Hiển thị các bài đăng có nhãn Lào Cai. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lào Cai. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Biên giới 1979 : Những người Việt quay ngoắt quá khứ

sangtronghungdung001"…những gì mà ba nhân vật khác nhau đứng đầu đảng, nhà nước và chính phủ tuyên xưng "Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm các quyền con người" xem ra vẫn còn quá dị biệt với thực tồn ở đất nước "thơ tôi khóc, lệ rơi hình chữ S" này..."


molietsibiencuong10
Mộ của binh sĩ Việt Nam hy sinh trong cuộc chiến
biên giới 1979 tại nghĩa trang quân đội bên ngoài Hà Nội
36 mùa xuân đã biệt trôi kể từ ngày nửa triệu lính Trung Quốc tràn vào biên giới Bắc Việt Nam, hãm hiếp đàn bà con gái, dùng lưỡi lê đâm chết họ và còn ăn sống tử thi, giới cầm quyền Hà Nội vẫn giấu mặt trong nỗi sợ hãi không thốt nổi tên.
Mùa xuân năm nay, ngày 17/2 cũng bặt tăm dù chỉ là những dòng lưu bút chiến tranh chống Tàu trên báo đảng. Một ít tờ báo nhà nước dù tận tâm và can đảm hơn nhiều nhưng vẫn bị vòng đai tuyên giáo lấp ló trong hậu trường sân khấu siết bức đến mức tối đa.
Chặn từ ngoài vào trong
Hai ngày trước khi diễn ra cuộc dâng hoa tưởng niệm liệt sĩ và người dân hy sinh năm 1979 do các anh chị Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng tổ chức ở tượng đài Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, tôi phải nhận giấy triệu tập lần 1 của Cơ quan an ninh điều tra (PA24), Công an Thành phố Hồ  Hồ Chí Minh về "trình bày nội dung liên quan vụ án".
Nhân viên công an khu vực, khi nghe tôi hỏi về "vụ án" nào, đã thốt lên "Không biết !".
Một thông tư của Bộ Công an quy định cơ quan điều tra chỉ được triệu tập những người liên quan với lý do xác định như một vụ án cụ thể nào đó. So với nhiều lần triệu tập tôi trước đây để "hỏi về những bài viết trên Internet", lần này có vẻ PA24 làm đúng luật hơn, ít nhất trên phương diện lý cớ.
Tuy vậy, cũng như tình trạng điều 258 và 88 thường xuyên bị coi là lạm dụng, chẳng có lý cớ nào khỏa lấp được khái niệm mơ hồ của từ ngữ "vụ án", đặc biệt khi cơ quan công an luôn muốn dùng những từ ngữ như vậy để ngăn chặn quyền đi lại, tụ tập, hội họp và biểu tình đã được hiến định của công dân.
Thậm chí tôi còn phải nhắc người công an chuyển giấy triệu tập : "Anh về nói với họ nhớ ghi nhân xưng của người bị triệu tập chứ đừng viết trỏng tên ‘Phạm Chí Dũng’ như thế. Dù gì cũng nên có văn hóa tối thiểu chứ".
Sau khi tôi từ chối giấy triệu tập lần 1, sáng ngày hôm sau PA24 lại gửi giấy triệu tập lần 2 cho tôi để "làm việc" vào ngày 17/2. Nội dung có khác và cụ thể hơn : "Hỏi về ông Nguyễn Quang Lập".
Lẽ dĩ nhiên, tôi có thể bày tỏ chính kiến về không chỉ về Nguyễn Quang Lập hay Hồng Lê Thọ - hai blogger vừa nhận chế độ "tại ngoại điều tra" - mà cả với hàng chục hoặc vài mươi nhà hoạt động xã hội và dân chủ như thế. Chỉ cần nhà nước và ngành công an Việt Nam có đôi chút dũng khí đối thoại và trên tất cả là có được thành tâm tối thiểu khi đối diện với công dân.
Nhưng vào thời điểm này, điều được gọi là "bản lĩnh" như thế vẫn chỉ là ảo giác. Vào đúng sáng 17/2, tôi đã không thể đến được tượng đài Trần Hưng Đạo để dâng hoa tưởng niệm đồng bào Việt bị giết hại man rợ của mình.
Nhưng ở một góc biến thái khác, lại có những người Việt lẩn khuất quay ngoắt với quá khứ đau xót - cái dĩ vãng mà nhờ có nó mới giữ ghế yên ấm cho giới "đày tớ" ngày hôm nay. Những trọng trách như Trung tướng Nguyễn Chí Thành - Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh, người vừa được bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng Tổng cục an ninh và đang có triển vọng được nâng lên hàm thứ trưởng Bộ Công an, hay Bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Lê Thanh Hải, người được nghe nói đang là một trong những ứng cử viên cho cái ghế chủ tịch nước tại đại hội đảng cầm quyền lần thứ 12…, làm sao "không thấy, không nghe, không biết" về hàng loạt vụ việc lực lượng an ninh của "thành phố mang tên Bác" ngăn chặn thô bạo và còn đánh đập cả những người dân chỉ muốn tưởng niệm quá khứ để không bị xem là kẻ mất gốc ?
Lại một cái tết nữa, tôi bị ngăn chặn. Mùng 2 tết năm ngoái, tôi đã bị Công an Thành phố Hồ Chí Minh ngang ngược tịch thu hộ chiếu tại phi trường Tân Sơn Nhất, khi tôi chuẩn bị đi Thụy Sỹ để tham dự một cuộc hội thảo về nhân quyền do chính Liên hiệp quốc tổ chức.
Hãy thử tưởng tượng
Thời gian thoáng chốc thoi đưa. Việt Nam đã "hội nhập" vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc được hơn một năm. Song những gì mà ba nhân vật khác nhau đứng đầu đảng, nhà nước và chính phủ tuyên xưng "Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm các quyền con người" xem ra vẫn còn quá dị biệt với thực tồn ở đất nước "thơ tôi khóc, lệ rơi hình chữ S" này.
Với những "thành tích nhân quyền" vừa giấu mặt vừa thách thức như thế, làm thế nào để Tổng bí thư, và có thể cả Thủ tướng của đất nước chữ S, có thể viếng thăm Hoa Kỳ vào năm 2015 mà không đọng lại một chút tủi hổ và tủi phận?
Và hãy thử tưởng tượng, nếu đến một ngày không xa, có những quan chức Việt Nam cả cao cấp lẫn trung cấp bị Washington chế tài thẳng tay - như đã và đang đối với Điện Kremlin - bằng biện pháp không cho "di trú" sang Hoa Kỳ và kể cả phong tỏa tài sản của họ và thân nhân họ ở rất nhiều ngân hàng quốc tế, những quan chức người Việt ấy có đủ cám cảnh đến mức lên ruột về cái dĩ vãng "bảo vệ nhân quyền" của họ ?
Phạm Chí Dũng
Theo VOA

Phạm Chí Dũng

Thứ Ba, 17 tháng 2, 2015

Gửi bạn bè đồng nghiệp và các thế hệ sinh viên của tôi.

Tôi muốn gửi những hình ảnh này tới bạn bè đồng nghiệp và các thế hệ sinh viên của tôi.

Một trang sách trong giáo trình Văn học do một trường ĐH lớn của TQ biên soạn, trong đó nhắc tới cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Họ đã dạy sinh viên của họ rằng quân xâm lược Việt Nam đem chiến tranh đến biên giới phía Nam của TQ.




Cuộc chiến tranh biên giới nổ ra ngày 17 tháng 2 năm 1979 do Trung Quốc phát động, tấn công đồng loạt vào toàn bộ đường biên giới phía Bắc của Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc. Cuộc chiến này mang lại quá nhiều thiệt hại, đau thương, chết chóc, cho cả hai phía. Đó là cuộc chiến phi Nhân, phi Nghĩa của Trung Quốc.
Sau cuộc chiến, chính nhà cầm quyền Bắc Kinh cũng không dám nói lên sự thực về mục đích của cuộc chiến nướng quân này. Cũng vì cuộc chiến này, Việt Nam và Trung Quốc đã cắt đứt quan hệ ngoại giao. Cho đến năm 1991 mới nối lại. Và một trong những thỏa thuận giữa lãnh đạo hai nước là "gác lại quá khứ", cả hai bên sẽ tránh nhắc lại cuộc chiến này.
Nhưng trên thực tế, chính quyền Trung Quốc chưa bao giờ ngừng tuyên truyền dối trá cho người dân của họ về cuộc chiến phi nghĩa mà họ đã đánh sang Việt Nam. Phía Trung Quốc luôn nói rằng "Việt Nam xâm lược Trung Quốc, Trung Quốc chỉ đáp trả và dạy cho Việt Nam một bài học." Trong một cuốn giáo trình Văn học của một trường đại học nổi tiếng tại Trung Quốc xuất bản năm 1996 cũng có những dòng chữ này:"...quân xâm lược Việt Nam đem chiến tranh đến biên giới phía Nam..." Chính đồng nghiệp của tôi đi du học tại Bắc Kinh cũng có lần lên lớp cho tôi rằng "Việt Nam vong ơn bội nghĩa với Trung Quốc nên mới bị Trung Quốc dạy cho một bài học". Trong khi đó một vị giáo sư có uy tín tại Trung Quốc mới cho tôi biết rằng một trong những nguyên nhân khiến cho Đặng Tiểu Bình phát động cuộc chiến với Việt Nam năm 1979 là do nội bộ trung ương của Trung Quốc khi đó đang lục đục, họ hướng dư luận ra ngoài bằng phát động chiến tranh với Việt Nam, nhân cơ hội đó chỉnh đốn và củng cố phe nhóm.
36 năm kể từ cuộc chiến biên giới, 24 năm kể từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, người Việt Nam vẫn bị những kẻ lãnh đạo hèn nhát bưng bít sự thật, làm quên đi sự hy sinh của hơn 6 vạn đồng bào và chiến sĩ trong cuộc chiến bảo vệ Tổ Quốc. Trong khi đó kẻ thù xâm lược vẫn tiếp tục dối trá, lừa lọc, vẫn tiếp tục từng ngày âm mưu thôn tính nước ta.

Hỡi những anh linh các vị tiền nhân, các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh để bảo vệ Tổ Quốc, hãy tiếp sức mạnh cho những thế hệ người Việt Nam hôm nay biết thức tỉnh đứng lên cứu nước. Tổ Quốc là trên hết. Nhân dân Việt Nam phải biết yêu và bảo vệ dân tộc Việt Nam.




Dao Thu facebook

HÀNH VI MAN RỢ CỦA QUÂN ĐỘI TRUNG CỘNG ĐỐI VỚI CÁC NỮ TÙ BINH VIỆT NAM...

Hãy chắc chắn là quý vị đủ sức chịu đựng để đọc bài viết này, vì những hình ảnh tài liệu trong bài này vô cùng tàn khốc. Nhưng đây là dẫn chứng duy nhất để tố cáo những hành vi man rợ của quân đội Trung Quốc đối với các nữ tù binh Việt Nam trong cuộc chiến biên giới Việt Trung kéo dài từ năm 1979 cho đến năm 1989. Đảng CSVN đã giấu nhẹm tất cả mọi tin tức liên quan đến cuộc chiến này. Tác giả Huỳnh Tâm viết bài cho biết ông viết thay cho những nén hương gởi đến vong hồn những nữ tù bình Việt Nam đã hy sinh và chết một cách ô nhục cho Tổ Quốc Việt Nam mà không được một ai ghi nhớ. Lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có cảnh tượng thảm thương như thế này.

"…Nhân dân Việt Nam hầu như không biết gì về chiến tranh biên giới 1979 và trận chiến khốc liệt nhất 1984-1989. Họ đang tìm cách xóa nhòa những ký ức về những cuộc chiến này. Đảng CS Việt Nam ngày nay đã hiện nguyên hình một tên đại bịp, dối trá đứng trên lịch sử, phá tan hoang dân tộc Việt Nam…”


Tội ác chiến tranh, lửa bốc khói ô nhục


Đêm 4/12/1987, pháo binh Việt Nam tăng cường lửa cối pháo trong vòng 43 phút, rót xuống đầu binh lính Trung Quốc. Toàn vùng biên giới Lão Sơn tràn ngập một màu lửa đỏ cháy ngùn ngụt, khốc liệt. Cùng vào thời điểm này, pháo binh Việt Nam bất ngờ đánh trúng vào kho đạn của núi 277, thuộc Sư đoàn 199 Trung Quốc, kéo theo hàng loạt đạn pháo liên tục nổ ầm ì, trên mức độ bình thường; đạn cày tung toé đất đá, bụi, khói lửa bay mịt mù. Đứng giữa chiến trường ngơ ngác trước cảnh điêu tàn chưa bao giờ thấy, binh lính Trung Quốc chui rúc xuống giao thông hào sâu trong lòng đất, chỉ để lại trên mặt đất những tên lính thủ chiến. Bọn họ đã trở thành một loài côn trùng lớn bé lúc nhúc đi tìm chỗ dung thân, nhưng tất cả hầu như bị hủy diệt vì lửa đạn.

Đạn pháo rung chuyển mạnh, từng phút một, đã đánh thức cả vùng biên giới núi Lão Sơn. Quân đội Trung Quốc từ lâu vẫn xay mê với chiến thuật biển người. Lần này chiến binh Việt Nam dùng pháo binh mạnh, đàn áp chiến lũy Trung Quốc và cho họ một bài học chiến sự. Quả nhiên những tên bành trướng Trung Quốc đã tỉnh ngộ không còn xem thường hỏa lực tác chiến của chiến binh Việt Nam.

Hiện thời Sư đoàn 199 và 67 vẫn ra sức cố thủ để còn đất dung thân, tất yếu phải thay đổi chiến thuật, không tin tưởng nhiều vào mật danh do những tình báo Hoa Nam cung cấp và những tên phản dân tộc Việt Nam đang bị bộ máy chiến tranh Trung Quốc nghi ngờ. Có thể uy tín của họ đang xuống thấp, bởi trận mưa cối pháo vừa rồi, do pháo binh Việt Nam tự phát, cho nên tình báo Hoa Nam không có sự kiện để đưa vào kế hoạch chiến trường Lão Sơn.
Cùng ngày, quân đội Việt Nam ngừng bắn pháo trước một giờ, tạo cơ hội thuận lợi cho những đơn vị quân đội Trung Quốc di chuyển đến vị trí phòng thủ mới, và bệnh xá Tập đoàn 25 đồng di chuyển thương binh đến vị trí an toàn. Những quân đoàn Trung Quốc, hối hả tổ chức lại kế hoạch phòng ngự, lệnh tiến hành cố thủ 45 đỉnh núi thuộc vùng núi Lão Sơn, bảo đảm kiên cố chiến lược, mặt khác kết nối toàn vùng, bao vây quân địch (Viêt Nam), cho đến chiến thắng cuối cùng.

Trong cảnh hỗn mang rối loạn hàng ngũ tại bệnh xá Tập đoàn 25, những thi thể của những nữ tù binh Việt Nam bất ngờ bị phơi bày. Trên lý thuyết, những nữ tù binh đến đây điều trị thương tích nhưng không may cho họ vào thời điểm này, họ lâm vào cảnh ngộ vô cùng bi đát và thảm khốc. Nữ tù binh Việt Nam không chết vì súng đạn, mà chết vì bị hãm hiếp. Những xác chết này nằm lăn lóc, thân thể trần trụi, chết trong căm hờn tủi nhục, đôi môi mím chặt đau đớn, phá tan tất cả thân xác của phụ nữ Việt Nam. Không ai có thể ngờ ở chốn chiến trường lại có cảnh tượng thô bạo như vậy, khó ai tin được người lính Trung Quốc dã man đến thế!



Sự thật trần trụi kinh hoàng

Một số Hải Âu, và NF3.86 đồng chứng kiến bi kịch khiếp đảm, rùng rợn cả người, cho đến mấy mươi năm sau hình ảnh thi thể của những nữ tù binh Việt Nam vẫn còn ám ảnh tâm trí họ. Họ không thể nào quên:

‒ Ngày 4/12/1987, D514, thuộc F199, có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ bệnh xá Tập đoàn 25 Trung Quốc. Theo kế hoạch của bộ chỉ huy chiến trường. Di chuyển toàn bộ thương binh Trung Quốc ra khỏi vùng nóng, còn thương binh Việt Nam sẽ được di chuyển cuối cùng. Thực tế trong cuộc tháo chạy, họ đối xử phân biệt thương binh, đưa đến tình trạng mất kiểm soát căn cứ. Trong cơn binh biến hỗn tạp, binh lính D514 nổi cơn thèm khác dục tính, thi nhau hãm hiếp nữ tù binh cho đến chết và sau đó thủ tiêu thi thể. Họ đã chết trong đau đớn và tủi nhục mà không một ai biết đến, thương tổn lớn cho nữ tù binh Việt Nam. Khủng khiếp hơn nữa, nữ tù binh Việt Nam đã bị bọn giặc dã man Trung Quốc cắt lấy bộ ngực, bộ ngũ tạng và đôi bắp đùi chân tay để ăn thịt.



Bi kịch dã man này đã diễn ra từ lúc Đặng Tiểu Bình mở cuộc chiến xâm lấn Viết Nam vào ngày 17/2/1979 và kéo dài cho đến cho năm 1989. Không biết đã có bao nhiêu nữ tù binh Việt Nam rơi vào hoàn cảnh bị hãm hiếp và mất tích. Điều này hai đảng CS Việt Nam và Trung Quốc đã bí mật ém nhẹm, không hề một có tư liệu hay hồi ký nào xuất hiện ghi lại cuộc tàn sát những nữ thương binh này tại biên giới Lão Sơn, Lào Cai, Việt Nam. Người ta chỉ được biết qua truyền khẩu.

Những hình ảnh do chính quân đội Trung Quốc chụp lại cho thấy họ ung dung hành động theo bản năng thú tính tàn ác. Hình ảnh những nữ tù binh Việt Nam đã bị hãm hiếp tập thể cho đến kiệt sức, thân thể trần trụi, cho thấy sự ô nhục thảm khốc, xúc phạm đến nhân phẩm của người nữ tù binh Việt Nam. Những người lính Trung Quốc tàn nhẫn quá đáng, sau khi thỏa mãn dục vọng, họ cắt luôn những bộ phận nhạy cảm nhất trên người phụ nữ, khi chết thân thể nữ tù binh Việt Nam không còn nguyên vẹn.

Không có nỗi nhục nào hơn nỗi nhục trên đất Việt quê hương của mình, chính mình bị làm tù binh chiến tranh dưới tay quân đội Trung Quốc. Họ xem nữ tù binh Việt Nam như một món vật mua vui sinh lý. Những ca hãm hiếp, chôn vùi thi thể nữ tù binh không chỉ xảy ra một lần. Những cấp chỉ huy Trung Quốc vờ không biết, và ém nhẹm nội vụ nữ tù binh Việt Nam bị chôn vùi dưới lòng đất lạnh, mộ phần vĩnh viễn vô danh. Hãi hùng hơn nữa, đảng CS Việt Nam không hề lên tiếng và bày tỏ tri ân và thương tiếc người lính xấu số đã hy sinh mạng sống trên chiến trường! Quả thật vô cùng bất hạnh khi con người sinh rồi mất tích không ai biết xác chôn nơi nào để người thân cầu siêu.

Trên chiến trường, cả hai bên Việt Nam-Trung Quốc đều có tù binh. Phía Việt Nam luôn luôn ưu đãi các tù binh chiến tranh Trung Quốc. Trái lại tù binh Việt Nam, nhất là nữ tù binh, đã bị Trung Quốc đối xử tàn nhẫn, xem đây một thứ rác phế thải không tái chế. Trung Quốc chưa bao giờ tôn trọng theo lời cam kết "không hành động tàn bạo hay gây sốc đối với tù binh nữ giới". Những ai có đến hiện trường tìm hiểu và chứng thực quân đội Trung Quốc vô nhân đạo, đối xử với nữ tù binh rất tàn ác. Cộng sản Trung Quốc dàn cảnh chụp hình những nữ tu bình Việt Nam ở trong trại giam được đối xử tử tế, nhưng người biết chuyện thấy rõ đây chỉ là trò trình diễn nhân đạo có tính toán chính trị.

Trên hành trình di chuyển đến điểm núi 255, trong tôi có lắm suy nghĩ cuồng kháng, muốn hét lên một tiếng thật lớn để phá tan những uất hận cho những oan hồn của những nữ tù binh bị hãm hiếp đến chết. Tiếng kêu uất nghẹn, không thành lời. Tôi vẫn chưa hình dung được một phóng sự nào nói về nữ tù binh Việt Nam, mà tôi đã gặp trên đường đi. Hình ảnh những tử thi của nữ tù binh vẫn còn dán cứng vào mắt, trong tim, càng suy nghĩ nhiều càng rối rắm không đầu đuôi sự kiện, cứ thế theo bước chân hối hả. Đi không được bao lâu lại thấy trước giao thông hào một thi thể trần trụi, nằm dài trên mặt đất, không có một thứ gì trên người, xem ra những thi thể vô danh tiếp tục xuất hiện.

Hải Âu DF-1, F67, tò mò, muốn biết vì sao có thi thể người phụ nữa ở giữa núi rùng đang có chiến tranh, khi dỡ tấm nilon ra, thấy một phần cây tròn đâm sâu vào trong cửa mình người phụ nữ, máu chảy ra nhiều đã đông đặc tự bao giờ, mồm còn hả to, có lẽ van xin sự sống, hai cánh tay sải rộng cho thấy đau đớn tận cùng vào lúc chết buông xuôi, xác đã lạnh, với những vết bầm tím vắt ngang dọc cả thân người, nơi bắp đùi có vết thương, những thanh nẹp băng bó vải thưa, gấp chữ V còn mới.

Hải Âu DF-1, F67 khẳng định:

– Chính thi thể nữ tù binh Việt Nam đang điều trị tại bệnh xá của Tập đoàn 25.

Riêng tôi đoan quyết:

– Nữ tù binh này người Việt Nam, vì trên nét mặt rất Việt.

Tôi điềm tĩnh lại, muốn làm một cử chỉ nhỏ, rồi tự hỏi:

– Có nên thực hiện một việc nhẹ mà lại vô cùng nặng "tình lý" không, và cũng có nhẽ hổ thẹn với đời chăng?

Tôi lấy quyết định vì đồng tộc Việt, tự khom lưng xuống, đôi tay rút thanh cây gỗ tròn từ trong cửa mình người phụ nữ, máu ứ động trong người phun ra thành vòi đã ngã màu đỏ bầm. Mọi người trố mắt nhì nhau, ngạc nhiên thấy thanh cây gỗ tròn, bán kính 0,5 mm, đầu hơi nhọn, dài 2 m, đâm sâu vào người gần 4 mm, cả người tôi toát mồ hôi lạnh.

Nhân tiện có sẻng cá nhân, chung nhau đào huyệt, 15 phút sau hoàn tất, bắt tay vào tẩm liệm, tiễn người nữ tù binh xấu số xuống lòng đất quê hương. Trên phần mộ có cắm sâu cột gỗ 1,5 mét. [1]

Hải Âu DF-1, D350, cho biết:

– Trước đây vài giờ nhận được tin, bệnh xá Tập đoàn 25, chuyển thương binh đến nơi an toàn, không ngờ lại có sự kiện nữ tù binh Việt Nam bị hãm hiếp đến thế này!

Tại sao Đảng CSVN lại che giấu những tội ác của Trung Cộng?

Tại mặt trận biên giới Tây Bắc Việt Nam từ 1979-1987, đảng CS Việt Nam biết rõ những sự kiện này, nhưng đã im lặng, giấu nhẹm không hề công bố về số phận của những nữ tù binh bị hãm hiếp, quằn quại trên chiến trường, đối mặt với những tên lính vô cảm của Trung Quốc.
Ngoài ra, quân đội Trung Quốc đã từng vấy máu tanh, tấn công bệnh xá của Việt Nam, cướp đi những nữ thương binh và cả nữ y tá, chỉ để làm một việc bất nhân hãm hiếp, rồi sau đó thủ tiêu. Quân đội Trung Quốc không thua gì thảo khấu, cực kỳ tàn nhẫn.

Chúng tôi tiếp tục lên đường, từ xa, ở phía trước lưng núi 221, đã có tiếng cầu cứu quen thuộc "Cứu tôi, cứu tôi", bằng ngôn ngữ Việt, dù biết kêu vô vọng bởi không còn ngôn ngữ nào khác, âm ngữ của mẹ Việt bao dung, làm động cơ thôi thúc thành lời, đang vang động trời đất bao la. Tiếng kêu vào không trung tuyệt vọng, hay tiếng kêu cứu trong hy vọng mong manh.

Phát hiện trong tiếng "Cứu tôi, cứu tôi" có âm lượng thân thương, từ xa đã rót vào tai, phản ứng tự nhiên tay làm hiệu nhờ những Hải Âu tiến đến điểm có tiếng âm thanh người Việt Nam.
Không sai người nữ chiến binh rơi vào tay lực lượng quỉ râu xanh Trung Quốc, lúc chạm mặt, bọn chúng cả thảy nửa Tiểu đội lật bật mặc quần, và chạy xuống núi, chỉ còn lại một tên Hán vẫn lõa lồ chưa kịp mặt quần, đang gọi điện báo, riêng nữ tù binh Việt Nam thân thể xòa dài dưới đất, thân lết bết khó nhọc, tay túm lấy chiếc váy để che hạ thể, do bệnh xá cấp, ể oải ngồi dậy với tư thế sợ hãi.

Tôi hỏi bằng ngôn ngữ mẹ đẻ thân yêu:

– Em, thể nào, cho anh biết, vì cớ nào lại có mặt ở đây?

Trên khuôn mặt của cô ta, có cả hai nét mặt, vừa mừng, vừa sợ, cô nói:

– Em muốn biết quý anh là ai?

– Em đừng sợ, ở đây không tiện tỏ hết lời. Em tự nhiên theo các anh thì may ra sống.

Tôi ra hiệu, nhờ Hải Âu trừng trị tên Hán, không ngờ Hải Âu rút súng ra chuẩn bị bắn, tôi ngăn cản lại kéo Hải Âu ra xa nói nhỏ:

– Anh phải lấy thẻ số quân, tên tuổi, đơn vị, rồi tặng cho y vài cú đạp mạnh, sau đó cài một quả lựu đạn cho nổ máy điện đàm, tiếp theo bắng dưới chân để y chạy thoát, cho y sống sau này sẽ làm nhân chứng tội ác chiến tranh, những tên khả ố này phải treo tội ác lơ lửng trên đầu, không thể tha thức để chúng nó ung dung sống trong trạng thái bình an ngoài vòng pháp luật. Hải Âu có đồng ý phương thức giải quyết này không?

– Vâng, thưa anh, thượng sách, tôi thực hiện theo ý của anh.

Giải quyết nhanh tay, tên Hán chạy mất dạng, chúng tôi lên đường, nói:

– Mời cô em, cùng đi với chúng tôi.

– Thưa, em không thể đi được vì bên hông trái trúng thương nặng, và bị 6 thằng lính Trung Quốc hãm hiếp hơn 3 giờ liền, em không còn sức để đứng lên, các anh cứ đi, em chết ở đây cũng toại nguyện lắm rồi, và tạc dạ nhớ ơn của quý anh cứu sống, em xin cúi đầu bái tạ ân nhân cứu mạnh, đa tạ quý anh.

Cô ấy vái lạy như tế sao, như người lên "đồng cô" tại Điện Hòn Chén, đối diện lăng Vua Minh Mang, Huế. Vội vã đỡ cô ấy, nói:

– Chúng tôi xin cô đừng xá nữa.

Cùng lúc tôi nhờ những Hải Âu thi nhau cõng cô ấy, với sức nặng 50 ký ngoài, không là bao, tuy nhiên đi đường xa có vấn đề, trên đường đi nhân tiện hỏi về thân thế và sự nghiệp của cô ấy:

– Em có thể cho biết quý danh để tiện mồm được không?

– Dạ, em tên Trần Thị M…..thuộc đơn vị E81, F365, QK2. Quân hàm Thiếu úy, bị thương đêm 28/11/1987, sáng 29/11/1987, em bị lính Trung Quốc bắt làm tù binh. Quê quán thị xã Lào Cai, địa chỉ số: 74, đường..........

Đã đi được 1 giờ đường, tôi nhờ Hải Âu DF-1, F138 tiếp sức cõng cô M.....1 giờ nữa đến căn cứ 255 của Sư đoàn 138 thuộc Quân đoàn 46 Trung Quốc. Thấy cô M.....ngủ say, vô tư trên lưng của Hải Âu, có dáng mệt mỏi. Tôi đề nghị Hải Âu:

– Nhờ anh Hải Âu DF-1, F138 đưa cô này đến bệnh xá Quân đoàn 46 để điều trị, khai báo theo thủ tục tù binh, tùy anh ứng biến.

– Vâng, tôi hiểu phải làm thủ tục như thế nào rồi.

– Cũng nhờ anh thường xuyên đến bệnh xá thăm cô ấy, sau đó anh liên lạc với bệnh xá hỏi họ sẽ đưa cô này đến trại tù binh nào, nhớ anh cho tôi biết địa chỉ để đến thăm cô ấy nhé.

– Vâng, đúng thế phải làm thủ tục nhập trại tù binh, theo qui chế chiến tranh.

Cô M....vừa tĩnh dậy hỏi:

– Thưa, quý anh đã đến nơi chưa?

– Chỉ còn 5 phút nữa là chúng ta chia tay, anh Hải Âu DF-1, F138 đưa cô đến bệnh xá Quân đoàn 46, còn chúng tôi tiếp tục hành trình, sau khi cô ổn định thủ thục tù binh, tôi đến trại thăm cô và những anh em tù binh đồng hương.

Đến đây chúng tôi và cô M..... tạm biệt đi hai hướng, cô M....hỏi:

– Thế thì anh tên gì để báo ân?

– Không tiện sẽ có ngày gặp lại, chào tạm biệt cô M.....

Trên đường đi tôi suy nghĩ nhiều về thân phận làm người phụ nữ Việt Nam quá gian nan, phải tiếp nhận những ngỡ ngàn trong chiến tranh phức tạp. Nhờ tiếp cận mới nhận diện bộ mặt thật của đảng CS Việt Nam và Trung Quốc, nay đã hiện rõ về họ. Chính họ am tường những tội phạm chiến tranh, biết những trường hợp hãm hiếp nữ tù binh, thế nhưng vẫn làm ngơ không can thiệp, trái lại còn khuyết khích đối xử tồi bại hơn, xâm phạm tiết hạnh của nữ tù binh, hai đảng CS không hề có cảm giác xấu hổ đối với hai dân tộc, cho đến nay hồ sơ hãm hiếp tù binh vẫn bí mật khép kín.

Rõ ràng đảng CS Việt Nam đã đồng lõa trong nội vụ này, và không lên tiếng phản kháng Trung Quốc về sự kiện nữ tù binh Việt Nam bị hãm hiếp. Đảng CS Việt Nam đã để lộ "lề thói" chư hầu, coi như đã hết thuốc chữa trị. Họ sống ung dung, vô trách nhiệm trước dân tộc Việt Nam. Hy vọng một ngày, sự kiện về nữ tù binh Việt Nam được bạch hoá, về mọi hành vi dã man, kinh tởm sẽ có lúc hiển thị, thay lương tâm nhân loại, công bố cáo bạch.

Người nữ tù binh Việt Nam còn phải chịu đựng quá nhiều nghịch cảnh bi thương khác, như trường hợp nữ tù binh bị hãm hiếp mang thai, giam hãm nơi bệnh xá bí mật, họ bị đem ra trừng phạt bằng phẫu thuật cắt bỏ tứ chi, chôn sống và ức bách. Có những trường hợp bị tiêm thuốc tuyệt tiêu khả năng sinh đẻ! Tại chiến trường Lão Sơn, CS Trung Quốc đã có sẵn kế hoạch bẩn thỉu vừa hãm hiếp tập thể vừa trừng phạt. Có một số nữ tù binh Việt Nam sống không bằng chết, đành quyên sinh để đổi lấy trinh tiết. 

Cảnh tượng hãm hiếp không đơn lẻ nhưng được thi hành rộng rãi tại chiến trường Lão Sơn. Trong cuộc chiến biên giới Việt –Trung, cả hai đảng đều có cùng một mẫu số hèn hạ, tạo ra quá nhiều bạo lực, và phủ nhận hành vi tội ác trước hai dân tộc Việt-Hán.

Vẫn chưa hết, nữ từ binh Việt Nam gặp phải trăm ngàn hung thủ gian ác Hán bao quanh, chúng muốn sự thống khổ của người phụ nữ Việt Nam kéo dài lê thê suốt cuộc đời bằng những sĩ nhục về tinh thần lẫn thể xác. CS Trung Quốc không những làm ngơ mà lại khuyến khích cho phép binh sĩ chà đạp thân thể của người phụ nữ Việt Nam. Họ Đặng là thủ phạm nhưng không ai có thể quy trách nhiệm lên nhà tổ chức chiến tranh họ Đặng này. Đúng là một bè lũ ký sinh hoại loạn. Họ dùng 107 nữ tù binh Việt Nam làm trò giải trí vài lần hãm hiếp tập thể để phục vụ chiến trường.
Nhân dân Việt Nam hầu như không biết gì về chiến tranh biên giới 1979 và trận chiến khốc liệt nhất 1984-1989. Đảng CS Việt Nam thành công tước đoạt quốc gia Việt Nam. Việc nước đại sự biến thành của riêng họ không một người dân nào được đụng vào! Họ đang tìm cách xóa nhòa những ký ức về những cuộc chiến này. CS Việt Nam ngày nay đã hiện nguyên hình một tên đại bịp, dối trá đứng trên lịch sử, phá tan hoang dân tộc Việt Nam.

Từ ngày 17 tháng 2 năm 1979 cho đến nay đã trải qua 34 năm, đảng CS Việt Nam vẫn bí mật ém nhẹm không công bố thống kê, tổn thất chiến tranh, tài sản nhân dân, tài sản quốc gia, biên giới lãnh thổ mất bao nhiêu cây số, quân số tham chiến, tử vong, thương binh, tù binh nam nữ được trao trả, mất tích, địch đối xử thế nào với tù binh Việt Nam. Sau cuộc chiến đảng CS Việt Nam chưa hề có ưu đãi xứng đáng nào đối với thương binh, gia đình tử sĩ, v.v...

Đảng CS Việt Nam có thể bóp méo suy nghĩ người dân Việt Nam được một ngày, chứ không thể thay đối vĩnh viễn, bởi những hành động dối trá và lừa bịp không thể tồn tại lâu dài. Nếu lịch sử là một chuỗi dài những kịch bản trên sân khấu, đảng CS Việt Nam chỉ là một kịch bản tồi dở, màn hạ xuống là hết. Nhân dân Việt Nam không phải là con rối để mọi khuynh hướng chính trị đùa cợt.

Nước Việt Nam tồn tại cho đến ngày nay là nhờ ở một hằng số bất biến: chống xâm lược phương Bắc. Dân tộc Việt Nam có phương thức dựng nước bẳng "tình nghĩa đồng bào" sẽ đối phó quyết liệt như lịch sử dân tộc Việt Nam đã từng bao lần thể hiện. Gần đây Trung Quốc đã xua quân mở những cuộc chiến tranh cướp biên giới đất liền và biển đảo của Việt Nam vào những năm 1956, 1972, 1974, 1979, 1984 và 1989, đó là chiến tranh bi thảm đến từ phương Bắc, khơi lại lên vết thương lịch sử dân tộc Việt Nam khó thể quên được.

Dân tộc Việt Nam không thể quên những lời truyền dạy năm 1978 của Đặng Tiểu Bình: "Ta muốn chiến thắng Việt Nam hãy thực hiện giết sạch, đốt sạch, hãm hiếp sạch. v.v..." 

Lời tuyên bố phi nhân của họ Đặng, chống nhân loại, chỉ thị cho quân đội Trung Quốc nổi sóng gió máu tanh, hằng ngàn người Việt vô tội, dân lành bị hành hạ tại các tỉnh biên giới, như thị trấn Đồng Chúc, Hưng Đạo, Thanh Thủy, Vị Xuyên.



Những tỉnh Cao Bằng, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, người chết trôi sông, thi thể mất đầu, và thê thảm hơn nữa thân thể phụ nữ loã lồ, cây thọc vào cửa mình, trẻ em vô tội xác lìa hai nơi, chưa kể về những cảnh chết của người du kích địa phương v.v…

Trung Quốc khuyến mại hận thù trên tầm quyết sách. Khi có điều kiện, binh lính Hán triều không cần suy nghỉ, sẵn sàng vấy máu trên mười đầu ngón tay. Tính khoan dung, hiền hòa nhường cho chỗ thú tính man rợ, tàn ác. CS Trung Quốc chưa bao giờ biết tôn trọng nhân phẩm con người, chỉ biết giết, giết và CS Việt Nam, đệ tử thân tín của đàn anh phương Bắc cũng dùng quỉ-thuật giết người đôi khi còn tàn bạo hơn cả CS Trung Quốc.

Giết người cũng cần có đồng minh, cho nên CS Việt Nam và CS Trung Quốc phải kết bè bọn, cao giọng tung hô phương châm 16 chữ vàng "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng đến tương lai", và tinh thần 4 tốt, "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt". Thực chất, Trung Quốc đã cài lưới điện vào hai cụm từ trên, đều nằm trong chiến lược đô hộ Việt Nam lâu dài.

Không, không hề có tình hữu nghị nào cả

Nhân dân Việt Nam không thể tiếp nhận người bạn xấu phương Bắc bằng ngôn ngữ anh em, cần xét lại quan hệ với Trung Quốc, và đặt các vấn đề hậu chiến tranh từ năm 1956 cho đến năm 1989, từ biên giới đất liền cho đến biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Từ khi Trung Quốc phát động chiến tranh, ngày 17 tháng 2 năm 1979 đến năm 1989, binh sĩ Trung Quốc đã hãm hiếp không biết bao nhiêu nữ tù binh Việt Nam, để lại những vết thương không tẩy xóa được trong tâm não của nữ tù binh đáng thương. Họ mang trong lòng mặc cảm tủi nhục và tuyệt vọng. Họ đã mất hết niềm tin vào tình người, cuộc đời trở nên vô nghĩa, rơi vào tình cảnh trầm cảm khôn nguôi, thân tâm luôn cảm thấy đau đớn. Họ không được bảo vệ theo đúng qui ước chiến tranh. Cả hai đảng CS Việt Nam và Trung Quốc cùng nhau thi thố xem ai tàn ác hơn ai trong cuộc chiến này, xô đẩy toàn dân đến chỗ diệt vong về tinh thần và vật chất. Họ đã vi phạm trắng trợn qui ước chiến tranh và đã xúc phạm đến nhân phẩm của người thất trận, thay vì tạo ra tâm lý bình yên. Trung Quốc đã vi phạm quy ước quốc tề về tù binh, gây tội ác chiến tranh, nhân loại sẽ không tha thứ. Lưới trời tuy thưa, nhưng khó lọt, những kẻ gây tội ác chiến tranh tại biên giới Việt Trung không thể thoát khỏi phán quyết của Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) về tội ác chống nhân loại.

Thứ Hai, 16 tháng 2, 2015

Cù Huy Hà Vũ - Bài học ‘đồng minh’ từ năm 1979


H136 năm đã trôi qua nhưng cuộc đánh trả chiến tranh xâm lược được Trung Quốc phát động vào ngày 17-2-1979 vẫn luôn hiện diện trong những người Việt Nam yêu nước, nhất là vì nó mang tính thời sự sâu sắc khi Trung Quốc không ngừng xâm phạm chủ quyền biển cũng như đe dọa dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Để giải cứu đồng minh Khme Đỏ tại Cam Pu Chia sau khi chế độ diệt chủng của lực lượng này bị quân đội Việt Nam đánh đổ vào ngày 7/1/1979, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã quyết định điều một lực lượng lớn quân đội đánh thẳng vào Việt Nam trong khuôn khổ cái gọi là “chiến tranh hạn chế” hay “dạy cho Việt Nam một bài học” nhằm buộc Việt Nam rút quân khỏi Căm Pu Chia, đúng kế sách “Vây Ngụy cứu Triệu” mà Tôn Tẫn áp dụng 2.500 năm trước.
Khi 300 nghìn quân Trung Quốc đồng loạt tràn qua hơn 1000 km biên giới, phía Việt Nam chỉ có khoảng 70 nghìn quân chủ lực, còn lại là dân quân bởi như đã rõ, đa phần quân chủ lực Việt Nam đang chiến đấu ở Campuchia.
Chính Đặng Tiểu Bình đã nói trong một bài phát biểu: “Lần đánh này vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy đánh một”. Tất nhiên với so sánh lực lượng quân sự như vậy, Trung Quốc hoàn toàn tin tưởng rằng mưu đồ của họ sẽ thành công.
Thế nhưng ngày 5-3, tức chỉ sau 17 ngày tiến hành chiến tranh, Trung Quốc đã phải tuyên bố chấm dứt cuộc chiến và rút quân khỏi Việt Nam cho dù quân đội Việt Nam vẫn hiện diện ở Căm Pu Chia.

Nguyên nhân thất bại

Phân tích thất bại của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh này, người ta thường nêu những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, quân đội Việt Nam cộng sản vừa thắng Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa nên kinh nghiệm chiến trường của họ hơn hẳn quân đội Trung Quốc vốn không tham gia cuộc chiến tranh lớn nào kể từ sau chiến tranh Triều Tiên kết thúc vào năm 1953.
Thứ hai, chiến tranh xảy ra ở vùng rừng núi nên quân đội và dân quân Việt Nam đã tận dụng được địa hình hiểm trở để đánh trả hiệu quả, gây thiệt hại lớn cho quân Trung Quốc.
Thứ ba, Việt Nam được Liên Xô với tư cách đồng minh quân sự yểm trợ.
Thực vậy, Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện được ký giữa hai nước vào ngày 3/11/1978 là một hiệp ước liên minh quân sự vì Hiệp ước có điều khoản “Trong trường hợp một trong hai bên bị tiến công, hoặc bị đe dọa tiến công thì hai bên ký hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau nhằm loại trừ mối đe dọa đó, và áp dụng những biện pháp thích đáng có hiệu lực để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước”.
Cũng cần nói thêm rằng Hiệp ước chỉ là cái kết tất yếu của việc Việt Nam “nhất biên đảo”, ngả hẳn sang Liên Xô trong tranh chấp Xô – Trung để đổi lấy sự bảo trợ cả về kinh tế và quân sự của Liên Xô chống lại sự thù địch của Trung Quốc không cam chịu chấp nhận một Việt Nam thống nhất từ 1975.
Vậy nguyên nhân nào là quan trọng nhất?
Trước hết, cho dù Việt Nam có kinh nghiệm chiến trường hơn hẳn Trung Quốc thì với số quân đông gấp bội Trung Quốc có thể dùng chiến thuật “biển người” để lấy lại thế cân bằng chiến trận.
Còn nói quân Việt Nam tận dụng được địa hình rừng núi để gây khó khăn lớn cho quân Trung Quốc thì cũng không hẳn bởi không thể nói quân Trung Quốc không có kinh nghiệm tác chiến nơi địa hình hiểm trở khi giáp giới với Việt Nam cũng là vùng rừng núi.
Bằng chứng là quân Trung Quốc cuối cùng cũng đã chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn là những mục tiêu mà Đặng Tiểu Bình ngay từ đầu đã đề ra.
Do đó, sự yểm trợ quân sự của Liên Xô đóng vai trò quyết định trong việc buộc Trung Quốc chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Vai trò của Liên Xô

Trước hết, trong gần một tháng chiến tranh Liên Xô đã cho một số phi đoàn vận tải (An-12 AN-26, MI-8…) không vận 20 nghìn quân Việt Nam cùng các trang thiết bị chiến đấu từ Campuchia trở về miền Bắc Việt Nam để tổ chức phòng thủ và phản công.
Cũng trong giai đoạn này bằng đường biển, Liên Xô đã chuyển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe thiết giáp, xe bộ binh cơ giới, 400 khẩu pháo vàsúng cối, 50 tổ hợp pháo phản lực GradBM-21, hơn 100 khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai và hàng nghìn tên lửa, 800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.
Bên cạnh đó, Liên Xô cũng đã tham chiến với việc điều 30 tàu chiến vào biển Đông để ngăn hạm đội Nam Hải của Trung Quốc tập kích Việt Nam.
Không những thế, ngày 22 tháng 2, Tùy viên quân sự Liên Xô tại Việt Nam cảnh cáo: “Liên Xô sẽ thực hiện những điều khoản đã ký kết trong Hiệp ước hữu nghị và hợp tác đã ký với Việt Nam.
Nhưng xung đột vẫn có thể giới hạn được, Liên Xô cũng không muốn có một cuộc chiến tranh”.
Như vậy Trung Quốc đã nhận được một cảnh cáo rõ ràng từ phía Liên Xô rằng nếu quân đội của họ không rút khỏi Việt Nam, họ sẽ phải đối mặt với một cuộc tấn công của Liên Xô vào lãnh thổ Trung Quốc, đúng với cái cách Trung Quốc đã tấn công Việt Nam để giải cứu đồng minh Khme Đỏ của nước này ở Cam Pu Chia đang bị quân đội Việt Nam truy diệt.
Ngay ngày hôm sau, 23 tháng 2, Đặng Tiểu Bình nhắc lại tuyên bố về “cuộc chiến tranh hạn chế” và nói sẽ rút quân trong vòng 10 ngày hoặc hơn nhằm ngăn Liên Xô tấn công vào Trung Quốc. Đến ngày 5/3 Trung Quốc chính thức tuyên bố rút quân khỏi Việt Nam.
Để gia tăng áp lực buộc Trung Quốc chấm dứt chiến tranh một cách thực sự, từ 12 đến 26 -3 – 1979, Liên Xô đã tiến hành một cuộc tập trận bắn đạn thật lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới với sự tham gia của các quân khu phía Đông áp biên giới với Trung Quốc, các đơn vị đóng tại Mông Cổ và Hạm đội Thái Bình Dương với tổng quân số lên tới hơn 200.000 quân. Kết quả là ngày 16/3/1979, Trung Quốc về cơ bản đã rút quân khỏi Việt Nam.

Liên minh quân sự

Như vậy, bài học lớn nhất cho Việt Nam từ cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979 là Việt Nam buộc phải có liên minh với cường quốc quân sự thì mới bảo vệ được lãnh thổ của mình trước xâm lược của cường quốc quân sự khác.
Bài học này càng trở nên hiển nhiên trong bối cảnh cuộc xâm lược sắp tới của Trung Quốc là nhằm vào quần đảo Trường Sa, tức diễn ra trên biển nơi mà học thuyết “chiến tranh nhân dân” của Việt Nam gắn với địa hình hoàn toàn bị vô hiệu.
Nói cách khác, Việt Nam không thể không khẩn cấp tìm cường quốc quân sự để liên minh trước khi mọi cái trở nên quá muộn. Thực ra trong kịch bản này Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác ngoài Mỹ.
Thực vậy, với chiến lược xoay trục quân sự sang châu Á mà Tổng thống Mỹ Obama đưa ra đầu năm 2012 mà tôi gọi là “Obamasia”, Mỹ là cường quốc duy nhất chủ động ngăn chặn bành trướng quân sự của Trung Quốc trong khu vực.
Việc Thượng viện Mỹ ra nghị quyết về Biển Đông theo đó Mỹ chống lại mọi hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và chủ trương tự do hàng hải là bằng chứng nặng ký nữa về quyết tâm quân sự mới của Mỹ ở thế kỷ XXI.
Thế nhưng liên minh quân sự với Mỹ sẽ không bao giờ thực hiện được chừng nào Việt Nam còn duy trì chế độ độc tài cộng sản.
Điều này có nghĩa để bảo vệ thành công quần đảo Trường Sa nói riêng, lãnh thổ quốc gia nói chung trước xâm lược và đe dọa xâm lược của Trung Quốc, chính quyền Việt Nam không còn con đường nào khác là phải dân chủ hóa chế độ chính trị mà khởi đầu là bảo đảm tự do ngôn luận và các nhân quyền cơ bản khác được ghi trong Hiến pháp song song với việc trả tự do vô điều kiện cho tất cả những người bất đồng chính kiến bị cầm tù để rồi tiến tới tổ chức bầu cử tự do với sự tham gia của nhiều đảng phái, tương tự những gì đã và đang diễn ra tại một nước Đông Nam Á khác vốn có cùng chế độ độc tài là Myanmar.
TS Cù Huy Hà Vũ

New York Times: Sự bạo tàn của Trung Quốc trong chiến tranh biên giới 1979

Tác giả: JANE PERLEZ
5-7-2014
Hà Thị Hiền đi dọc đường ray xe lửa ở Lạng Sơn, kết nối giữa Hà Nội và Bắc Kinh
Hà Thị Hiền đi dọc đường ray xe lửa ở Lạng Sơn, nơi nối liền giữa Hà Nội và Bắc Kinh
LẠNG SƠN, Việt Nam – Chị mới 14 tuổi khi hỏa lực pháo binh Trung Quốc giã liên tục lên những ngọn đồi xung quanh nhà của chị ở miền Bắc Việt Nam, và hàng trăm ngàn lính Trung Quốc tràn qua biên giới. Chị nhớ lại cảnh chạy loạn cuống cuồng cùng cha mẹ của mình xuyên qua những cây đào, mái tóc dài ngang lưng xõa bay khi họ chạy trốn những kẻ xâm lược. Thật không may, họ chạy thẳng về phía quân thù.
Mẹ chị bị bắn chết trước mặt chị; liền phút sau, cha chị đã bị thương. “Tôi kinh hoàng. Tôi không nghĩ rằng tôi sẽ sống sót. Đạn bay loạn xung quanh. Tôi có thể nghe thấy và ngửi thấy tiếng súng, “Hà Thị Hiền, bây giờ 49 tuổi, dùng tay miêu tả những viên đạn đã bay gần xung quanh đầu chị đến mức nào vào ngày đầu tiên của cuộc chiến tàn bạo ngắn ngủi.
Cuộc xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam vào năm 1979 kéo dài chưa đầy một tháng. Nhưng cuộc chiến thật hung tàn tới mức di sản của nó hôm nay vẫn thấm đẫm vào mối quan hệ chua chát hiện nay giữa hai nước Cộng Sản mà giờ đây đang đối đầu trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông.
Cả hai bên sau đó đều tuyên bố chiến thắng, mặc dù không bên nào chiếm ưu thế, và cả hai quân đội đều chịu tổn thất khủng khiếp.
Nếu một cuộc chiến nữa nổ ra bởi tranh chấp lãnh thổ quanh giàn khoan dầu của Trung Quốc ngoài khơi bờ biển của Việt Nam ở Biển Đông, thì Trung Quốc, với lực lượng hải quân ngày càng hiện đại hóa của nó, có khả năng sẽ giành chiến thắng, theo đánh giá của các chuyên gia quân sự . Vì vậy, trong một tình huống phần nào giống việc Mexico nằm sát Hoa Kỳ, Việt Nam phải thực hiện nghệ thuật sống cùng với một quốc gia quyền lực, một kỹ năng mà Việt Nam đã thực hành qua hàng ngàn năm liên tục bị xâm lược, đô hộ và hàng chục cuộc chiến tranh với Trung Quốc.
Ngôi mộ của mẹ chị Hiền, đã bị quân Trung Quốc bắn chết ngày 17-2-1979, trong khi cha chị bị thương
Ngôi mộ của mẹ chị Hiền, đã bị quân Trung Quốc bắn chết ngày 17-2-1979, trong khi cha chị bị thương
Nhưng đối đầu với một Trung Quốc, ngày nay giàu có hơn nhiều, quân đội mạnh mẽ hơn và đầy tham vọng hơn bất cứ thời điểm nào mà hai nước đã từng đối mặt nhau trong kỷ nguyên hiện đại, việc làm thế nào để chọc tức Bắc Kinh vừa đủ, khi nào cần giảm áp lực, và làm thế nào để sử dụng nhân tố Hoa Kỳ đang trở nên phức tạp hơn .
Trong tình trạng căng thẳng hiện nay, những tình cảm chống Trung Quốc của người Việt Nam dường như đã đi trước dự trù của Bộ Chính trị, hiện đang trị vì đất nước.
“Toàn dân Việt muốn được thoát khỏi tầm tay của Trung Quốc”, ông Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hiệp hội Văn học Hà Nội, một trong những người phản đối các giàn khoan dầu ở bên ngoài Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội cho biết. “Nhưng người dân Việt Nam đang tự hỏi chiến lược của chính phủ là gì, và tự hỏi liệu chính phủ có thực sự chống lại Trung Quốc hay là đang thỏa hiệp.”
Trong năm 2012, Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, Leon E. Panetta đã đến thăm vịnh Cam Ranh, một căn cứ lớn của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, nhưng cho đến nay quân đội Việt Nam, vẫn còn lưu tâm đến chiến tranh và những năm tháng duy trì quan hệ đối kháng giữa hai nước sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, vẫn giữ khoảng cách với Mỹ.
Một phần của xa cách là kết quả của một điều luật của Mỹ cấm bán vũ khí cho Việt Nam, một di tích của chiến tranh Việt Nam. Nhưng Washington đang thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng trong quá trình dỡ bỏ lệnh cấm, và dự kiến mới đại sứ Hoa Kỳ đến Việt Nam, Ted Osius, người đang chờ xác nhận của Thượng viện, cho biết trong phiên điều trần tháng trước rằng việc nới lỏng lệnh cấm vận cần được xem xét.
Cho tới thời điểm này, Việt Nam mua vũ khí chủ yếu từ Nga, Israel và Ấn Độ. Việt Nam đã nhận hai tàu ngầm lớp Kilo từ Nga, và đã đặt đơn hàng cho bốn chiếc nữa. Nhật Bản đã cam kết cung cấp một số tàu bảo vệ bờ biển. Trong một động thái nhằm khuyến khích Việt Nam chấp nhận sự thân cận với Washington hơn, Ngoại trưởng John Kerry công bố 18 triệu đôla viện trợ không gồm vũ khí cho an ninh hàng hải của Việt Nam trong chuyến thăm vào tháng Mười Hai năm ngoái.
“Việt Nam không mong đợi, hoặc muốn, sự can thiệp của Hoa Kỳ”, ông Đặng Đình Quý, hiệu trưởng của Học viện Ngoại giao Việt Nam bày tỏ. “Chúng tôi không mong đợi sự giúp đỡ từ bất cứ ai,” ông nói. “Chúng tôi tin tưởng chúng tôi có thể tự làm điều đó. Chúng tôi sẽ tiếp tục các chiến lược hiện tại , nỗ lực nhằm ngăn chặn một cuộc đụng độ, và nếu điều đó xảy ra, chúng tôi sẽ cố gắng để tự đối phó với nó. Chúng tôi chào đón tất cả các bên ở Biển Đông như miễn là họ có thiện chí giữ gìn hòa bình, ổn định và trật tự pháp lý trong khu vực. “
Cuộc chiến năm 1979, theo lệnh của lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nhằm trừng phạt Việt Nam đã xâm lược Campuchia, diễn ra dọc đường biên giới giữa hai nước. Những ký ức còn hằn sâu không chỉ vì số người chết mà còn vì lính Trung Quốc đốt phá tan hoang các thị trấn và làng mạc khi rút chạy, phá hủy các trường học và bệnh viện, những thứ mà về sau lính Trung Quốc gọi là “ nụ hôn tạm biệt”.
Lạng Sơn, sau đó được xây dựng lại, và những tòa nhà cao tầng khiêm tốn được trang trí với đèn neon tạo cho cảm giác một địa điểm buôn bán thịnh vượng. Nhưng người dân ở đây vẫn còn nhớ tới con sông đầy những xác người, cả Việt Nam lẫn Trung Quốc, và đã mất biết bao lâu để thứ mùi khủng khiếp ấy phai nhạt. Tổng số người chết của cả hai bên được ước tính ít nhất 50 nghìn lính, cùng với mười ngàn thường dân Việt Nam.
Những người lính Trung Quốc được ra lệnh là phải thật tàn bạo và đã phải viện đến sự “điên cuồng của những cảm xúc cực đoan”, theo một cựu sĩ quan tình báo Trung Quốc, Xu Meihong, người di cư đến Hoa Kỳ và xuất hiện trong cuốn sách lịch sử chiến tranh, “Chiến lược quân sự của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương lần thứ ba” của Edward C. O’Dowd.
Quyết định của Trung Quốc tiêu diệt Lạng Sơn đã để lại dấu ấn vĩnh viễn đối với một học sinh trung học lúc đó, tên là Lương Văn Lang, hiện đang làm nhân viên bảo vệ.
“Trái tim tôi đầy hận thù, toàn bộ thành phố đã bị phá hủy, tất cả mọi thứ là đống đổ nát”, ông nói. Hai năm sau khi Trung Quốc rút đi, ông được chọn để đào tạo bắn tỉa trong lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương nhằm chống lại các cuộc tấn công lẻ tẻ của Trung Quốc còn tiếp diễn cho tới cuối những năm 1980.
“Tôi thường thức dậy lúc 2 giờ sáng,chọn vị trí trên một sườn núi cao, và tôi có thể thấy lính Trung Quốc đào đường hầm”, ông nói. “Đồi của họ thấp hơn so với chúng tôi, và đôi khi họ sẽ di chuyển cao hơn. Chúng tôi sẽ chờ đợi cho đến thời điểm khi họ di chuyển và khai hỏa. “Ông đã giết chết sáu lính Trung Quốc trong mười ngày, ông tự hào nói.
Để tưởng thưởng cho sự dũng cảm và độ chính xác của mình, ông Lang giành được ba huy chương mà ông cất giữ trong một hộp lót xa tanh.
Sau khi Trung Quốc và Việt Nam bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, chính phủ xóa bỏ tất cả các kỷ niệm chính thức của cuộc chiến năm 1979, một sự tương phản với vô số các đài tưởng niệm chiến tranh thời chống Pháp và Mỹ, mà trong đó Trung Quốc đã cung cấp những hỗ trợ quan trọng.
Khi quan hệ giữa hai đảng cộng sản anh em tan băng, kinh doanh qua biên giới phát triển mạnh mẽ và những ký ức đã bị lu mờ.
Những ký ức ấy lại nổi lên hai vài tháng trước đây với sự xuất hiện của các giàn khoan dầu của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp ngoài khơi bờ biển của Việt Nam. Đã có những cuộc đụng độ hàng ngày giữa các tàu thuộc lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc và Việt Nam, dẫn đến cuộc bạo loạn chống Trung Quốc tại Việt Nam để lại bốn công dân Trung Quốc bị chết và làm hư hỏng các nhà máy nước ngoài.
Chị Hiền, hiện đang điều hành một nhà khách và đón chào khách hàng Trung Quốc, nói rằng chị vẫn sống với những ký ức kinh hoàng thời thơ ấu. Sau khi mẹ chị bị giết, những người lính tìm một người phụ nữ lớn tuổi để chăm sóc chị, và sau đó chỉ cho hai người phụ nữ đau thương ấy tới chỗ trú ẩn cùng với những ngườ sống sót khác trong một hang động đá vôi.
“Nhưng hàng trăm người đã bị giết chết “, chị nói. “Tôi thấy một người phụ nữ với đôi chân của cô bị đứt lìa, nằm trên mặt đất. Nhìn vào đôi mắt của cô, chúng tôi biết cô vẫn còn sống và muốn giúp đỡ, nhưng chúng tôi chẳng có thể làm gì cả. Chúng tôi chẳng có gì cả. Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh ấy”.
Nguồn: FB Tin Việt

Mời đọc thêm:

Tổng hợp những (35) bài viết cũ về chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979