Thứ Hai, 2 tháng 6, 2014

VỀ TÌNH TRẠNG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TẠI MIỀN BẮC NHỮNG NĂM 60

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi
Những buổi nói chuyện với Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, trên đài RFI trong tháng 7 vừa qua, và được ghi lại trên “Thế kỷ 21”, bắt nguồn từ cuộc trao đổi văn học giữa hai người đã từng giữ địa vị chủ chốt trong Viện Văn học trong nhiều năm qua: một bên là Phó giáo sư Nguyễn Văn Hoàn, nguyên Viện phó Viện Văn học. Một bên là Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nguyên Chủ tịch Hội đồng khoa học của Viện trong bảy năm và nguyên Trưởng ban văn học Cổ cận đại của Viện trong gần 30 năm.Cuộc tranh luận này hàm chứa những vấn đề quan trọng trong việc nghiên cứu văn học ở miền Bắc những năm 60 mà ít người biết. Bài viết của Phó giáo sư Nguyễn Văn Hoàn đã đăng trên tạp chí “Nghiên Cứu Văn Học”, Hà Nội, số 4 năm 2005. Bài trả lời của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi được tạp chí đề nghị phải cắt xén một số đoạn, tác giả không chấp nhận việc cắt xén, nên bài viết cuối cùng đã không đăng trên tạp chí “Nghiên Cứu Văn Học”. Vì lý do đó mà chúng tôi mời Giáo sư Nguyễn Huệ Chi phát biểu trên đài RFI, về một số vấn đề liên quan đến việc thực hiện các bộ toàn tập, và về tình trạng nghiên cứu văn học trong thập niên 60 ở miền Bắc. - Thụy Khuê
I- QUAN NIỆM VỀ MỘT BỘ TOÀN TẬP

Thụy Khuê: Thưa anh Nguyễn Huệ Chi, xin thành thật cảm ơn anh đã nhận lời phát biểu trên RFI, về những vấn đề quan trọng liên quan đến Viện Văn học mà anh là một trong những người đã giữ những địa vị chủ chốt trong nhiều năm. Trước hết, xin hỏi anh: tại sao anh chấp nhận mở lại hồ sơ văn học này, ngày hôm nay?
Nguyễn Huệ Chi: Thưa chị Thụy Khuê, chủ chốt gì đâu, gọi là có giữ một chức làng nhàng ở Viện thôi. Việc đài RFI phỏng vấn đối với tôi là một việc rất có ý nghĩa. Bởi vì đây là cơ hội giúp cho tôi được nói tường tận, nói sâu hơn vào một số vấn đề mà tôi muốn đặt ra, để chị và thính giả trong nước cũng như ngoài nước hiểu rõ ngọn ngành. Lúc đầu tôi nghĩ rằng: giữa thời buổi ngổn ngang bao nhiêu chuyện bất cập đang đặt ra trước mắt ngành nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học ở Việt Nam như thời buổi hôm nay - trong đó có việc xem xét lại chỗ đắc chỗ thất của giới nghiên cứu văn học mác-xít 60 năm qua - sự khác nhau trong cách nhìn nhận một hiện tượng nào đó cũng là dễ hiểu. Nhưng sau khi suy nghĩ lại, Viện Văn học là một cơ quan công quyền của nhà nước, và đã hoạt động với tư cách thực hành đường lối chỉ đạo của Đảng Cộng Sản về văn chương nghệ thuật trong bao nhiêu năm qua. Bây giờ là lúc cần phải nhìn lại việc làm ấy của Viện. Mặt khác thì tôi cũng nghĩ, tôi nói là nói những sự thật, mà sự thật xưa nay vẫn có một hấp lực mạnh mẽ đối với mọi đầu óc tỉnh táo, nên dù “vòng cương tỏa” có ghê gớm đến đâu thì sớm muộn bằng cách này cách khác người ta vẫn có cách tiếp cận và chuyển tải nó. Vì thế, tôi muốn hé lộ cho bạn đọc thấy một góc bức tranh sinh hoạt tinh thần ở một thời cách xa ngày nay đã chẵn bốn thập kỷ, trên mảnh đất miền Bắc những năm sau hiệp định Genève, vậy mà vẫn còn để ảnh hưởng nặng nề đến tận hôm nay. Phơi bày bức tranh ấy cho trung thực, theo tôi chính là khởi đầu mọi sự đổi mới thật sự trong công tác nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học mà giới nghiên cứu ở Việt Nam hiện đang rất bức xúc.

T.K.: Điểm đầu tiên mà anh muốn phơi bày là việc đặt lại quan niệm về việc làm toàn tập, và có thể nói: quan niệm này của anh khác hẳn với những bộ sách toàn tập đã được Nhà xuất bản Văn học in ra những năm gần đây?
N.H.C.: Tôi băn khoăn về tình trạng các bộ toàn tập được Nhà xuất bản Văn học in ra trong khoảng mấy năm gần đây với sự tài trợ của Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam. Tôi biết rằng, toàn tập của một người có lúc không in trọn mọi tác phẩm của người ấy vì những khó khăn nào đó, chẳng hạn có những tác phẩm đã bị mất mát chưa tìm lại được, hoặc có những tác phẩm quá lạc hậu, hoặc đôi khi quá tân tiến so với thời đại, đưa ra chưa hẳn đã hay; nhưng đấy chung quy cũng là tình thế cực chẳng đã. Còn theo nguyên tắc, đã gọi là toàn tập thì mọi tác phẩm của một tác giả nhất thiết phải đưa vào. Toàn tập còn có tư cách gì nếu trên thực tế đã bị cắt xén và chỉ còn là tuyển tập? Quan trọng hơn, nếu như cái gọi là toàn tập đó không giúp bạn đọc tìm hiểu thật chính xác tiến trình tư tưởng và văn chương của một nhà văn? Huống chi ở đây, tất cả những bộ toàn tập đã công bố của Nhà xuất bản Văn học mà tôi cố gắng đọc kỹ thì lại nhất loạt bỏ hết các bài viết trong cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn-Giai phẩm, một sự kiện cực kỳ quan trọng trong suốt 20 năm xây dựng miền Bắc nước ta, thì thử hỏi có bình thường hay không?

T.K: Anh đã từng sống trong thời kỳ mà các bài gọi là đấu tranh chống Nhân văn-Giai phẩm đã được viết ra.Vậy xin anh cho biết “không khí” thời đó.
N.H.C: Tôi chắc bạn đọc ở nước ngoài không hiểu được tình hình của những năm ấy đâu, vậy tôi xin gợi lại một chút về cái thời kỳ ấy: Từ thành thị đến nông thôn có ai được phép bàng quan, đứng ra ngoài không khí sục sôi “đánh địch” trên mặt trận văn hóa văn nghệ của cả một nửa nước, nhất là tầng lớp văn nghệ sĩ và trí thức? Ở Trường đại học Tổng hợp Hà Nội mà tôi học, nơi cái nôi của Nhóm “Đất Mới “ và “lô cốt” của những vị trí thức đầu đàn “cứng cổ” như Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, nơi vốn đã nhen nhóm không khí đối thoại dân chủ khi sinh viên được phép tổ chức các buổi đăng đàn trao đổi với các thầy về những vấn đề đặt ra trong bài giảng và đôi khi cả những vấn đề thời sự (có lần một sinh viên Khoa Toán nêu câu hỏi: Cải cách ruộng đất căn bản thắng lợi hay thất bại?)... thì lúc này tổ chức Đảng họp riêng với Đoàn thanh niên Lao động phổ biến chủ trương phải kịp thời đối phó nếu như có biểu tình trong sinh viên, khi cần sẽ phát súng cho Đoàn viên nòng cốt (tất nhiên những kẻ ngoài Đoàn như tôi thì không được họp, chỉ nghe lóm mà thôi). Rồi bài giảng lý luận của một vị thầy ở Khoa Ngữ văn - ông Phan Ngọc - bị một sinh viên (anh HNC) đem ra “cật vấn” bằng một tiểu luận chuyền tay trong lớp, cho rằng “đích thị tư tưởng Hồ Phong.” Các cơ quan văn hóa, giáo dục, nghệ thuật cũng bắt đầu kín đáo cô lập hoặc tỏ thái độ “lạnh nhạt” với những người có viết bài, vẽ tranh cho mấy tập Giai phẩm và tờ Nhân văn, cũng như có “đi qua về lại” với những “phần tử nguy hiểm” như Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt, ông chủ Nhà xuất bản Minh Đức... (nhiều người như ông MH ở Ban Văn sử địa về sau không viết được nữa và chết trong lặng lẽ). Một số họa sĩ thời danh không chịu vẽ theo đường lối phục vụ công nông binh bị dư luận chính thống lên án khiến mọi người xa lánh. Một số bài hát như Gửi người em gái miền Nam... cũng ngầm có lệnh cấm lưu hành vì cho rằng quá ủy mị. Ngay trong một lá thư gửi cho Hồng Diệu đề ngày 29-IX-1960, chính nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại đã nhắc đến những ngày “tất cả phải đổ dồn vào việc đấu tranh chống tư tưởng Nhân văn Giai phẩm” vào “nửa sau năm 1958”, đến mức nếu “mở những cuộc tranh luận về lý luận văn học [trong thời gian này] thì không có lợi” - có nghĩa là đi lạc ra ngoài những gì xã hội quan tâm (bạn đọc có thể đọc lại Trần Thanh Mại Toàn tập, Tập III, trang 731-732). Năm 1960 nghĩa là hai năm qua rồi mà một trí thức như Trần Thanh Mại còn đầy ắp ấn tượng về những ngày “long trời lở đất”, chứng tỏ cuộc đấu tranh chống Nhân văn-Giai phẩm đã tác động đến mọi người sâu sắc tới chừng nào.

T.K: Theo anh thì những bài viết của các tác giả trong thời kỳ đó có tầm quan trọng như thế nào? Và tại sao người ta lại bỏ chúng đi khi in các bộ toàn tập ấy, ngày hôm nay?
N.H.C: Bài viết của mỗi tác giả viết trong thời gian đó, tôi nghĩ sẽ là nơi kiểm nghiệm chân xác cái đúng cái sai trong nhận thức, tư tưởng và nói lên bản lĩnh, tầm nhìn, sự trung thực và tình người của mỗi người trước những vấn đề nổi cộm, diễn ra cách chúng ta gần 50 năm nhưng đến nay vẫn chưa phải đã hết ý nghĩa thời sự. Thế thì ta thử nghĩ, tất cả các bộ toàn tập đã lần lượt ra mắt đều nhất loạt bỏ các bài đó đi là vì lý do gì? Hãy cứ thành thực với lòng mình chứ đừng quanh co, chẳng phải là có một tâm lý chung chi phối người biên soạn, và cả người đứng ra chủ trương làm các bộ toàn tập hôm nay - một thứ tâm lý mặc cảm cho rằng những lời lẽ được nói ra vì động cơ chính trị nhất thời trong một lúc, nay in lại cho bạn đọc rộng rãi không còn “hợp” nữa. Thêm vào đấy, nếu chịu khó tìm lại văn bản gốc để đọc ở trên tất cả các báo chí vào thời kỳ ấy, tất ai cũng thấy ngay đó toàn là những lời lẽ lên gân đến tột mức, mang tính chất mạt sát, nhục mạ đối với người bị phê phán, không thể nào có trong đời sống văn học bình thường. Phải ở vào một thời điểm hết sức căng thẳng, dưới một áp lực vô hình hoặc một sự phấn khích tinh thần đặc biệt nào thì người viết mới đủ “dũng khí” để nói ra những lời không mấy “văn chương” như thế. Vì thế mà ngày nay người làm toàn tập cân nhắc bỏ đi cũng chẳng phải là chuyện khó hiểu. Nó là bằng chứng của một sự “phản tỉnh” mà hễ ai có chút lương tri cũng cần có, nói cách khác, một thước đo giá trị mới trong lương tâm cộng đồng thời buổi hiện tại không cho phép người làm sách giữ lại những lời lẽ khiến người đọc thế hệ sau không thể thông cảm, thậm chí bất bình.

T.K: Như vậy thì theo anh, việc không đưa những bài viết như thế vào các bộ toàn tập là một việc làm có hại hay có lợi cho người đọc?
N.H.C: Tôi thấy đó là việc làm hại nhiều lợi ít. Nếu như cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn-Giai phẩm trước sau là đúng, thì có phải chúng ta đã vô tình xóa mất một dấu son của nhân dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản trên cả một chặng đường tư tưởng hay không? Mà như thế thì, con cháu về sau làm sao có điều kiện tìm hiểu nhằm vinh danh những dấu mốc đáng nhớ của chặng đường này? Đó chẳng phải là một sai sót của công tác xuất bản khó lòng chấp nhận được? Còn nếu thực chất việc làm năm 1958 của giới văn nghệ sĩ, trí thức là sai, ta hãy cứ giả định như vậy, thì lại càng cần phải đưa vào, để người đọc - mà người đọc ở đây phải hiểu là cả một dân tộc có văn hóa hiểu theo nghĩa rộng chứ không phải là một số người nào đâu - qua đó rút kinh nghiệm, nhằm bớt đi những vấp váp ấu trĩ, cho chặng đường đang tới. Chính vì ta không chịu rút kinh nghiệm kịp thời nên không ít cái sai đã tái diễn. Tôi xin nêu lên một vài ví dụ: chẳng hạn việc đốt phá, tịch thu sách vở trong Cải cách ruộng đất là một tổn thất to lớn cho di sản văn hóa đất nước; ngay cả cái thư viện Mộng Thương thư trai của gia đình tôi được coi là một trong hai thư viện lớn nhất ở Hà Tĩnh, đã bị đốt phá. Ấy thế mà việc đó lại đã lặp lại ở miền Nam sau năm 1975. Cũng xin ngoặc lại một chút để nói về bố tôi, học giả Nguyễn Đổng Chi. Thời kỳ sau 75, bố tôi đang ở Viện Sử học được biệt phái vào công tác tại miền Nam và vì đã có kinh nghiệm về thời kỳ cải cách ruộng đất nên chính ông đã có những biện pháp rất tích cực để cho một số trí thức ở trong Nam như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Y hay nữ sĩ Mộng Tuyết, về sau giữ được an toàn kho sách của họ.

T.K: Việc đốt phá sách, dường như đi đôi với việc phá phách các di tích lịch sử và anh cũng đã từng chứng kiến nhiều lần. Vậy có thể nói, chúng ta rút ra được những kinh nghiệm gì, về những vụ tàn phá di sản văn hóa này?
N.H.C: Trong mấy chục năm đi điền dã để làm bộ Thơ văn Lý-Trần, chúng tôi đã thấy không biết bao nhiêu di tích bị phá một cách vô tội vạ, mà cái người chủ trương tàn phá, phải nói, hoặc là, biểu hiện của một thứ cực đoan không thể chấp nhận được; hoặc nữa là, có một sự thù hằn gì ghê gớm đối với lịch sử, hay cũng có thể là hách dịch đối với lịch sử. Cho nên họ đã đập phá tàn bạo, chẳng hạn như di tích nơi vua Trần Nhân Tông tịch ở am Ngọa Vân phía Tây núi Yên Tử (một ông vua anh hùng khoáng đạt như thế có tội tình gì để họ phá cho tan tành? Hay vì đã không “cực quyền” như họ?). Lại chẳng hạn như việc phá đình phá chùa trong chủ trương “hợp tự” năm 1948, đã làm mất đi bao nhiêu di tích văn hóa quý giá có từ lâu đời ở Nghệ-Tĩnh. Ấy thế mà việc đó lại được lặp lại với quy mô rộng rãi hơn ở hầu khắp miền Bắc trong những năm 60 thế kỷ XX. Tôi còn nhớ là vào ngày 9/5 năm 1966, tôi đến thăm cụ Lê Thước, một học giả nổi tiếng ở chợ Hôm, thì gặp lúc nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản cũng đến và ông ấy đã trình bày với cụ việc một ngôi đền thờ nữ tướng của Hai Bà Trưng ở Mai Động (tức là sát ngay Hà Nội, bây giờ là trong nội thành) đã bị Đảng bộ chỉ đạo đem hoành phi câu đối và cỗ kiệu ra đóng bàn ghế và xe phân cho hợp tác xã. Ông Nguyễn Bá Khoản đã chụp trộm được mấy tấm ảnh và suýt nữa thì bị dân quân tự vệ bắt và tịch thu máy ảnh. Khi ông ấy đã chạy thoát rồi vẫn còn nghe vẳng đến lời ông Bí thư Đảng ủy: “Hãy bắt gông nó lại, tội vạ gì tôi chịu”. Ông Nguyễn Bá Khoản đã kể lại với tất cả cái thảng thốt và cái bất bình của mình. Tối hôm ấy, tôi có ghi vào nhật ký như sau: “Có thể có một thứ duy vật cuồng tín hoành hành trên đất nước ta đến thế hay sao?” Thực ra lúc bấy giờ tôi cũng không thể giải thích được những việc làm như thế, và tôi chắc rằng trong kho ảnh của gia đình nghệ sĩ Nguyễn Bá Khoản hiện nay vẫn còn lưu những tấm ảnh mà cụ Lê Thước và tôi được xem hôm đó. Đấy! Nếu như chúng ta không giữ lại những gì mà chúng ta đã làm trong quá khứ dù đúng dù sai, để tự mình nhìn lại cho thấu đáo, cái hành vi, cái ý thức, cái nhận thức một thời của mình, thì làm sao chúng ta có được bước đi về sau tốt đẹp hơn bước đi của chặng đường trước?


II - CHỨNG TỪ CỦA MỘT NGƯỜI CON

Trong những năm 1957-1958, hầu như toàn bộ văn nghệ sĩ trí thức miền Bắc đều có bài lên án Nhân Văn-Giai Phẩm. Những văn bản mà họ để lại là chứng từ của một giai đoạn lịch sử văn học. Sự việc ấy đã diễn ra như thế nào? Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, là người đầu tiên trên diễn đàn văn học mở cửa cho chúng ta thấy hậu trưòng của một thời đại đen tối mà chính phụ thân ông, học giả Nguyễn Đổng Chi đã can dự vào.

TK: Thưa anh Nguyễn Huệ Chi, Anh đã từng chứng kiến cảnh ông cụ thân sinh phải nhận viết bài chống cụ Phan Khôi, sự việc xẩy ra như thế nào, thưa anh?
NHC: Thưa chị Thụy Khuê, bản thân tôi, tôi đã chứng kiến người bố của tôi, tức là học giả Nguyễn Đổng Chi, viết bài phê phán học giả Phan Khôi, theo yêu cầu của người khác, khác với tính cách của ông, rồi sau đó đã không ngớt ân hận. Tôi phải nói lại chuyện này để chị hiểu câu chuyện cho có đầu đuôi một chút. Tức là kể từ thuở tôi còn là sinh viên, tôi và ông bố của tôi đã đối xử với nhau như bạn bè, có gì trong học thuật cũng trao đổi với nhau. Thời kỳ ấy, tôi nhớ là vào khoảng tháng 3 năm 1958, hai bố con tôi, nhân ngày chủ nhật cùng nhau đi chơi, từ Ô Đống Mác đi lên Tràng Tiền. Đến ngã tư Tràng Tiền, rẽ về phía Nhà Hát Lớn, tới gần hiệu Bodéga, nhìn thấy hai bên đường có những tờ báo treo, bởi vì ở đấy có chỗ bán sách báo, thì ông ấy mới nói với tôi thế này: “Ông Liệu, - tức là nhà sử học Trần Huy Liệu, thủ trưởng của bố tôi, Trưởng ban nghiên cứu Văn Sử Địa lúc bấy giờ -, ông Liệu có nói với bố là: Phan Khôi thì rõ là sai rồi, bởi vì tự dưng lại đứng ra làm Chủ nhiệm báo “Nhân Văn”, để cho những anh em trẻ nhân danh đòi tự do cho văn nghệ mà thoát ly đường lối lãnh đạo của Đảng, cho nên Phan Khôi phải chịu trách nhiệm về việc ấyThế nhưng đối xử với Phan Khôi như thế là không được, như thế là nặng, bởi vì Phan Khôi là một học giả nổi tiếng và là một trí thức lão thành, không thể đánh đồng với những người khác.” Tôi nghe bố tôi nói vậy, tôi cũng chỉ để tâm thế thôi. Rồi hai bố con đi trở về.
Nhưng sau đó khoảng chưa đầy một tháng, tự nhiên một hôm bố tôi đi làm về, buổi chiều tôi nhận thấy ông có một thái độ lặng lẽ khác thường, đi đi lại lại trên sân đình (hồi ấy chúng tôi còn phải ở nhờ đình An Cư trong xóm Thanh Nhàn) mà không nói gì. Tôi mới hỏi: hôm nay có chuyện gì mà bố có vẻ ưu tư thế? Bố tôi đáp: Bố mới nhận được một nhiệm vụ khó nghĩ quá. Tôi hỏi việc gì. Ông nói: Phải phê phán Phan Khôi. Tôi nghe hơi ngạc nhiên, bèn nói: Ủa, thế hôm trước bố đã nói thế rồi cơ mà? - Nhưng hôm nay thì yêu cầu đặt ra là tờ tập san Văn Sử Địa phải có một bài phê phán Phan Khôi mà bố được lãnh cái trách nhiệm ấy.

TK: Vậy ông cụ anh đã soạn bài viết ấy như thế nào? Anh có được đọc trước không và nếu anh được đọc, thì ý kiến của anh hồi ấy ra sao?
N.H.C.: Vài hôm sau thì thấy bố tôi bắt đầu đi thư viện, đi lục lọi, sưu tầm ở thư viện rất miệt mài. Và độ chừng 15 ngày sau nữa thì nghe bố tôi bảo: “Bố sẽ cố gắng chỉ nói về Phan Khôi trong giai đoạn từ 1945 về trước thôi. Còn giai đoạn sau, bố không nói, bởi vì xem ra, những bài ông ấy viết trên tờ “Nhân Văn”, tờ “Giai Phẩm”, thì không có gì để nói được, là bởi vì ông ấy phê phán lãnh đạo văn nghệ, mà việc ông ấy phê phán một cái tập thể đứng ra thẩm định giải thưởng, đồng thời lại đưa tác phẩm vào để xin được trao giải, thế thì cái tập thể ấy có còn đạt được tiêu chuẩn gì gọi là dân chủ, gọi là công bằng nữa hay không? Thì bố thấy ông Phan Khôi nói chuyện ấy rõ là được chứ. Cho nên bố chỉ nói về ông ấy từ 45 trở về trước.” Sau đó thì bố tôi bắt đầu viết và tôi cũng tin là bố tôi sẽ nói một cách chừng mực thôi. Nhưng khi bài viết xong, đưa cho tôi, phải nói tôi có hơi choáng người, vì những lời lẽ ông ấy viết rất nặng. Nhưng vì kính trọng bố cho nên tôi không nói gì, vả chăng lúc bấy giờ tôi cũng nghĩ là Phan Khôi sai, tuy rằng thật tình tôi chưa biết nhiều lắm về cụ Phan Khôi, nhưng tôi vẫn nghĩ là cụ Phan Khôi sai lầm, cho nên bố tôi đã nói thế chắc là phải đúng.

T.K: Thưa anh, đến khi nào thì ông cụ mới cảm thấy là mình lầm?
N.H.C.: Thế mãi về sau, hai bố con không nói với nhau về chuyện ấy nữaNhưng có một lần nhân câu chuyện gì đó bố tôi có nói lại là: “Bố ân hận quá, đã nói những chuyện không đúng về cụ Phan Khôi, bởi vì cụ Phan Khôi từ trước Cách Mạng đã được dư luận coi là Ngự sử văn đàn, là một người rắn rỏi, cứng cỏi, thẳng thắnCho nên những điều ông ấy viết bao giờ cũng có tính chất đối thoại với người khác. Mà đối thoại chính là cái biểu hiệu của sự dân chủ. Vì thế mà bố nghĩ, bố đã phê phán trúng vào chỗ đó chính là bố đã theo đuôi để đưa đến không khí mất dân chủ trong cái bài của bố.” Bố tôi chỉ nói một lời ngắn gọn như thế rồi trầm ngâm rất lâu. Mãi cho đến trước khi mất, tức là năm 1984, vào mùa xuân thì bố tôi được đi Nga lần đầu, lúc bấy giờ với tư cách là chuyên viên Viện Văn hóa dân gian. Bố tôi đi đâu chừng hai tháng. Khi trở về, ông bị ốm vì bên Nga lạnh quá. Tôi lên thăm, thì bố tôi nói thế này: “Bố thấy ở Nga có hai điều: Một là việc nghiên cứu Đông phương học của họ đến nơi đến chốn, chứ không phải là nóng đâu phủi đấy như chúng ta. Nhưng điều thứ hai bố thấy họ có chỗ này không được: tức là họ vẫn đặt công việc nghiên cứu vào một đường rãnh (chính trị - HC thêm) mà mọi người đều phải trượt trên cái đường rãnh ấy; cuối cùng thì người nào cũng quy về một điểm mà không còn nhìn thấy sự đa dạng trong nghiên cứu nữa.” Bố tôi nhận xét thế. Đến khi khỏe lại, bố tôi có dịp trao đổi lâu hơn với tôi: “Thật ra nước mình không phải là một nước có lý luận và cũng không có triết học, chỉ là một nước thực tiễn thôiCho nên việc nóng đâu phủi đấy là chuyện bình thường. Và việc mà bố gán cho Phan Khôi là học mót cái thực dụng của Hồ Thích mà Hồ Thích thì học mót của J. Dewey là sai. Bởi vì một chủ nghĩa thực dụng như của Dewey là lớn lắm chứ không phải nhỏ, và chuyện ông Hồ Thích cắt gọt chỗ này chỗ khác, ông ấy áp dụng vào Trung Hoa cho đúng theo điều kiện thực tiễn Trung Hoa, cái đó cũng bình thường. Còn chúng ta vốn quen học lại của Trung Hoa cũng chẳng có gì lạ. Do đó, nói rằng Phan Khôi đã học mót Hồ Thích và Hồ Thích thì đã học mót Dewey là một lời phê phán quá nóng vội.” Và bố tôi nói thêm: “Sau này nếu có điều kiện thì con cố gắng làm thế nào sửa được cái sai lầm của bố.” Đấy, tôi phải nói một cách rõ ràng để chị và thính giả có thể thông cảm được tình hình hồi ấy là như thế. Mãi cho đến năm 84, ông bố tôi mới nói ra lời ấy.

T.K: Từ việc của ông cụ anh đã rút ra được kinh nghiêm gì riêng cho mình và cho đến bây giờ thì anh đã thực hiện được những lời cụ dặn dò chưa?
N.H.C.: Quả thật về sau tôi càng ngày càng thấy là những điều bố tôi nói rất đúng, và sự ân hận của ông là sự ân hận của một người có lương tri, có tư cách của một trí thức. Gần đây có nhiều người gợi ý nên làm toàn tập cho bố, rất nhiều chứ không phải ít, nhưng tôi chỉ cười mà không nói gì, bởi vì tôi nghĩ rằng chưa thể làm được. Vì làm toàn tập thì nhất định là phải đưa hết các bài nghiên cứu của ông ấy vào, mà trong đó lại có một bài không vẻ vang gì cho bố tôi cả, là bài phê phán cụ Phan Khôi. Nhưng rất tiếc là... bài ấy đã được in ra trên giấy trắng mực đen. Đó là bài Quan điểm phản động, phản khoa học của Phan Khôi phải chăng là học mót của Hồ Thích, trên tập san Văn Sử Địa, số 41, tháng 6 năm 1958. Tôi không giấu giếm ai hết, mà xin nói rõ xuất xứ như thế, để bạn đọc thấy cái bài đó đã làm cho chúng tôi xấu hổ như thế nào. Cũng gần đây, trong thời gian biên tập bộ Từ điển Văn học-bộ mới, có nhận lời ủy thác của người bạn quá cố là anh Văn Tâm - một người cũng lao đao trong thời Nhân văn-Giai phẩm - tôi đã bổ sung và chỉnh sửa lại mục từ “Phan Khôi” do Văn Tâm viết từ nhiều năm về trước; về sau, anh Văn Tâm rất muốn sửa mục từ ấy đi, cho đúng thực chất, giá trị của đối tượng mình viết, nhưng bệnh tật khiến anh không làm được việc ấy nữa, nên anh ủy thác cho tôi. Tuy rằng nhận lời ủy thác của anh, nhưng trong thâm tâm chính là tôi muốn thực hiện cái di chúc của bố tôi để rửa mối nhục mà chính bố tôi đã tự gây cho mình.
Cũng trong Từ điển Văn học-bộ mới, các mục từ viết về những tác gia Nhân văn-Giai phẩm, tôi đều quan tâm và đều có sửa chữa hoặc trực tiếp viết, và những mục từ ấy, theo tôi, ít nhất cũng đã lấy lại một cái nhìn tương đối đúng đắn - tương đối thôi chứ vẫn chưa nói được hết giá trị thực mà họ có và bao nhiêu năm bị dập vùi, bị những nhận định officiel nó biến trắng thành đen và làm cho họ không có giá trị nữa trong tâm lý bạn đọc thông thường. Cũng ở Từ điển Văn học-bộ mới, có mục từ “Hồ Thích”, tôi cũng tự mình đảm nhiệm, cốt là để giải oan phần nào cho cái gọi là chủ nghĩa thực dụng (le pragmatisme) học mót Dewey của Hồ Thích mà người bố của tôi đã cực lực phê phán. Hôm nay sách đã ra được nửa năm, tôi thành thực bộc bạch như thế.

T.K: Khi anh đọc bộ “Trần Thanh Mại toàn tập” thì tâm trạng anh như thế nào?
N.H.C.: Khi đọc bộ Trần Thanh Mại toàn tập, không thấy có bài mà ông Trần Thanh Mại đã phê phán Giáo sư Trương Tửu từng in trong liền ba số báo Nhân dân khoảng đầu năm 57, thì tôi gần như rơi vào một tâm trạng phân vân và nghi ngờĐọc tiếp các bộ toàn tập khác, cũng không thấy những bài cùng loại - họ đã bỏ một cách nhẹ nhàng tất cả những bài viết, mà phải nói là, những bài đã hằn đậm lên trong đầu óc của rất nhiều người về những ý kiến nặng nề đối với Nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm. Thấy họ bỏ đi một cách nhẹ nhàng đến thế thì tôi càng băn khoăn hơn. Bởi thế tôi đã nêu thắc mắc: “Những bài viết của Trần Thanh Mại phê phán Nhân Văn-Giai Phẩm đã không được đưa vào Trần Thanh Mại toàn tập, Nxb. Văn học năm 2004. Tôi để ý thì thấy hết thảy những bộ toàn tập của các tác giả được Nhà xuất bản Văn học công bố mấy năm nay, đều bỏ hẳn phần viết này, và cả một số phần khác nữa. Như vậy thì định nghĩa thế nào là “toàn tập”? Hay “toàn tập” chỉ là những gì còn ăn khách được với hôm nay? Còn những miếng xấu hổ, “khạc chẳng ra cho nuốt chẳng vào” thì thôi, đành theo ý ai đấy, giấu nhẹm đi, để người ta quên đi một thời người cầm bút phải thóa mạ nhau túi bụi cho vừa lòng bề trên. Có lẽ cách xử sự như thế là hữu lý chăng?”

T.K: Anh có nghĩ rằng những người chủ trương các bộ toàn tập này không cho in lại những bài viết ấy có phải vì họ có một chủ trương khác anh hay không?
N.H.C.: Có thể những người làm các bộ toàn tập này chủ trương cắt bỏ đi những bài về đấu tố trong cải cách ruộng đất hay những bài phê phán Nhân Văn-Giai Phẩm quá nặng nề thuở ấy là nằm trong một đường hướng có chỉ đạo từ trên mà ta vẫn gọi là “khép lại quá khứ”. Một đường hướng như thế, theo tôi cũng có phần gọi là... phải đạo đấy! Nhưng nếu nghĩ cho thấu đáo thì không khỏi đơn giản và lầm. Bởi vì, ta thử nhìn lại mà xem, bao nhiêu người từng bị xử lý trong cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm, bị treo bút, bị cải tạo, bị tù đày, hàng chục, vài chục năm, cho đến nay đã người nào được lên tiếng nói lại một lời cho thỏa đáng? Mà khá nhiều người đã chết rồi chứ, như các anh Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, bà Thụy An... “Khép lại” kiểu ấy thì thử hỏi cái gọi là công bằng ở đâu? Cũng giống như hàng triệu người vì quẫn bức mà phải bỏ nước ra đi, đầu những năm 80, lúc bấy giờ chúng ta ở trong nước, có thể nói là không làm gì cả. Mà trong khi đó thì họ đang chết, đang lênh đênh và rất nhiều người chết ở trên biển cả. Bây giờ chúng ta nói: Khép lại quá khứ! Đúng! Hoàn toàn đúng! Thế nhưng khép lại không có nghĩa là - tôi tin rằng không ai nghĩ là - như vậy là thôi, hãy quên hết cả đi, hãy quên cả những cái chết của những người ấy đi và không còn chiêu tuyết cho những con người đã chết cực chết tủi trên biển nữa. Tôi nghĩ khép lại như thế không ổn, không bao giờ ổn được.

 III — HẬU TRƯỜNG CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VĂN HỌC

Việc viết văn học sử cận đại trong 60 năm qua đã xẩy ra như thế nào?
Tại sao những tác giả như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trương Tửu v.v... đã phải chịu những lời nhục mạ nặng nề trong những bài được gọi là “nghiên cứu văn học” trong suốt bao nhiêu năm qua. Những nhà nghiên cứu tên tuổi như Trần Thanh Mại, Đặng Thai Mai, ĐĐH, TC v.v... đã có những đóng góp gì trong các công trình biên khảo như thế của Viện Văn học nói riêng, và của toàn bộ các công trình nghiên cứu khác, nói chung. Chúng tôi nhờ Giáo sư Nguyễn Huệ Chi soi rạng một số vần đề xẩy ra trong nội bộ của các Viện nghiên cứu, thập niên 60, tại miền Bắc.


TK: Thưa anh Nguyễn Huệ Chi, bây giờ chúng ta đi vào trung tâm của vần đề, tức là nói về phưong pháp viết nghiên cứu trong thập niên 60 ở miền Bắc. Về điểm này, thì trong bài viết về Trần Thanh Mại, anh có nhắc đến một chi tiết là: “Ở thời điểm ấy, tủ tư liệu của Tổ văn học Cổ cận đại Viện Văn học chất đầy những bài viết của những nhà nghiên cứu tên tuổi, làm điểm tựa cho cho việc viết văn học sử cận đại, mà bài nào cũng mang những dòng tít sắt đá.” Xin anh giải thích rõ hơn về chi tiết này.
NHC: Thủa bấy giờ Trần Thanh Mại say mê nghiên cứu về Miên Thẩm, nhưng mà ông không được phép công bố một bài viết nào về Miên Thẩm cả, trừ có hai bài thơ dịch, có liên quan đến Cao Bá Quát. Vì Cao Bá Quát là một người rất được đề cao, thế nên Miên Thẩm có hai bài thơ viết về Cao Bá Quát cũng được đăng, tức là dựa vào tiếng thơm của Cao Bá Quát mà được đăng đấy thôi. Tôi giải thích việc đó là: “Bắt nguồn từ hòn đá tảng “quan điểm giai cấp” mà ai cũng không được vi phạm”, một người như ông tất nhiên làm gì có thể “chuyển lay”. Để dẫn chứng, tôi nói thêm: “Ngay như trong chiếc tủ tư liệu của Tổ tôi vào lúc đó vẫn chất đầy những bài viết, do Viện đặt cho nhiều nhà nghiên cứu “tên tuổi”, tuy không in ra nhưng là những bài được xếp vào hồ sơ nghiên cứu, có ý nghĩa “điểm tựa” cho việc viết văn học sử cận đại, mà bài nào cũng mang dòng tít “sắt đá”: Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh chỉ là những con số không trong lịch sử văn học (ĐĐH); Bộ mặt phản động của Trương Tửu trong cuốn “Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam” (VT); Trương Vĩnh Ký, nhà bác học hay là kẻ đóng vai đặc vụ, tình báo, làm tay sai đắc lực cho thực dân Pháp (MQ); Triều Nguyễn, một thời đại phản động và thoái hóa trong lịch sử dân tộc (TC); Thơ văn Phan Thanh Giản chỉ là tiếng thở dài của chủ nghĩa đầu hàng (TC)...”

T.K: Thế nhưng Nguyễn Văn Hoàn, trong bài “Mấy ý kiến nhân đọc “Trần Thanh Mại toàn tập” in trên tạp chí Nghiên cứu Văn học số 4 năm 2005, thì quả quyết rằng:“Trong tủ tư liệu của Tổ Cổ cận Viện Văn học, không hề có những bài như vậy.” Vậy anh có thể chứng minh được rằng: những tư liệu này có thực hay không?
N.H.C: Nguyễn Văn Hoàn quả quyết: hoàn toàn không có những bài như Huệ Chi kể trong tủ tư liệu của Tổ hồi đó. Lời phản bác quả đẩy tôi vào một tình thế khá là nan giải, vì sau bao cuộc biến thiên: mấy phen tách nhập từ Tổ văn học Cổ cận dân (tức là Cổ đại, Cận đại và Dân gian) sang Tổ văn học Cổ cận đại, rồi sang Ban văn học Việt Nam, lại trở về Ban văn học Cổ cận đại; mấy phen chuyển đổi nơi làm việc từ tầng hai nhà chính xuống tầng một, rồi lại lên tầng hai nhà phụ; ba lần sơ tán hết Hà Bắc đến Hà Tây lại trở lại Hà Bắc; một lệnh quy tập mọi thứ Tổ đang giữ về Phòng Tư liệu thư viện v.v... cũng đủ cho mớ tài liệu mà Tổ sở hữu từ đầu những năm 60 đâu còn nguyên vẹn mặt mũi thuở xưa.

T.K: Thế thì anh dựa vào đâu, để chứng minh rằng những tư liệu này có thật?
N.H.C: Tôi vẫn đinh ninh trong trí, là khi mình vừa về Tổ, được phép mở tủ tư liệu của Tổ ra thì trong tủ chứa đầy các bài viết ở dạng bản thảo, trong đó có các bài mà tôi đã dẫn. Khi chị Lê Ngọc Chương, chị ấy về trước tôi, nhưng một thời gian sau chị ấy không thích thời kỳ Cổ cận đại, cho nên chị ấy xin chuyển sang Tổ văn học Hiện đại vào đầu năm 1962, thì tôi được Tổ giao cho việc thay chị phân loại lại các tài liệu này. Tôi đã tìm thấy chúng xuất phát từ hai nguồn: 1. Những di sản do Ban Văn, thuộc Ban nghiên cứu Văn sử địa cũ, chuyển giao lại mà ông Vũ Ngọc Phan - nguyên Tổ trưởng Tổ văn học Cổ cận dân của Viện - mang về: gồm một bài phê phán Trương Tửu của VT (Nguyễn Văn Hoàn đã nói rõ là Văn Tân nên tôi cũng không phải ngại ngần khi trưng tên thật của ông ấy, còn những tên viết tắt khác, bởi vì tôi vẫn nghĩ là đối với những người viết ra các bài nói trên, về sau có thể họ đã thay đổi cách nghĩ, mình không cốt phê phán họ mà chỉ phê phán cái “thời ấy” đã làm cho họ phải nói như vậy; cho nên tôi vẫn xin được giữ nguyên tên tắt của họ), một bài lên án Trương Vĩnh Ký của MQ (Nguyễn Văn Hoàn đã nói rõ là Mẫn Quốc), một cụm sưu tập văn thơ Cần vương của Đinh Xuân Lâm, và một số bài của những người khác. Một nguồn thứ hai là: Những bài vở do các cán bộ Ban Tu thư Bộ Giáo dục cũ chuyển tới: gồm hai bài về Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh của ĐĐH, hai bài về triều Nguyễn và Phan Thanh Giản của TC, một bài về tuồng của Huỳnh Lý, một tập biên khảo về Huỳnh Thúc Kháng của Lê Trí Viễn, một tập sưu tầm và giới thiệu thơ văn Phan Châu Trinh của Huỳnh Lý và Hoàng Ngọc Phách, một xấp tư liệu về Đông Kinh nghĩa thục của Hoàng Ngọc Phách v.v... Bài Văn Tân đã in trên tập san Văn sử địa cũng có lưu bản đánh máy trong tủ tư liệu của Tổ chính là từ Ban nghiên cứu Văn sử địa chuyển sang, còn bài Mẫn Quốc mãi về sau mới in nhưng đã có ngay từ dạo ấy. Nhưng mà chỗ này thì cũng chưa được chắc chắn lắm bởi vì bên cạnh bài của Mẫn Quốc, tôi nhớ là còn có bài của Võ Văn Nhung, mà bài của Võ Văn Nhung thì gửi sang muộn hơn.
 Trong số những bài liệt kê ở trên thì hai bài phê phán Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh của ĐĐH, và bài phê phán Trương Vĩnh Ký của Mẫn Quốc là những bài gây “sốc” cho tôi rất mạnh, khiến tôi nhớ lâu nhất, và đã phải đắn đo không dám mạnh dạn đề cao đúng mức Trương Vĩnh Ký, cũng như không dám đưa Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh vào Từ điển văn học (bộ cũ) in năm 1983-84, mà tôi đóng vai thưòng trực.

T.K: Bởi vì Nguyễn Văn Hoàn cho rằng không có những bài viết ấy, vậy thì anh có thể chứng minh bằng văn bản, là những tài liệu ấy có thật hay không?
N.H.C: Nguyễn Văn Hoàn trong bài phản đối tôi đã quả quyết rằng:“Hoàn toàn không có những bài như Huệ Chi kể, trong tủ tư liệu của Tổ hồi đó.” Ông nói chắc nịch như vậy. Vậy sự thực thế nào? Mấy ký ức tôi vừa viện dẫn có lẽ chưa đủ sức thuyết phục bạn đọc tin vào sự tồn tại có thực của những bài viết mà tôi nhắc tới. May sao trời không phụ người ngay. Mới đây, khi kiên nhẫn bỏ ra ngót một tuần lễ để lục tìm lại trong ba tủ tư liệu của Ban văn học Cổ cận đại của Viện Văn học (tức là Tổ văn học Cổ cận đại cũ), tôi đã gặp đúng cái mình định tìm. Trong một cặp tư liệu có ghi ở ngoài “Tài liệu văn học sử cận đại”, tuy không còn đủ hết những bài mà tôi đã nêu, song hai bài phê phán Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh của ĐĐH - cái đinh của vấn đề - cùng với các bài của Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, Hoàng Ngọc Phách, Đinh Xuân Lâm... thì còn đầy đủ. Chỉ thiếu hai bài phê phán nhà Nguyễn và phê phán Phan Thanh Giản của TC. Tôi phải nói rõ một chút như thế này: Hai bài của ĐĐH nằm chung trong một phong bì bằng giấy xi măng, ngoài bì đề: Ghi chép, sưu tầm, nhận định về Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh: 1. Tối phản động về chính trị; 2. Số không về học thuật; 3. Lỗi thời về dịch thuật -ở dưới ký ĐĐHBên trong phong bì là hai tập bản thảo liên hoàn, bài trước có tên Đông-dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh, 22 trang, dưới ghi rõ Ghi chép của ĐĐH; bài sau có tên Tài liệu về Phạm Quỳnh, 27 trang, dưới ghi ĐĐH sưu tầm. Cả hai đều được đánh máy trên giấy pơ-luya, đã ố vàng, trên góc bên phải đầu mỗi bài đều có đánh chữ H, tên tắt của Từ Quang Hàm, một cán bộ đánh máy lão luyện lâu năm của Viện đã quá cố. Tuy chia thành hai song hai bài có nội dung liền mạch, vì ở một trang gần cuối bài thứ hai, người viết nhắc lại luận điểm “phản tác dụng” mà ông nói “đã trình bày bên trên” (trang 23), tuy vậy lần ngược trở lên thì phải đến trang 20 của bài thứ nhất ta mới bắt gặp luận điểm ấy. Có lẽ cũng vì thế, cuối bài thứ hai tác giả mới ghi thời gian biên soạn: 8-1960, là thời gian chung cho cả hai bài.

T.K.: Xin anh nói qua về nội dung của hai bài viết này.
N.H.C: Trong bài Đông-dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh, tác giả chia ra ba phần: “1. Mở đầu; 2. Đông-dương tạp chí; 3. Nguyễn văn Vĩnh dịch thuật.” Phần nào cũng khảo sát tỷ mỷ có kèm theo trích dẫn. Để khỏi làm bạn đọc vất vả, bởi vì nghe có thể rất nặng đầu óc, nên tôi chỉ xin chọn dẫn ra đây hai đoạn có tính chất đánh giá tổng kết của người viết.
Đoạn thứ nhất:
“Từ hành vi làm mật thám cho thực dân, Vĩnh thoạt tiên dùng con đường văn học, báo chí để leo lên thang giàu sang, danh vọng, bợ đỡ chính sách của thực dân, tuyên truyền cho sự “bảo hộ” của Pháp. Năm 1907, Vĩnh làm Chủ bút tờ Đại Nam đăng cổ tùng báo, là một thứ công báo, tuyên truyền chính sách thuộc địa của Pháp tại Đông-dương. Những tờ báo tiếng Việt hoặc tiếng Pháp do Vĩnh chủ trương đều là tiếng nói của tư tưởng thực dân, được thực dân đứng đầu hoặc được trợ cấp của chúng: Đông-dương tạp chí (1913-1917), Annam Nouveau (1931). Tủ sách Âu Tây tư tưởng, được thành lập dưới sự chỉ huy của E. Vayrac, từ năm 1927, nhằm truyền bá tư tưởng phục tùng văn minh Tây Âu, khinh miệt tư tưởng dân tộc. Từ 1930 trở đi, Vĩnh từ bỏ dần dần con đường tiến thân bằng văn học để trực tiếp tham gia chính trị; y chủ trương thuyết “trực trị” tức là muốn mời thực dân Pháp cai trị trực tiếp toàn Đông-dương như ở Nam-kỳ dạo ấy. Y được thực dân cử vào Đại Hội đồng kinh tế lý tài Đông-dương. Sau đó ít lâu, con đường “trực trị” không thực hiện được, Vĩnh bỏ cả nghề báo, nghề chính trị đi sang Lào tìm mỏ vàng và chết ở đấy. Vết nhơ cuối cùng trong cuộc đời bợ đỡ thực dân Pháp của Vĩnh là việc y phỉ báng nhà ái quốc Phan bội Châu đang bị giam lỏng ở Huế” (trang 1).
Đoạn thứ hai:
 “Nhận định chung cả cuộc đời và tất cả “sự nghiệp” văn học của Nguyễn Văn Vĩnh, ta thấy Vĩnh đại biểu cho từng lớp tư sản mại bản khoảng những năm 1910-30. Suốt đời Vĩnh ca ngợi nền thống trị của thực dân Pháp, phản lại dân tộc, khinh miệt dân tộc. Con đường tiến thân của Vĩnh không phải con đường quan lại như Quỳnh, kẻ đại diện cho tư tưởng phong kiến bảo thủ. Cuộc tranh giành địa vị trong cuộc cãi vã “trực trị” biểu hiện rõ điều ấy. Ta biết rằng thực dân Pháp lấy cơ sở thống trị của chúng trong chế độ phong kiến, lấy bọn vua quan làm tay sai, để dìm nhân dân ta trong ngu dốt, cho nên con đường của Vĩnh gặp nhiều khó khăn; chính Phạm Quỳnh mới là kẻ tay sai đắc lực, hợp thời nhất của thực dân Pháp. Mâu thuẫn giữa Quỳnh và Vĩnh phản ánh những cuộc tranh giành quyền lợi bỉ ổi giữa những bọn tay sai khác nhau của chính sách thực dân. Ngay từ những năm đầu, trước Đại chiến I, con đường “nghiên cứu”, “dịch thuật” văn học của hai người ấy cũng biểu lộ rõ con đường [chính trị] của mình. Quỳnh dịch những tư tưởng bảo thủ, thần bí, phong kiến trong văn học Pháp (Pascal, Bossuet), còn Vĩnh lại chuyên dịch những loại văn khác, bề ngoài có vẻ tiến bộ, như Balzac, Molière, La Fontaine, nhưng sự thực bị Vĩnh xuyên tạc, lấy nó làm lợi khí tuyên truyền cho tư tưởng đầu hàng, cho chính sách thực dân của Pháp [...] Cuộc đời chính trị và “sự nghiệp” văn học của Vĩnh không thể tách rời nhau. Nói chung, đó là tư tưởng đầu hàng, phản dân tộc, bợ đỡ thực dân, biểu hiện dưới nhiều hình thức, khi trắng trợn, khi tinh vi” (trang 2-3).

T.K.Trên đây anh vừa đọc hai đoạn trong bài viết về Nguyễn Văn Vĩnh của ĐĐH mà Viện Văn học dùng làm tài liệu biên khảo những năm 60. Bây giờ xin anh nói qua về bài viết về Phạm Quỳnh, cũng của ĐĐH.
N.H.C: Về Phạm Quỳnh, thì tác giả cũng chia ra làm 6 mục: “1. Con người Phạm Quỳnh; 2. Chính trị; 3. Nghiên cứu văn học Việt-nam; 4. Nghiên cứu văn học Pháp; 5. Dịch thuật; 6. Triết học”; và một lời kết luận. Giống như trên, ở đây tôi cũng chỉ xin dẫn 2 đoạn thôi.
 Đoạn thứ nhất:
“Nhận định chung về tiểu sử Phạm Quỳnh, ta thấy những hoạt động văn học cũng như chính trị của hắn chỉ phục vụ cho một mục đích là cố hết sức duy trì nền thống trị của thực dân ở Việt-nam, dưới nhiều hình thức, khi thì bằng con đường văn hóa, khi thì “đấu tranh” chính trị, khi thì bằng thực tế hành động. So sánh với những tay sai khác ta thấy Phạm Quỳnh có mấy đặc điểm sau đây: Phạm Quỳnh là một tên tay sai phản động nhất về mặt tư tưởng; những năm 30 là những năm “gay go” nhất cho thực dân - vì nhân dân đứng lên đấu tranh rất anh dũng ở khắp nơi - hắn vẫn tỏ ra một tên bảo thủ, hắn đối lập cả với bọn cải cách nhỏ giọt chủ trương “trực trị”; và những năm 40, quay trở về với chế độ quân chủ độc tài thối nát. Hắn cũng là một tay sainguy hiểm nhất; dưới chiêu bài “gây một nền văn hóa tiến bộ”, hắn một phần nào đã đạt mục đích ru ngủ thanh niên, trí thức ta suốt gần 20 năm trời; hắn dùng vũ khí văn hóa để đè bẹp ý chí dân ta, chống lại tinh thần dân tộc của ta, tuyên truyền cho nền “văn minh” châu Âu, đặc biệt cho “văn minh” Pháp. Nói tóm lại, cả “sự nghiệp văn học” của Quỳnh, ngày nay ta nghiên cứu lại, đã soi tỏ những chính sách thâm độc của thực dân Pháp từ giữa cuộc Đại chiến thứ I đến Cách mạng tháng Tám” (trang 4).
Đoạn thứ hai:
 “Qua một số tài liệu trên, ta có thể kết luận rằng sự nghiệp văn học của Phạm Quỳnh, đến nay, về mặt tích cực, là một con số không (tôi xin nhấn mạnh: một con số không - NHC), còn về mặt tác hại thì quả là lớn; phải công nhận rằng ảnh hưởng của Phạm Quỳnh đối với thanh niên, trí thức từ 1917 đến 1930 không phải là nhỏ. Hắn dựa vào uy thế của thực dân, chiếm được địa vị lớn trong làng báo lúc bấy giờ, có cơ quan ngôn luận được thực dân nuôi dưỡng, nên đã hoành hành một thời, dù có bị các nhà cách mạng công kích cũng chỉ bị sứt mẻ ít nhiều. Nhân dân ta đã xử tử Phạm Quỳnh, tưởng cũng đã đến lúc kết án toàn bộ “sự nghiệp” văn học của hắn một cách có hệ thống và xứng đáng với tội của hắn” (trang 27).
Nói có sách mách có chứng, bây giờ thì chị và thính giả đã thấy rồi nhé. Với 4 đoạn trích trên, 2 đoạn về Nguyễn văn Vĩnh, và 2 đoạn về Phạm Quỳnh của ĐĐH, rõ ràng những gì tôi dẫn ra trong bài hồi ức về Trần Thanh Mại, tuy dựa vào trí nhớ nên có chỗ không thật chính xác về câu chữ, song tuyệt nhiên không phải là tùy tiện.

IV- TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC

Những nhà nghiên cứu tên tuổi như Trần Thanh Mại, Đặng Thai Mai v.v... đã giữ vai trò như thế nào trong những công trình nghiên cứu văn học. Họ có trách nhiệm gì trong việc chôn vùi những tên tuổi như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh... Những câu hỏi này sẽ được Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trả lời trong phần chót của buổi nói chuyện.

TK: Thưa anh Nguyễn Huệ Chi, anh đã mô tả một số tài liệu được các nhà nghiên cứu văn học tên tuổi viết ra, cốt ý làm điểm tựa cho việc nghiên cứu văn học sử cận đại, chủ yếu là hai bài phê phán Nguyễn văn Vĩnh và Phạm Quỳnh của ĐĐH v.v... Vậy xin anh cho biết cụ thể những bộ sách nào, đã sử dụng những loại tư liệu như vậy?
NHC: Đầu tiên là cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt-nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX do Tổ biên soạn với sự cộng tác của một số người ngoài Viện. Cuốn này được Nhà xuất bản Văn học in xong vào cuối tháng 5 năm 1964, nhưng đã được chuẩn bị ròng rã trong hai năm 1962-1963, dưới sự chỉ đạo chung của Đặng Thai Mai, mà phần trông nom và biên tập cụ thể thì phải nói do Trần Thanh Mại đảm nhiệm.
Ngay khi Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930 (là cuốn viết tiếp cuốn trên) còn dang dở, Tổ và Viện đã lại phải bắt tay vào một công việc quy mô hơn: biên soạn bộ Lịch sử văn học Việt Nam ở cấp quốc gia, dưới sự chỉ đạo của Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn. Nhóm biên soạn là một tập thể đông đảo gồm nhiều cán bộ ở hai Trường đại học Tổng hợp và Sư phạm Hà Nội, về phía Viện có Cao Huy Đỉnh (văn học dân gian) Nguyễn Văn Hoàn (văn học cổ cận đại), Vũ Đức Phúc (văn học hiện đại). Sách chia làm hai tập, Tập I từ khởi thủy đến giữa thế kỷ XIX; Tập II từ nửa cuối thế kỷ XIX đến tận thập kỷ 70 thế kỷ XX. Công việc chuẩn bị được tiến hành trong nhiều năm, với rất nhiều loại đề cương, rất nhiều hội thảo, viết đi viết lại nhiều lần, cuối cùng in ra được Tập I, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ở Hà Nội công bố năm 1980, còn Tập II thì không hiểu vì sao sau bao nhiêu rục rịch khởi động vẫn phải dừng. Mặc dầu thế, qua mỗi chặng, mỗi lần góp ý, bản thảo đều được Nhóm biên soạn chỉnh lý, viết lại khá công phu.

 T.K: Vì thì giờ không cho phép chúng ta đi sâu vào chi tiết cả hai bộ sách ấy. Chúng tôi chỉ xin hỏi anh về cuốn đầu, tức là cuốn “Sơ thảo lịch sử văn học Việt nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX”, mà anh cũng có tham dự, vậy xin anh nói qua về việc soạn bộ sách này.
N.H.C: Giáo sư Đặng Thai Mai nhận viết Chương khái quát bao gồm hai mục: “Bối cảnh lịch sử” và “Tình hình văn học”. Để giúp đỡ ông, Tổ cử tôi làm một tư liệu viên, có nhiệm vụ vào thư viện đọc trong sách sử và các văn tập của thế kỷ XIX, rút lấy những đoạn có thể gợi ý cho người chấp bút nắm được quang cảnh chung về lịch sử và về văn học trong vòng gần năm thập kỷ cuối của thế kỷ XIX. Sau nhiều tháng trời khổ công lục lọi ở cả hai Thư viện Khoa học và Quốc gia, tôi biên soạn xong đâu vào đấy, đem về đánh máy được ngót nghét 100 trang, nộp lên cho Tổ và Đặng Thai Mai. Nhưng điều không ngờ - và bởi thế cũng đặt tôi vào một tình thế khó khăn - là sau khi đọc xong, Đặng Thai Mai cho họp Tổ lại, đánh giá cao việc tôi làm, rồi đi đến quyết định: phân công tôi viết luôn Chương khái quát. Trần Thanh Mại cũng đồng ý. Tôi lại đành phải gò gẫm thêm mấy tháng nữa để hì hục viết, một bài viết mà về tư tưởng chủ đạo chính mình không thực hiểu rõ, dù đã làm tư liệu không kém kỹ lưỡng. Bài viết hoàn thành, đem ra Tổ đọc, bị đánh giá là yếu về quan điểm và không chặt về lập luận, nên không thể dùng. Giữa tình hình một bài viết then chốt bị đổ, lại rất bức bách về thời gian, tất nhiên chỉ có một người là Trần Thanh Mại mới làm được việc “chữa cháy”. Ông thoải mái nhận, và yêu cầu tôi cung cấp bài đã viết cho ông, đưa cho ông cả 100 trang tư liệu mình làm, cùng với một số tài liệu khác mà Tổ có sẵn, trong đó có hai bài của TC về nhà Nguyễn và về Phan Thanh Giản (cũng vì thế trong hồ sơ của Tổ hiện không còn hai bài này - sau khi viết xong ông đã quên không trả lại). Và ông chỉ viết trong vòng một tháng rưỡi là hoàn thành.

T.K: Về chương khái quát mà Trần Thanh Mại đã viết lại bài của anh, hôm nay đọc lại bài ấy anh có những nhận xét gì?
N.H.C: Đọc lại Chương khái quát trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt-nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, tôi còn nhận ra dấu vết ít nhiều đoạn trích từ tập tư liệu của tôi (tập tư liệu này do đánh máy nhiều bản nên vẫn còn lưu một bản trong cặp hồ sơ văn học sử của Ban văn học Cổ cận đại ngày nay); một vài nhận định non nớt của tôi trong bản thảo bài viết bị Tổ bác bỏ cũng được Trần Thanh Mại dùng lại sau khi đã nâng cấp; và nhất là một số đoạn ông thâu tóm ý kiến cốt tủy từ hai bài của TC, mà tôi xin trích dưới đây:
Đoạn trích 1:
 “Đời sống văn hóa đã hết sức tệ lậu trong buổi đầu triều Nguyễn, càng về sau càng có xu hướng suy sụp hơn. Những năm 30 của thế kỷ, Minh Mạng còn có ý định cho người ra nước ngoài học, và xét lại lối học cử nghiệp, nhưng rồi cũng đánh trống bỏ dùi, không vươn nổi ra khỏi tập tục bảo thủ. Từ đó về sau, trong nước ngày càng đi sâu vào lối học nhồi sọ. Vua và triều đình mỗi khi bàn chính sự thì chỉ biết có Tứ thư, Ngũ kinh, cho đó là thiên kinh địa nghĩa, tin rằng bất luận vấn đề lớn nhỏ nào cũng được giải đáp trong ấy. Họ đem những châm ngôn của Khổng Mạnh Chu Trình ngày xưa để làm phương sách giải quyết mọi vấn đề đang đặt ra. Như ếch ngồi đáy giếng, giai tầng trí thức nho sĩ vẫn tự cao tự đại với cái mà họ gọi là “thánh đạo nho phong” và coi các nước không “đồng chủng đồng văn” với mình là chó dê, mọi rợ. Có ai đi ra ngoài về kể chuyện đời sống đó đây thì cho là đi xa về khỏe bề nói khoác, hoặc vu khống là có ý mê hoặc lòng người, hủy hoại kỷ cương. Rốt cục lại, trình độ hiểu biết về đời sống, về thiên nhiên thuở bấy giờ thấp kém một cách khủng khiếp. Do đó, trong lề lối xử thế, trong quan hệ giữa con người và con người, chúng ta thấy nhiều điều ngu xuẩn, u mê, thậm chí vô nhân đạo” (trang 12-13).
Đoạn trích 2:
 “Loạt đại bác bắn vào cửa Hàn ngày 31-VIII-1858 quả đã gây một nỗi kinh khủng khó tả cho bọn người cầm đầu chế độ phong kiến. Những người đứng đầu triều đình như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Bá Nghi, Đoàn Thọ đều chủ trương “nghị hòa” nghĩa là đầu hàng. Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản dẫn sách cũ, phát biểu: “Nhược bằng cho rằng lũ chúng tôi (chủ trương hòa nghị) là làm cho Đức vua phải lo lắng, thì thử hỏi từ xưa nhà Hán chẳng đã tự hòa với Hung-nô đó hay sao? Nhà Tống chẳng đã tự hòa với Khiết-đan đó hay sao? Nhiều lập luận lẩm cẩm ngớ ngẩn chứng tỏ những người đưa nó ra đã hốt hoảng đến mất hết lý trí bình thường” (trang 17).
Nếu nói quan điểm của TC đã làm “điểm tựa” cho Trần Thanh Mại thì hẳn là hơi quá, song thực tế là như vậy đấy - hai ông đã “gặp nhau” bởi đều cùng bắt nguồn từ “hòn đá tảng” quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin vốn thấm sâu trong lòng họ.

