của Việt Nam
và xây dựng cơ sở hạ tầng.
Thành phần
thứ ba và rất dễ thấy là hàng tiêu dùng, được hạ giá để chèn ép các đối thủ
cạnh tranh nội địa. Báo chí Việt Nam thường đăng những bài tố giác Trung Quốc
tống khứ sang Việt Nam những hàng hóa nguy hiểm hay kém chất lượng, và những
động thái có tính khiêu khích của Bắc Kinh ở Biển Đông dẫn tới phản xạ kêu gọi
tẩy chay hàng Trung Quốc.
Đúng ra
không đến nông nỗi này. Theo tiên đoán của giới kinh tế học, lẽ ra giờ đây Việt
Nam
đã giành được miếng bánh của Quảng Đông. Với chi phí lao động thấp hơn nhiều,
Việt Nam
là điểm đến hợp lý của các nhà máy từ trung tâm chế biến xuất khẩu của Trung
Quốc di chuyển sang những vùng rẻ hơn. Những ngành may mặc và giày dép thâm
dụng lao động từ lâu đã chiếm khoảng 20% lượng xuất khẩu của Việt Nam; những
ngành này đã khởi đầu trong thập niên 1990 khi hàng may mặc và giày dép xuất
khẩu của Trung Quốc bị hạn chế bởi hạn ngạch của Liên hiệp Châu Âu và Mỹ.
Tuy nhiên,
năng suất lao động vẫn còn thấp, mức lương theo giá trị thực (đã tính trượt
giá) tăng 10% mỗi năm trong thời kỳ 2006-2011, và Việt Nam nói chung đã không
lôi kéo được các nhà sản xuất rời khỏi cơ sở của họ ở Trung Quốc. Do chi phí
lao động tiếp tục tăng lên ở Trung Quốc và Việt Nam ,
các nhà máy hiện đang chuyển sang Campuchia , Bangladesh và thậm chí Myanmar .
Nhưng không
phải toàn tin xấu. Khi kinh tế toàn cầu từ từ phục hồi, khu vực đầu tư nước
ngoài của Việt Nam
lại đang tăng trưởng. Thay vì dời các nhà máy khỏi Trung Quốc, một số công ty
đa quốc gia và hãng thầu của họ đã đa dạng hóa các cơ sở sản xuất bằng cách mở
thêm các nhà máy ở Việt Nam .
Rải rác đây đó có những bằng chứng cho thấy một xu hướng rõ rệt hướng tới những
khoản đầu tư có chất lượng cao hơn, mà những khoản đầu tư này có thể được miễn
thuế đáng kể.
Trong số
các công ty thiết lập hay mở rộng các nhà máy lắp ráp có những thương hiệu quen
thuộc như Canon, Samsung, Intel và IBM, Hitachi ,
Panasonic và Nokia. Tuy nhiên, gần như tất cả những yếu tố sản xuất đầu vào của
hàng xuất khẩu gia công của Việt Nam đều được nhập khẩu, một số từ
Trung Quốc. Thông thường Việt Nam
chỉ gia công, tức chỉ thêm lao động, mà điều này Trung Quốc có thể làm hiệu quả
hơn và ở quy mô lớn hơn nhiều.
Sai lầm
chiến lược toàn diện
Năm 2008
khép lại một giai đoạn quan hệ nồng ấm hơn, tổng bí thư ĐCSTQ Hồ Cẩm Đào và
tổng bí thư ĐCSVN Nông Đức Mạnh tuyên bố một “mối quan hệ hợp tác chiến lược
toàn diện”. Và nếu Trung Quốc thực sự muốn vun đắp một mối quan hệ đặc biệt với
Việt Nam
– và qua đó củng cố uy thế ngoại giao của mình ở Đông Nam Á – Bắc Kinh ở vị thế
thuận lợi để giúp đỡ.
Tuy nhà cầm
quyền Việt Nam
không bày tỏ quan ngại về tình trạng mất cân đối thương mại song phương, nhưng
đó là một gánh nặng chính trị triền miên. Trung Quốc nhập khẩu nhiều cao su,
than, dầu, gỗ và nông sản, nhưng không quan tâm tới hàng công nghiệp của Việt Nam . Những nước
cờ thân thiện để tăng nhập khẩu hàng công nghiệp sẽ chẳng gây thiệt hại bao
nhiêu cho Trung Quốc và sẽ là tin rất đáng mừng cho Hà Nội.
Trên hết
thảy, một đề xuất chân thành về phối hợp phát triển các tài nguyên khoáng sản
và cùng quản lý nguồn cá ở khu vực tranh chấp ở Biển Đông có thể thay đổi thế
cờ – cho quan hệ cả với Việt Nam
lẫn với ASEAN.
Nhưng thực
tế là mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã trở nên bất ổn đến mức nguy hiểm
kể từ sau thỏa thuận năm 2008. Áp lực của Trung Quốc đối với những vấn đề chính
trị và chiến lược đã dồn giới lãnh đạo Việt Nam vào thế cùng đường, có thể nói
là đe dọa sự tồn vong của họ. Bắc Kinh củng cố vị thế của mình với phe dân tộc
chủ nghĩa Trung Quốc bằng cách giễu võ dương oai ở Biển Đông, trong khi những
nỗ lực vô hiệu của Hà Nội nhằm chống trả những đòn khiêu khích của Trung Quốc
đã dần dần làm suy giảm vị thế của họ với phe dân tộc chủ nghĩa tại quốc nội.
Ngoại
trừ xung đột vũ trang, thật khó tưởng tượng Trung Quốc có thể ra
thêm đòn gì nữa để đẩy nhanh sự sụp đổ của những người lẽ ra là bạn và đồng
minh ý thức hệ ở chế độ “thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
duy nhất, ngoài Trung Quốc, trên thế giới. Rất có thể, điều này sẽ đưa đến một
giới lãnh đạo mới mong muốn gần gũi với Mỹ – một kết quả hoàn toàn tự thân nó
là thất bại.
Đáng lo hơn
là một cuộc xung đột có vũ trang không phải không có khả năng xảy ra. Trung
Quốc có hỏa lực mạnh hơn nhiều so với Việt Nam , nhưng Hà Nội đang tăng cường
những năng lực phòng vệ không quân và hải quân của mình. Lịch sử đã cho thấy
nếu bị đẩy vào chân tường, người Việt sẽ đánh trả. Một nước cờ sai của một
trong hai bên có thể dẫn tới đụng độ. Cuộc đụng độ sẽ khốc liệt và đẫm máu, với
những hậu quả khôn lường. Trung Quốc có thể tiếp tục hành xử du côn – nhưng họ
đang đùa với lửa.
(David
Brown là một nhà ngoại giao về hưu và cộng tác viên thường xuyên của Asia Sentinel. Ông viết bài này cho tạp chí China Economic Quarterly của Gavekal Dragonomics
có trụ sở ở Hong Kong .)
Nguồn: David
Brown, Vietnam: Playing with fire, Asia
Sentinel, 7/7/2013.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét