Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014

Trên con đường hòa giải dân tộc


Sinh thời, vào năm 2005, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, khi nhắc lại chiến thắng nhân dịp kỷ niệm ngày 30.4 năm đó, đã từng viết mấy câu chí tình chí nghĩa: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”. 


Ý tưởng nhân hậu này vừa nêu lên đã được hầu hết mọi người dân Việt cả trong lẫn ngoài nước, không phân biệt thành phần lý lịch hay xu hướng ý thức hệ, coi như bản tuyên ngôn ngắn gọn có ý nghĩa sâu sắc về tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc, vốn là một trong những yêu cầu quan trọng tiên quyết và bậc nhất để kiến thiết xứ sở. Bởi một lẽ đơn giản, đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết. Ngoài ra nó còn thể hiện sâu sắc tình tự dân tộc, coi chiến tranh đổ máu là chuyện bất đắc dĩ và phần lớn đều do những gọng kiềm lịch sử khắc nghiệt gây nên chứ không ai là người Việt Nam máu đỏ da vàng mà lại muốn như thế.  
 
     Cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt ngày 30.4.1975 lùi xa vào dĩ vãng đã tròn 39 năm. Với bằng ấy thời gian, bên cạnh niềm tự hào đương nhiên của “bên thắng cuộc”, trong lương tâm mỗi người vẫn còn đọng lại không ít những niềm trăn trở, suy nghĩ, từ đó thấy cần đánh giá lại vấn đề một cách toàn diện hơn, cũng như cần đi sâu vào những góc cạnh chi tiết tế nhị hơn, liên quan đến một số sự kiện hoặc con người cụ thể, trong bối cảnh lịch sử hết sức đặc thù của dân tộc. Ở đây, và trong những khoảnh khắc thời gian này, chúng ta muốn nhắc đến nhân vật lịch sử Dương Văn Minh, người thuộc “bên thua cuộc” của chiến tuyến đối lập, nhưng nếu xét trên phương diện quyền lợi chung của cả dân tộc thì ông lại là người bạn, người đồng chí chân tình của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt. Chắc chắn vì thế mà sau 1975, hai ông vẫn giữ mối liên lạc thân thiết khá thường xuyên, theo cách quý trọng lẫn nhau giữa những người quân tử cùng lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục đích tối thượng.
     Trong chiều hướng suy nghĩ cởi mở như trên, dần dần ai cũng phải thừa nhận, một trong những nhân vật lịch sử thuộc phe bại trận nhưng có vai trò quan trọng, gắn liền với ngày 30.4 lịch sử, có lẽ là ông Dương Văn Minh, người đảm đương chức vụ tổng thống chỉ trong vòng 3 ngày trước khi chế độ cũ Sài Gòn bị tan rã.
     Các tài liệu đã được phổ biến từ nhiều năm nay, đại khái đều ghi chép: 15 giờ chiều ngày 28.4.1975, sau khi có quyết định của lưỡng viện Quốc hội trong tình hình khẩn cấp, tướng Dương Văn Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử ông Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, ông Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng. Tổng thống Dương Văn Minh bổ nhiệm một số bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó chỉ định ông Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (gốc dân sự, không phải tướng tá) làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng, như một cách để chứng tỏ chính phủ của mình không muốn cuộc chiến tranh tiếp diễn.
     Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Những ngã rẽ, hồi ký, chưa xuất bản), đêm 28.4.1975, có hai đại tá phi công lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, đến gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa ông và tất cả những người trong bộ tham mưu Tổng thống và gia đình bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Ông Minh trả lời: “Hai em có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo thì có thể ra đi. Phần tôi, tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Sài Gòn, không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”.
     Sáng sớm ngày 29.4.1975, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền đã cử 4 người gồm Nguyễn Văn Diệp (Tổng trưởng), Nguyễn Hữu Hạnh (nhà thầu), Tô Văn Cang (kỹ sư, cán bộ tình báo Z22), Nguyễn Đình Đầu vào trại David tiếp xúc với đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về việc ngưng bắn. Tiếp đến, khoảng 15 giờ (có tài liệu nói 19 giờ) cùng ngày, Tổng thống Dương Văn Minh lại cử một phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu cùng đi với Linh mục Chân Tín và Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, cả ba người được ông Võ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn phía Cách mạng ra tiếp. Ông Liễng đã thông báo với phái đoàn về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh.
     Ngày 30.4.1975, lúc 6 giờ sáng, sau khi nghe chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng khi ấy đã bỏ trốn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo về toàn bộ tình hình quân sự, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các mới lập, họp bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu phụ trách soạn thảo bản tuyên bố này.
     Đến 9 giờ 30 ngày 30.4.1975, Đài phát thanh phát lời tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”; “Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”.
     Hai giờ sau, lúc 11 giờ 30, xe tăng của quân giải phóng vào Dinh Độc Lập, đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
     Có quan điểm khá phổ biến cho rằng ông Minh tuyên bố đầu hàng đơn giản chỉ vì hoàn toàn thất thế, không còn cách nào khác. Nhưng theo ông Lý Quý Chung (bộ trưởng Bộ Thông tin trong nội các Dương Văn Minh, tác giả Hồi ký không tên), và nhiều nhân vật thân cận khác, tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với phe cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông vốn chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh.
     Ngày nay, nhìn kỹ lại diễn biến các sự kiện, đa số người ta đều thừa nhận việc Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các của ông quyết định “không chống cự”, sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” là hành động thức thời, tránh cho nhân dân và chiến sĩ của cả hai phe không bị đổ máu thêm vô ích, tài sản quốc gia không bị hủy hoại, góp phần kết thúc sớm cuộc chiến tranh một cách êm đẹp. Đó lànghĩa cử anh hùng của một người thật sự yêu nước, thương dân, có phần nào thầm lặng chứ không phô trương khoe mẽ nổi đình nổi đám.
     Ý kiến coi ông Dương Văn Minh là người có công đối với đất nước đã được cố thủ tướng Võ Văn Kiệt khẳng định trong một lần trả lời phỏng vấn của tuần báoQuốc Tế (Bộ Ngoại giao) nhân dịp 30.4.2005, về một câu hỏi liên quan: “Bản thân tôi cùng với anh em được giao tiếp quản Sài Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc chiến tranh như vậy, tôi nghĩ không thể không nói đến vai trò của nội các Dương Văn Minh và các lực lượng chính trị đối lập… có quan hệ với chính phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ”. Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt giải thích: “Đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28.4.1975, ngày mà một nhà quân sự như ông có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn. Nếu ông Minh để cho các tướng dưới quyền ông "tử thủ", chúng ta vẫn chiến thắng, nhưng Sài Gòn khó mà nguyên vẹn, và còn biết bao sinh mạng và tài sản của người dân mình nữa.... Phải ở chiến trường, và vào đúng giờ phút ấy, mới cảm nhận được tầm quan trọng của quyết định này”.
      Sau ngày 30.4.1975, ông Minh được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống một cuộc sống bình dị, từ chối mọi sự giúp đỡ vật chất của chính quyền mới. Năm 1983, được Chính phủ chấp thuận, ông sang Pháp chữa bệnh và thăm con, khi đi chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Ông không nhờ vả gì Chính phủ Pháp, mặc dù đã nhiều lần được sự gợi ý rất nhiệt tình.
     Theo sự tiết lộ của ông Hồ Ngọc Nhuận (trong tập hồi ký Đời, chưa xuất bản), người có những hoạt động gần gũi cả với ông Dương Văn Minh lẫn ông Võ Văn Kiệt, thì trong một chuyến đi thăm chính thức Algérie với tư cách thủ tướng, ghé ngang Paris trên đường về nước, ông Kiệt có yêu cầu Tòa đại sứ Việt Nam tại Pháp tìm địa chỉ ông Minh để đến thăm. Trong cuộc gặp, Thủ tướng Kiệt có ngỏ ý mời ông Minh về nước nhưng ông từ chối vì chưa có sự thống nhất ý kiến giữa các con ông trong gia đình. Sau đó, qua sự tác động và sắp xếp của Hồ Ngọc Nhuận, nhằm mục đích tăng cường hòa giải giữa người Việt thuộc các thành phần khác nhau, trong cũng như ngoài nước, ông Kiệt còn kín đáo gởi thư và cử người thân tín sang gặp ông Minh tiếp tục đặt vấn đề, nhưng vì nhiều lý do lắt léo phức tạp, ông Minh cũng không về lại quê hương được trong lần đó, mà cuối cùng đã từ Pháp sang Mỹ ở với người trưởng nữ của ông cho đến khi qua đời vào tháng 8 năm 2001, thọ 85 tuổi.
     

     Ngày nay, sau 39 năm kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước, bài học rút ra được từ hai nhân vật lịch sử Dương Văn Minh- Võ Văn Kiệt có lẽ không gì lớn hơn là bài học về hòa giải hòa hợp dân tộc. Nhưng muốn thật sự hòa giải, cần loại bỏ ngay khuynh hướng cường điệu khía cạnh chiến thắng của ngày 30.4 lịch sử, mà chú trọng hơn vào khía cạnh hòa giải hòa hợp dân tộc, và phải coi việc hàn gắn vết thương chiến tranh qua thái độ hòa giải hòa hợp dân tộc như một thứ trách nhiệm lịch sử tự nhiên phải làm chứ không có tính cách ban phát sự hòa giải cho phía thua cuộc. Nếu khiêm tốn nhìn thẳng vào sự thật, chắc ai cũng biết rằng dân tộc của chúng ta chỉ là nước nhỏ lạc hậu, lại bị chi phối bởi những thế lực, âm mưu chính trị của một số cường quốc khác, nên khi chiến thắng đừng tự hào quá đáng, cũng như không có gì xấu hổ khi thua cuộc để phải mặc cảm kéo dài, trong điều kiện cả hai bên thực chất đều đứng chung trong gọng kiềm khắc nghiệt của lịch sử mà nhiều việc mình không thể chủ động được một cách hoàn toàn. Còn về những sự mất mát do chiến tranh gây ra, cũng là mất mát chung,không đau buồn thì thôi chứ vui vẻ gì cứ tự hào mãi?    
     Cụ thể, từ nay trở đi, nên bớt những cuộc lễ nào mà có nhắc lại những kỷ niệm không vui của thời kỳ chiến tranh đau khổ đã rơi vào dĩ vãng quá xa, và loại trừ hết mọi sự phân biệt về lý lịch, thành phần, dưới mọi hình thức, một cách thực chất chứ không chỉ hời hợt bề ngoài.   
      Đã có một số tín hiệu mới đáng mừng như vậy rồi. Con đường hòa giải hòa hợp dân tộc khá gập ghềnh vì nhiều lý do ngoắt ngoéo tế nhị của lịch sử gần đây đã có thêm những bước tiến cụ thể rất đáng ghi nhận. Chẳng hạn, về cuộc chiến đấu chung bảo vệ hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam những năm 1974, 1988 của binh sĩ cả hai bên chiến tuyến. Trong đó, riêng trận đánh hi sinh dũng cảm của 74 chiến sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ Hoàng Sa tháng 1 năm 1974 có thời gian dài bị làm mờ nhạt, thì nay, sau gần 40 năm hòa bình lập lại, do sự diễn biến thực tế của tình hình và của nhận thức ngày càng tiến bộ, cởi mở, người ta đã bắt đầu công khai thừa nhận, thể hiện rõ nhất qua “Thư kêu gọi ủng hộ chương trình Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa” của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, công bố ngày 10.3.2014 vừa rồi. Các nhà đương cuộc sau thời gian dài dè dặt tiện tặn cho “nhích từng chút” sự thật lịch sử, nay đã mạnh dạn nhìn nhận sự thật khách quan một cách công khai bằng giấy tờ hẳn hoi. 
      Tuy trễ vẫn còn hơn không. “Ai muốn chép công ta chép oán/ Công riêng ai đó oán ta chung”, và nếu chịu xét cho cùng, việc ghi lại công ơn những chiến sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc của cả hai bên chiến tuyến trước đây cũng là hình thức chép lại cái “oán ta chung” mà chịu giảm nhẹ đi phần nào cái “công riêng ai đó”, thứ công riêng được lặp đi lặp lại mãi mà chẳng lợi ích thiết thực gì cho việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc để cùng nhau bảo vệ, xây dựng đất nước.
  Trần Văn Chánh
Theo Viet-studies                                                                                                                                      16.4.2014
Nguồn: Tạp chí Xưa & Nay, số 446, tháng 4.2014

Trước Ngày tự do thông tin Việt Nam: Thăm trụ sở Liên Hiệp Quốc


Nhận được lời mời của các tổ chức NGO là ACCESS và OpenITP, cùng với Văn phòng Liên Hiệp Quốc và Google, chúng tôi lên xe hướng vềNew York.


Đoạn đường từ Washington về New York hết hơn 5 tiếng đồng hồ (ước chừng khoảng 500km), nhưng nhoáng một cái là chúng tôi đã đến nơi.
 Bác tài xế (anh Duy) thật tài tình lái xe đưa chúng tôi đi nhanh, êm và an toàn, ngồi trên xe mọi người cười nói rộn ràng với những màn góp vui rất hồn nhiên của Trinity Hồng Thuận và Lilly Nguyễn. Ở cuối chặng đường, chúng tôi có phần hồi hộp hơn khi nghe tin thành viên thứ 6 có thể sẽ đến được với chúng tôi từ Việt Nam đang trong quá trình làm thủ tục xuất cảnh ở sân bay Nội Bài. Chúng tôi ngóng chờ chừng giây và cùng nhau đưa ra trò dự đoán “đi được – bị chặn”, mọi người trên xe như nổ tung lên khi nghe tin máy bay mang theo thành viên thứ 6 đã cất cánh, blogger Nguyễn Tường Thụy.
Trở lại với vấn đề chính của ngày hôm nay, hai tổ chức phi chính phủ (NGO) là ACCESS và Open IPT đã mở ra một cuộc nói chuyện bàn tròn với chúng tôi trong một khán phòng khá lớn, mọi người ngồi quanh bên nhau nói chuyện rất thân tình
140425005
140425006
Họ cho chúng tôi biết họ biết rất rõ về tình hình người dân ở Việt Nam được “tự do” sử dụng  internet ra sao, hệ thống pháp luật và các nghị định, chẳng hạn như nghị định 72, điều luật 258 … mà nhà cầm quyền đã sử dụng để thắt chặt và quản lý việc sử dụng internet của người dân, họ rất lo ngại cho các bloggers và giới báo chí có tiếng nói đối lập với nhà cầm quyền khi bị sách nhiểu, đàn áp và thậm chị là bỏ tù chỉ vì lên mạng chia sẽ thông tin củng như truyền tại thông tin trên internet.
Các thành viên của hai tổ chức NGO rất buồn khi nhà cầm quyền dựng lên cái tường lữa (firewall) để ngăn chặn người dân truy cập vào các trang webs, các trang blogs hay các trang mạng xã hội như Facebook…, hoặc việc sử dụng mã độc, hacker để tấn công  vào đánh sập các trang blogs và  các trang web như trang của Truyền thông Chúa Cứu Thế – VRNs (www.chuacuuthe.com). Trong thời gian qua chính người quản trị trang web này đã bắt được quả tang  vào chiều ngày 26.04.2010, giờ Việt Nam, website www.dcctvn.net  đã bị tấn công bằng ddos, tấn công vào các hình ảnh trên website. Theo thống kê của máy chủ cho biết, chỉ trong ngày 26.04, các hackers đã hits trang web này gần 500.000 lần, tập trung vào truy vấn các hình ảnh trên trang, làm cho việc truy cập của đọc giả bị chậm lại và làm cho nhà cung cấp dịch vụ nghĩ rằng trang web này  bị lỗi. Hackers xuất phát từ hai công ty hay gọi là hai tập đoàn chuyên về thông tin và truyền thông lớn có trụ sở đặt tại Hà Nội.
Cả hai tổ chức này hứa sẽ lập dự án giúp huấn luyện trang bị cho các bloggers và các nhà hoạt động xã hội về các kiến thức để tự bảo vệ được an toàn internets, ngoài ra họ sẽ hổ trợ cung cấp các phần mềm diệt viruts các bloggers và các nhà hoạt động xã hội đở phần nào về kinh tế  khi phải bỏ tiền ra mua.
Chia tay các thành viên của ACCESS và Open IPT  trong nhưng cái bắt tay, những cái ôm hôn trìu mến thân thương, nặng tình. Theo chúng tôi, các bạn  ACCESS và Open IPT  như đang muốn khóc lên cho thân phận của chúng tôi khi phải chịu nhiều thiệt thòi và tràn đầy nguy hiểm luôn rình rập.
Chúng tôi đến trụ sở Liên Hiệp Quốc vào lúc 4h chiều cùng ngày, tiếp chúng tôi lại là một cô gái còn rất trẻ, tôi có một phân vân mà tới giờ vẩn chưa được giải thích là không hiểu sao ở đất nước Hoa Kỳ này có quá nhiều người phụ nữ còn rất trẻ mà lại nắm giữ những vị trí rất cao, rất quan trọng trong xã hội, hoặc không thì họ củng có kiến thức và nhận thức về xã hội rất sâu sắc. Người phụ nữ ở Mỹ rất được tôn trọng là điều chúng tôi thấy hàng ngày là trên các chuyến xa bus hay tàu điện. Đàn ông luôn nhường chổ ngồi cho phụ nữ, mặc dù người phụ nữ lên xe sau, hay bước lên xe hay bước vào cửa người đàn ông thường mở cửa rồi đứng chờ cho người phụ nữ qua rồi mới tới lượt mình. Nghĩ tới đây thấy thương cho em Huyền Trang, em Hoàng Vi, em Huỳnh Thục Vy, em Thúy Nga, Chị Hằng, em Thảo Chi và nhiều người phụ nữ khác đang ở quê nhà Việt Nam thường bị cảnh công an cộng sản hay lược lượng côn đồ hà hiếp đánh đập hoài. Có dịp chúng tôi sẽ nói riêng về đề tài người phụ nữ trên đất Mỹ (Ladies in Amarica).
140425007
Cô Ann Syauta, người phụ trách chính về nhân quyền cho vùng Đông Nam Á tiếp chuyện chúng tôi. Cô vào thẳng vấn đề. Cô chia sẻ cho chúng tôi về sự kiện điều trần về Nhân quyền ở Geneva (UPR) vừa qua. Cô bày tỏ quan ngại khi chưa thấy Việt Nam thực hiện việc cải thiện Nhân quyền. Cô hỏi chúng tôi về tình hình giới blogger và các nhà hoạt động xã hội đang bị sách nhiểu đàn áp và ngối tù ở Việt Nam. Cô nói hôm nay ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc  Ban Ki-moon đang ở New York và cô sẽ báo cáo với ông ấy về sự kiện gặp gỡ chúng tôi hôm nay cho ông ấy nghe.
Các thành viên trong đoàn chúng tôi đã lần lượt kể hết tất cả những gì mà chúng tôi biết, hoặc đã trải nghiệm cho cô ấy nghe, và cuối cùng chúng tôi đã chuyển cho cô ấy quyển sách về Quyền Con Người. Trong đó, chúng tôi đã chú thích và cùng ký tên lên đó để nhờ cô ấy trao tận tay cho ông Ban Ki-moon.
Đại khái phần chú thích chúng tôi nói nằng: “Quyển sách này được xuất bản tại Việt Nam, đây là bản dịch từ tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, ở Việt Nam chúng tôi không được phép phân phát quyển sách này đến với người dân, và hơn thế nữa chúng tôi bị sách nhiểu, đàn áp và bị đánh đập chỉ vì cổ võ cho quyền con người được thực thi”.
140425008
140425009
Chúng tôi tạm chia tay cô Ann Syauta vì trời đã xế chiều, chúng tôi ra về với niềm vui khôn tả vì hy vọng rằng cô Ann Syauta và đặc biệt Liên hiệp quốc sẽ giúp đồng bào dân Việt chúng tôi sớm có được nhân quyền.

Anthony Lê
Theo VRNs 

Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Vì sao chính quyền 'sợ' xã hội dân sự?


Ảnh bên:Đâu là chỗ cho các hội dân sự trong tư duy của Đảng và chính quyền VN?
 
Nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay đang rất quan ngại các phong trào vận động cải cách xã hội ôn hòa, mà đặc biệt là phong trào của các tổ chức dân sự, vì chính quyền sợ rằng thiết chế chính trị - xã hội này sẽ 'tranh giành quần chúng' và 'ảnh hưởng' của Đảng, theo một học giả gốc Việt từ Mỹ.

Tuy nhiên, xã hội dân sự như trên thực tế phát triển ở nhiều quốc gia và tại Việt Nam lâu nay đã chứng tỏ là rất cần thiết đối với sự phát triển và cân bằng xã hội, Đảng và chính quyền Cộng sản Việt Nam sẽ xử lý ra sao vấn đề vừa muốn độc quyền, vừa cần có sự đồng thuận của dân và các tổ chức của dân tham gia.

Hôm 20/4/2014, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, sử gia và nhà Việt Nam học từ Đại họcMaine Hoa Kỳ đã dành cho BBC một cuộc phỏng vấn bằng bút đàm, trong đó, ngoài vấn đề xã hội dân sự, ông bình luận kịch bản và hướng đi tới đây của Đảng và chính quyền Việt Nam, cũng như khả năng tương tác ra sao giữa các lực lượng chính trị xã hội được cho là cần thiết cho một tương lai cải tổ.

Mở đầu cuộc phỏng vấn, Giáo sư Long bình luận về việc liệu nhà cầm quyền có đang e sợ xã hội dân sự, cùng các phong trào dân sự và dân chủ trong nước hay không. Ông cũng nêu lý do của quan ngại này.
GS. Ngô Vĩnh Long: Nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay rất quan ngại xã hội dân sự, mặc dầu phong trào dân sự, dân chủ đang còn rất manh nha và chủ yếu chỉ mới có sự hiện diện của một vài diễn đàn trên các mạng và một số nhóm “ái hữu”. 

Lý do chính là nhà cầm quyền, ngay từ sau chiến tranh, đã muốn độc quyền và đã tìm cách triệt tiêu xã hội dân sự bằng cách giải tán hầu hết các tổ chức mà họ cho có thể tụ tập quần chúng.
Độc quyền, cho dù có thật lòng muốn giúp đất nước “tiến nhanh tiến mạnh” đi nữa, cũng dẫn đến độc đoán. Và độc đoán đã dẫn đến những sai lầm mà hậu quả là sự suy yếu của xã hội và của cả chính quyền.

Do đó, nhà cầm quyền lại càng sợ mất quyền nên càng chuyên quyền để hầu mong có thể củng cố quyền lực.

'BÀN CỜ CHÍNH TRỊ'

Người chơi chính trên bàn cờ chính trị VN lúc này vẫn là Đảng, theo GS Ngô Vĩnh Long

BBC: So với trước đây, quan ngại của chính quyền đối với các tiến trình dân chủ hóa và đòi hỏi nhân quyền trong nước, với tư cách là sự cạnh tranh, thậm chí là thách thức, có điểm gì khác biệt chính?

Trước đây, trong thập kỷ rất khó khăn sau năm 1975, chính quyền còn phải dựa vào dân để bảo vệ đất nước. Cho nên chính quyền đã phải để cho dân “phá rào”, nhưng chỉ trong các lãnh vực kinh tế thôi.

Cho đến nay, những đòi hỏi về nhân quyền và dân chủ hoá—đừng nói gì với tư cách cạnh tranh hay thách thức—đều đã bị đàn áp, kể cả đối với những người có công với đất nước và có chức vụ lớn trong Đảng và trong chính quyền.

Trái lại, đặc biệt trong thập kỷ vừa qua, cạnh tranh hay thách thức nhau về quyền lợi phe nhóm hay cá nhân càng lớn. Quyền lợi đã làm mất dần quyền uy, cho nên nhiều tầng lớp—từ anh công an đến anh dân đen—đã coi thường luật pháp và an ninh xã hội.

BBC: Theo Giáo sư, trên bàn cờ chính trị của VN hiện nay, đâu là những người chơi chính, họ sẽ quyết định tương lai của đất nước ra sao, bằng cách nào?

Trên bàn cờ chính trị của Việt Nam hiện nay những người chơi chính vẫn còn là những đảng viên và những quan chức cao cấp.

Việc họ quyết định tương lai của đất nước ra sao và bằng cách nào thì người ngoài chẳng thế nào biết được.

Chỉ biết là nếu họ không dựa vào quần chúng thì quyết định như thế nào đi nữa cũng không có tương lai.

'NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH'

Nhiều hội dân sự đã nhận được sự ủng hộ, tán thành của các nhân sỹ, trí thức và cựu quan chức chính quyền VN.
 
BBC: Liệu xã hội dân sự có phải là một nhân tố nặng ký làm chuyển hướng thế cờ, trận mạc, hay sẽ phải chờ một lực lượng chính trị, xã hội nào đó xuất hiện để cho lời giải cuối cùng?

Xã hội dân sự, bất cứ ở nước nào đi nữa, cũng là nhân tố quyết định và cuối cùng để bảo vệ sự sống còn của chế độ và an ninh bền vững cho xã hội.

Một lực lượng chính trị, hay xã hội, xuất hiện để thay quyền mà không có một xã hội dân sự lành mạnh thì chỉ lại dẫn đến chuyên quyền mà thôi.

Lịch sử đã chứng minh điều này, và một số ví dụ điển hình gần đây gồm có các trường hợp như Ai Cập, Irak và Libya. Do đó, một chính thể, nếu muốn tồn tại vững chắc, phải tạo điều kiện cho một xã hội dân sự được phát triển.

BBC: Ông có cho rằng có một quan hệ Đảng anh - Đảng em, nước lớn - nước bé giữa Trung Quốc và Việt Nam và ảnh hưởng của Trung Quốc, của giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc có thể mạnh đến nỗi mà VN khó thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng, dù là trong năm, mười năm nữa, để cải tổ?

Quan hệ nước lớn-nước bé mà lại liền núi, liền sông, liền biển nữa thì bất cứ ở đâu (ví dụ ngay tại Bắc Mỹ giữa Canada, Hoa Kỳ và Mexico) nước nhỏ khó có thể thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của nước lớn hơn và mạnh hơn.

Vấn đề ở đây không phải là thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng mà là để ảnh hưởng đó chi phối đời sống xã hội và an ninh quốc gia của mình đến mức nào.

Ảnh hưởng của Hoa Kỳ đối với Canada và Mexico) rất khác so với ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Triều Tiên (Bắc Hàn) và Myanmar (Miến Điện), một trong những lý do đã khiến Myanmar tìm lối thoát.

Myanmar là một nước yếu, chịu đựng ảnh hưởng đơn độc rất lâu, mà còn đang tìm được lối ra huống chi một nước Việt Nam đã hi sinh rất nhiều cho độc lập, tự do?

Vấn đề là lãnh đạo Việt Nam có muốn “sống mà vì nước, sống vì dân” hay không, hay sống xa hoa trên sự tủi nhục của đất nước và lầm than của nhân dân. Cái đầu mà lọt thì cái thân khắc thoát.

'KỊCH BẢN TƯƠNG LAI'

Trong mô hình quyền lực chính quyền lâu nay, Mặt trận Tổ quốc VN được coi là một siêu tổ chức 'dân sự' của Đảng.
 
BBC: Theo ông đâu là kịch bản chuyển biến, chuyển đổi có khả năng xảy ra nhất cho biến đổi chính trị, thể chế của VN tới đây?

Kịch bản chuyển biến an lành nhất và nhanh nhất cho đất nước và dân tộc là chuyển đổi đường lối và chiến lược trong Đảng và Nhà nước.

Tất cả những biến đổi chính trị và thay đổi thể chế qua các phương cách khác đều có những giá rất đắt phải trả trong tương lai, gần hay xa.

BBC: Cuối cùng, thời điểm xảy ra cải tổ, thay đổi, thậm chí là cách mạng có thể là bao giờ và các lực lượng chính trị ở VN hiện nay, kể cả Đảng CS và các bên là đối thủ, các lực lượng chính trị - xã hội, nên có sự chuẩn bị ra sao cho quá trình này, nếu tất cả đều muốn có vị trí của mình trong tương lai?

Muốn thay đổi, cải tổ hay cách mạng, để khỏi phải trả những giá rất đắt (như ở Ai Cập hay Libya) thì ít ra phải để cho một xã hội dân sự tồn tại (như ở Myanmar, mặc dầu bị kìm kẹp và khống chế).

Hiện nay ở Việt Nam chỉ có một Đảng Cộng Sản và những phe nhóm (lợi ích hay đối thủ) trong đó.
Các lực lượng chính trị-xã hội bên ngoài chưa có, hay chưa có thể hoạt động cùng với nhau và cọ sát với nhau để có thể dẫn đến hoà giải, hoà hợp.

Để chuẩn bị cho quá trình thay đổi thì ngay bây giờ phải bắt đầu nuôi dưỡng một xã hội dân sự, qua đó các thành phần trong xã hội có thời gian và điều kiện tranh đấu và bảo vệ quyền lợi của họ vì lợi ích chung của dân tộc và đất nước.

Nếu những người có quyền và tiền vẫn muốn giữ vị trí của mình trong tương lai thì đất nước và dân tộc sẽ không có tương lai.

Quốc Phương