T.K: Những điều mà anh vừa trích dẫn trên đây, phải chăng nó tiêu biểu cho cách viết nghiên cứu của một thời?
N.H.C: Sở dĩ tôi trích như trên là để muốn nói rằng: không phải vô cớ, khi tôi nói là những bài lưu trong tủ hồ sơ của Tổ văn học cổ cận đại của Viện Văn học đầu những năm 60 là điểm tựa cho người viết văn học sử thủa ấy. Tôi chỉ nêu lên như một nhận định khái quát thế thôi, nhưng Nguyễn Văn Hoàn lại nói là không hề có chuyện đó. Nếu có thì giờ trích dẫn thêm bản thảo còn lưu của những tập viết mà chưa công bố (như tập II, do Nguyễn Khánh Toàn chỉ đạo) trong đó chứa đựng không ít những lời “chỉ mặt vạch tên” Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh chẳng kém gì ĐĐH và Mẫn Quốc thì thính giả hẳn càng thấy tôi không bao giờ nói điều gì sai sự thật. Có thể tập thể soạn giả viết ra những trang này chưa hề được đọc các tài liệu của ĐĐH, của Mẫn Quốc, vậy mà họ vẫn không khác ĐĐH, Mẫn Quốc bao nhiêu ở cách nhìn, cách suy nghĩ, ở lời lẽ lên án có tính chất quy chụp nặng nề, ở giọng điệu thậm xưng, bêu riếu... đối với bộ phận văn học mà một thời chúng ta đều nhất trí gọi là văn học nô dịch. Vì sao? Chính chỗ thống nhất về “quan điểm giai cấp” bắt buộc phải dùng làm hành trang tư tưởng đối với nhà nghiên cứu, và phương pháp nghiên cứu đồng nhất văn học với chính trị một cách tuyệt đối (một thứ tâm lý thấy mình “vẻ vang” hơn khi chuyển từ người làm học thuật sang người đi minh họa cho chính trị) đã dẫn đến một sự gặp gỡ căn bản giữa mọi người cầm bút mà cái khẩu hiệu bất thành văn ai cũng phải nhập tâm là: “Hễ thấy địch là đánh, đánh bao nhiêu cũng chưa đủ.”

T.K: Thưa anh, cách viết bêu riếu đó, phải chăng là đã trở thành cách viết chung của những người làm công việc nghiên cứu, kể cả những người tên tuổi nhất?
N.H.C: Chẳng nói đâu xa, ngay trong cuốn Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX của nhà nghiên cứu đáng kính Đặng Thai Mai, người thủ trưởng khá nhiều năm của tôi ở Viện Văn học, ta cũng bắt gặp những lời đánh giá chưa thỏa đáng về Phạm Quỳnh, khi ông gọi Phạm Quỳnh là “tên Việt gian đội lốt “học giả” nguy hiểm”, hoặc “cái mà Phạm Quỳnh giới thiệu lên trên tờ báo Nam phong không hề có một mặt nào có thể gọi là có hệ thống, và cũng chưa hề có một phần nào đã đi sâu vào vấn đề mà phê phán, mà nghĩ đến việc áp dụng vào thực tế Việt-Nam. Ông Chủ bút Nam phong, nói cho cùng chỉ là một ông tham biện của tòa Liêm phóng, đủ tư cách để chiếu theo mặt hàng mà quảng cáo cho chính sách thực dân”, hoặc nữa “Phạm Quỳnh đã đọc khá nhiều sách, đã viết về rất nhiều vấn đề. Nhưng y chưa hề nghiên cứu về một vấn đề gì. (Tôi nhấn mạnh: y chưa hề nghiên cứu về một vấn đề gì - NHC) Và về mọi mặt, chỗ “độc đáo” của y là điểm lạc hậu của bọn học giả phản động Pháp! Cảm tưởng cuối cùng của người đọc Nam phong, nếu họ chịu khó suy nghĩ, thì Phạm Quỳnh là một người đã đọc khá nhiều sách và đã đem học thức ra bán rẻ cho bọn thống trị; là một nhà “học giả” có đủ chữ Hán và tiếng Việt để bịp người Tây; và cũng có đủ chữ Tây để lòe người An-nam.” Tất cả những đoạn trên, trích lời của Đặng Thai Mai, tôi đều lấy ở Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 1964, trang 97 đến 98.

T.K: Thưa anh, câu chuyện đã dài, xin anh một lời kết.
N.H.C: Xin Nguyễn Văn Hoàn và bạn đọc, cũng như thính giả nghe đài RFI rộng lượng thông cảm, tôi không có ý trưng ra đây để châm chích gì một học giả nổi tiếng như Đặng Thai Mai. Tôi cũng không nghĩ những gì Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh từng nói, viết và làm đều hay đều tốt cả. Từ bình diện lịch sử văn học mà xét, vốn là sản phẩm của một giai đoạn giao thời, đầy éo le bất trắc: đất nước mất chủ quyền, chuyển đổi không triệt để từ mô hình phong kiến sang mô hình thuộc địa tư bản, và trong tư cách những nhân vật ngẫu nhiên được lịch sử lựa chọn để đóng vai trò tiêu biểu trong giao thoa văn hóa Á-Âu - là một nhu cầu tất yếu của mô hình xã hội ấy, những giá trị tinh thần do các học giả Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh tạo ra có phần được và phần chưa được, có cái đẹp và cái chưa đẹp lắm, có mặt thật và mặt ngày nay ta đã thấy là ảo, có nhiều điều mới mẻ và cũng có nhiều điều với thời gian đã cũ đi, có chỗ rất đáng ghi nhận và cũng có chỗ còn phải gạn lọc, phê phán, chuyện đó bình thường. Tôi chỉ muốn lưu ý rằng vào những năm 60-70, và cả đến 80, 90 cho đến gần đây nữa, trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa và sau này trên cả nước, khi nhìn lại những hiện tượng văn hóa nói trên, cách tư duy của rất nhiều người trong giới nghiên cứu chúng ta đều rốt ráo phủ định theo hướng “căng”, “cương” như đã dẫn. Nó là phương pháp tư tưởng quen thuộc của cả một thời. Nếu nói như anh Hoàng Ngọc Hiến là “cái nước mình nó thế”, thì tôi cũng xin bắt chước anh mà nói “cái thời ấy nước mình nó thế”. Tiếc thay mình lại không nhận thức ra cái thời ấy nó như thế, hay nếu có nhận thức ra thì cũng không dám ngay thẳng thừa nhận về một cái thời nó bó buộc mình phải làm như thế, chưa nói có đủ quả cảm để suy nghĩ cho đến tận cùng, rằng do đâu mà phần lớn trí thức lại tự nguyện bắt mình phải làm như thế!
T.K: Xin thành thật cảm ơn Giáo sư Nguyễn Huệ Chi.

Thụy Khuê thực hiện
 Paris tháng 7 / 2005
 Văn bản đã được Giáo sư Nguyễn Huệ Chi xem lại và bổ sung.

Thụy Khuê 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét