Hiển thị các bài đăng có nhãn Tháng Hai 1979. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tháng Hai 1979. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 17 tháng 2, 2015

Gửi bạn bè đồng nghiệp và các thế hệ sinh viên của tôi.

Tôi muốn gửi những hình ảnh này tới bạn bè đồng nghiệp và các thế hệ sinh viên của tôi.

Một trang sách trong giáo trình Văn học do một trường ĐH lớn của TQ biên soạn, trong đó nhắc tới cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Họ đã dạy sinh viên của họ rằng quân xâm lược Việt Nam đem chiến tranh đến biên giới phía Nam của TQ.




Cuộc chiến tranh biên giới nổ ra ngày 17 tháng 2 năm 1979 do Trung Quốc phát động, tấn công đồng loạt vào toàn bộ đường biên giới phía Bắc của Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc. Cuộc chiến này mang lại quá nhiều thiệt hại, đau thương, chết chóc, cho cả hai phía. Đó là cuộc chiến phi Nhân, phi Nghĩa của Trung Quốc.
Sau cuộc chiến, chính nhà cầm quyền Bắc Kinh cũng không dám nói lên sự thực về mục đích của cuộc chiến nướng quân này. Cũng vì cuộc chiến này, Việt Nam và Trung Quốc đã cắt đứt quan hệ ngoại giao. Cho đến năm 1991 mới nối lại. Và một trong những thỏa thuận giữa lãnh đạo hai nước là "gác lại quá khứ", cả hai bên sẽ tránh nhắc lại cuộc chiến này.
Nhưng trên thực tế, chính quyền Trung Quốc chưa bao giờ ngừng tuyên truyền dối trá cho người dân của họ về cuộc chiến phi nghĩa mà họ đã đánh sang Việt Nam. Phía Trung Quốc luôn nói rằng "Việt Nam xâm lược Trung Quốc, Trung Quốc chỉ đáp trả và dạy cho Việt Nam một bài học." Trong một cuốn giáo trình Văn học của một trường đại học nổi tiếng tại Trung Quốc xuất bản năm 1996 cũng có những dòng chữ này:"...quân xâm lược Việt Nam đem chiến tranh đến biên giới phía Nam..." Chính đồng nghiệp của tôi đi du học tại Bắc Kinh cũng có lần lên lớp cho tôi rằng "Việt Nam vong ơn bội nghĩa với Trung Quốc nên mới bị Trung Quốc dạy cho một bài học". Trong khi đó một vị giáo sư có uy tín tại Trung Quốc mới cho tôi biết rằng một trong những nguyên nhân khiến cho Đặng Tiểu Bình phát động cuộc chiến với Việt Nam năm 1979 là do nội bộ trung ương của Trung Quốc khi đó đang lục đục, họ hướng dư luận ra ngoài bằng phát động chiến tranh với Việt Nam, nhân cơ hội đó chỉnh đốn và củng cố phe nhóm.
36 năm kể từ cuộc chiến biên giới, 24 năm kể từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, người Việt Nam vẫn bị những kẻ lãnh đạo hèn nhát bưng bít sự thật, làm quên đi sự hy sinh của hơn 6 vạn đồng bào và chiến sĩ trong cuộc chiến bảo vệ Tổ Quốc. Trong khi đó kẻ thù xâm lược vẫn tiếp tục dối trá, lừa lọc, vẫn tiếp tục từng ngày âm mưu thôn tính nước ta.

Hỡi những anh linh các vị tiền nhân, các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh để bảo vệ Tổ Quốc, hãy tiếp sức mạnh cho những thế hệ người Việt Nam hôm nay biết thức tỉnh đứng lên cứu nước. Tổ Quốc là trên hết. Nhân dân Việt Nam phải biết yêu và bảo vệ dân tộc Việt Nam.




Dao Thu facebook

Thứ Hai, 16 tháng 2, 2015

Cù Huy Hà Vũ - Bài học ‘đồng minh’ từ năm 1979


H136 năm đã trôi qua nhưng cuộc đánh trả chiến tranh xâm lược được Trung Quốc phát động vào ngày 17-2-1979 vẫn luôn hiện diện trong những người Việt Nam yêu nước, nhất là vì nó mang tính thời sự sâu sắc khi Trung Quốc không ngừng xâm phạm chủ quyền biển cũng như đe dọa dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Để giải cứu đồng minh Khme Đỏ tại Cam Pu Chia sau khi chế độ diệt chủng của lực lượng này bị quân đội Việt Nam đánh đổ vào ngày 7/1/1979, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã quyết định điều một lực lượng lớn quân đội đánh thẳng vào Việt Nam trong khuôn khổ cái gọi là “chiến tranh hạn chế” hay “dạy cho Việt Nam một bài học” nhằm buộc Việt Nam rút quân khỏi Căm Pu Chia, đúng kế sách “Vây Ngụy cứu Triệu” mà Tôn Tẫn áp dụng 2.500 năm trước.
Khi 300 nghìn quân Trung Quốc đồng loạt tràn qua hơn 1000 km biên giới, phía Việt Nam chỉ có khoảng 70 nghìn quân chủ lực, còn lại là dân quân bởi như đã rõ, đa phần quân chủ lực Việt Nam đang chiến đấu ở Campuchia.
Chính Đặng Tiểu Bình đã nói trong một bài phát biểu: “Lần đánh này vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy đánh một”. Tất nhiên với so sánh lực lượng quân sự như vậy, Trung Quốc hoàn toàn tin tưởng rằng mưu đồ của họ sẽ thành công.
Thế nhưng ngày 5-3, tức chỉ sau 17 ngày tiến hành chiến tranh, Trung Quốc đã phải tuyên bố chấm dứt cuộc chiến và rút quân khỏi Việt Nam cho dù quân đội Việt Nam vẫn hiện diện ở Căm Pu Chia.

Nguyên nhân thất bại

Phân tích thất bại của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh này, người ta thường nêu những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, quân đội Việt Nam cộng sản vừa thắng Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa nên kinh nghiệm chiến trường của họ hơn hẳn quân đội Trung Quốc vốn không tham gia cuộc chiến tranh lớn nào kể từ sau chiến tranh Triều Tiên kết thúc vào năm 1953.
Thứ hai, chiến tranh xảy ra ở vùng rừng núi nên quân đội và dân quân Việt Nam đã tận dụng được địa hình hiểm trở để đánh trả hiệu quả, gây thiệt hại lớn cho quân Trung Quốc.
Thứ ba, Việt Nam được Liên Xô với tư cách đồng minh quân sự yểm trợ.
Thực vậy, Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện được ký giữa hai nước vào ngày 3/11/1978 là một hiệp ước liên minh quân sự vì Hiệp ước có điều khoản “Trong trường hợp một trong hai bên bị tiến công, hoặc bị đe dọa tiến công thì hai bên ký hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau nhằm loại trừ mối đe dọa đó, và áp dụng những biện pháp thích đáng có hiệu lực để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước”.
Cũng cần nói thêm rằng Hiệp ước chỉ là cái kết tất yếu của việc Việt Nam “nhất biên đảo”, ngả hẳn sang Liên Xô trong tranh chấp Xô – Trung để đổi lấy sự bảo trợ cả về kinh tế và quân sự của Liên Xô chống lại sự thù địch của Trung Quốc không cam chịu chấp nhận một Việt Nam thống nhất từ 1975.
Vậy nguyên nhân nào là quan trọng nhất?
Trước hết, cho dù Việt Nam có kinh nghiệm chiến trường hơn hẳn Trung Quốc thì với số quân đông gấp bội Trung Quốc có thể dùng chiến thuật “biển người” để lấy lại thế cân bằng chiến trận.
Còn nói quân Việt Nam tận dụng được địa hình rừng núi để gây khó khăn lớn cho quân Trung Quốc thì cũng không hẳn bởi không thể nói quân Trung Quốc không có kinh nghiệm tác chiến nơi địa hình hiểm trở khi giáp giới với Việt Nam cũng là vùng rừng núi.
Bằng chứng là quân Trung Quốc cuối cùng cũng đã chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn là những mục tiêu mà Đặng Tiểu Bình ngay từ đầu đã đề ra.
Do đó, sự yểm trợ quân sự của Liên Xô đóng vai trò quyết định trong việc buộc Trung Quốc chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Vai trò của Liên Xô

Trước hết, trong gần một tháng chiến tranh Liên Xô đã cho một số phi đoàn vận tải (An-12 AN-26, MI-8…) không vận 20 nghìn quân Việt Nam cùng các trang thiết bị chiến đấu từ Campuchia trở về miền Bắc Việt Nam để tổ chức phòng thủ và phản công.
Cũng trong giai đoạn này bằng đường biển, Liên Xô đã chuyển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe thiết giáp, xe bộ binh cơ giới, 400 khẩu pháo vàsúng cối, 50 tổ hợp pháo phản lực GradBM-21, hơn 100 khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai và hàng nghìn tên lửa, 800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.
Bên cạnh đó, Liên Xô cũng đã tham chiến với việc điều 30 tàu chiến vào biển Đông để ngăn hạm đội Nam Hải của Trung Quốc tập kích Việt Nam.
Không những thế, ngày 22 tháng 2, Tùy viên quân sự Liên Xô tại Việt Nam cảnh cáo: “Liên Xô sẽ thực hiện những điều khoản đã ký kết trong Hiệp ước hữu nghị và hợp tác đã ký với Việt Nam.
Nhưng xung đột vẫn có thể giới hạn được, Liên Xô cũng không muốn có một cuộc chiến tranh”.
Như vậy Trung Quốc đã nhận được một cảnh cáo rõ ràng từ phía Liên Xô rằng nếu quân đội của họ không rút khỏi Việt Nam, họ sẽ phải đối mặt với một cuộc tấn công của Liên Xô vào lãnh thổ Trung Quốc, đúng với cái cách Trung Quốc đã tấn công Việt Nam để giải cứu đồng minh Khme Đỏ của nước này ở Cam Pu Chia đang bị quân đội Việt Nam truy diệt.
Ngay ngày hôm sau, 23 tháng 2, Đặng Tiểu Bình nhắc lại tuyên bố về “cuộc chiến tranh hạn chế” và nói sẽ rút quân trong vòng 10 ngày hoặc hơn nhằm ngăn Liên Xô tấn công vào Trung Quốc. Đến ngày 5/3 Trung Quốc chính thức tuyên bố rút quân khỏi Việt Nam.
Để gia tăng áp lực buộc Trung Quốc chấm dứt chiến tranh một cách thực sự, từ 12 đến 26 -3 – 1979, Liên Xô đã tiến hành một cuộc tập trận bắn đạn thật lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới với sự tham gia của các quân khu phía Đông áp biên giới với Trung Quốc, các đơn vị đóng tại Mông Cổ và Hạm đội Thái Bình Dương với tổng quân số lên tới hơn 200.000 quân. Kết quả là ngày 16/3/1979, Trung Quốc về cơ bản đã rút quân khỏi Việt Nam.

Liên minh quân sự

Như vậy, bài học lớn nhất cho Việt Nam từ cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979 là Việt Nam buộc phải có liên minh với cường quốc quân sự thì mới bảo vệ được lãnh thổ của mình trước xâm lược của cường quốc quân sự khác.
Bài học này càng trở nên hiển nhiên trong bối cảnh cuộc xâm lược sắp tới của Trung Quốc là nhằm vào quần đảo Trường Sa, tức diễn ra trên biển nơi mà học thuyết “chiến tranh nhân dân” của Việt Nam gắn với địa hình hoàn toàn bị vô hiệu.
Nói cách khác, Việt Nam không thể không khẩn cấp tìm cường quốc quân sự để liên minh trước khi mọi cái trở nên quá muộn. Thực ra trong kịch bản này Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác ngoài Mỹ.
Thực vậy, với chiến lược xoay trục quân sự sang châu Á mà Tổng thống Mỹ Obama đưa ra đầu năm 2012 mà tôi gọi là “Obamasia”, Mỹ là cường quốc duy nhất chủ động ngăn chặn bành trướng quân sự của Trung Quốc trong khu vực.
Việc Thượng viện Mỹ ra nghị quyết về Biển Đông theo đó Mỹ chống lại mọi hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và chủ trương tự do hàng hải là bằng chứng nặng ký nữa về quyết tâm quân sự mới của Mỹ ở thế kỷ XXI.
Thế nhưng liên minh quân sự với Mỹ sẽ không bao giờ thực hiện được chừng nào Việt Nam còn duy trì chế độ độc tài cộng sản.
Điều này có nghĩa để bảo vệ thành công quần đảo Trường Sa nói riêng, lãnh thổ quốc gia nói chung trước xâm lược và đe dọa xâm lược của Trung Quốc, chính quyền Việt Nam không còn con đường nào khác là phải dân chủ hóa chế độ chính trị mà khởi đầu là bảo đảm tự do ngôn luận và các nhân quyền cơ bản khác được ghi trong Hiến pháp song song với việc trả tự do vô điều kiện cho tất cả những người bất đồng chính kiến bị cầm tù để rồi tiến tới tổ chức bầu cử tự do với sự tham gia của nhiều đảng phái, tương tự những gì đã và đang diễn ra tại một nước Đông Nam Á khác vốn có cùng chế độ độc tài là Myanmar.
TS Cù Huy Hà Vũ

New York Times: Sự bạo tàn của Trung Quốc trong chiến tranh biên giới 1979

Tác giả: JANE PERLEZ
5-7-2014
Hà Thị Hiền đi dọc đường ray xe lửa ở Lạng Sơn, kết nối giữa Hà Nội và Bắc Kinh
Hà Thị Hiền đi dọc đường ray xe lửa ở Lạng Sơn, nơi nối liền giữa Hà Nội và Bắc Kinh
LẠNG SƠN, Việt Nam – Chị mới 14 tuổi khi hỏa lực pháo binh Trung Quốc giã liên tục lên những ngọn đồi xung quanh nhà của chị ở miền Bắc Việt Nam, và hàng trăm ngàn lính Trung Quốc tràn qua biên giới. Chị nhớ lại cảnh chạy loạn cuống cuồng cùng cha mẹ của mình xuyên qua những cây đào, mái tóc dài ngang lưng xõa bay khi họ chạy trốn những kẻ xâm lược. Thật không may, họ chạy thẳng về phía quân thù.
Mẹ chị bị bắn chết trước mặt chị; liền phút sau, cha chị đã bị thương. “Tôi kinh hoàng. Tôi không nghĩ rằng tôi sẽ sống sót. Đạn bay loạn xung quanh. Tôi có thể nghe thấy và ngửi thấy tiếng súng, “Hà Thị Hiền, bây giờ 49 tuổi, dùng tay miêu tả những viên đạn đã bay gần xung quanh đầu chị đến mức nào vào ngày đầu tiên của cuộc chiến tàn bạo ngắn ngủi.
Cuộc xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam vào năm 1979 kéo dài chưa đầy một tháng. Nhưng cuộc chiến thật hung tàn tới mức di sản của nó hôm nay vẫn thấm đẫm vào mối quan hệ chua chát hiện nay giữa hai nước Cộng Sản mà giờ đây đang đối đầu trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông.
Cả hai bên sau đó đều tuyên bố chiến thắng, mặc dù không bên nào chiếm ưu thế, và cả hai quân đội đều chịu tổn thất khủng khiếp.
Nếu một cuộc chiến nữa nổ ra bởi tranh chấp lãnh thổ quanh giàn khoan dầu của Trung Quốc ngoài khơi bờ biển của Việt Nam ở Biển Đông, thì Trung Quốc, với lực lượng hải quân ngày càng hiện đại hóa của nó, có khả năng sẽ giành chiến thắng, theo đánh giá của các chuyên gia quân sự . Vì vậy, trong một tình huống phần nào giống việc Mexico nằm sát Hoa Kỳ, Việt Nam phải thực hiện nghệ thuật sống cùng với một quốc gia quyền lực, một kỹ năng mà Việt Nam đã thực hành qua hàng ngàn năm liên tục bị xâm lược, đô hộ và hàng chục cuộc chiến tranh với Trung Quốc.
Ngôi mộ của mẹ chị Hiền, đã bị quân Trung Quốc bắn chết ngày 17-2-1979, trong khi cha chị bị thương
Ngôi mộ của mẹ chị Hiền, đã bị quân Trung Quốc bắn chết ngày 17-2-1979, trong khi cha chị bị thương
Nhưng đối đầu với một Trung Quốc, ngày nay giàu có hơn nhiều, quân đội mạnh mẽ hơn và đầy tham vọng hơn bất cứ thời điểm nào mà hai nước đã từng đối mặt nhau trong kỷ nguyên hiện đại, việc làm thế nào để chọc tức Bắc Kinh vừa đủ, khi nào cần giảm áp lực, và làm thế nào để sử dụng nhân tố Hoa Kỳ đang trở nên phức tạp hơn .
Trong tình trạng căng thẳng hiện nay, những tình cảm chống Trung Quốc của người Việt Nam dường như đã đi trước dự trù của Bộ Chính trị, hiện đang trị vì đất nước.
“Toàn dân Việt muốn được thoát khỏi tầm tay của Trung Quốc”, ông Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hiệp hội Văn học Hà Nội, một trong những người phản đối các giàn khoan dầu ở bên ngoài Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội cho biết. “Nhưng người dân Việt Nam đang tự hỏi chiến lược của chính phủ là gì, và tự hỏi liệu chính phủ có thực sự chống lại Trung Quốc hay là đang thỏa hiệp.”
Trong năm 2012, Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, Leon E. Panetta đã đến thăm vịnh Cam Ranh, một căn cứ lớn của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, nhưng cho đến nay quân đội Việt Nam, vẫn còn lưu tâm đến chiến tranh và những năm tháng duy trì quan hệ đối kháng giữa hai nước sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, vẫn giữ khoảng cách với Mỹ.
Một phần của xa cách là kết quả của một điều luật của Mỹ cấm bán vũ khí cho Việt Nam, một di tích của chiến tranh Việt Nam. Nhưng Washington đang thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng trong quá trình dỡ bỏ lệnh cấm, và dự kiến mới đại sứ Hoa Kỳ đến Việt Nam, Ted Osius, người đang chờ xác nhận của Thượng viện, cho biết trong phiên điều trần tháng trước rằng việc nới lỏng lệnh cấm vận cần được xem xét.
Cho tới thời điểm này, Việt Nam mua vũ khí chủ yếu từ Nga, Israel và Ấn Độ. Việt Nam đã nhận hai tàu ngầm lớp Kilo từ Nga, và đã đặt đơn hàng cho bốn chiếc nữa. Nhật Bản đã cam kết cung cấp một số tàu bảo vệ bờ biển. Trong một động thái nhằm khuyến khích Việt Nam chấp nhận sự thân cận với Washington hơn, Ngoại trưởng John Kerry công bố 18 triệu đôla viện trợ không gồm vũ khí cho an ninh hàng hải của Việt Nam trong chuyến thăm vào tháng Mười Hai năm ngoái.
“Việt Nam không mong đợi, hoặc muốn, sự can thiệp của Hoa Kỳ”, ông Đặng Đình Quý, hiệu trưởng của Học viện Ngoại giao Việt Nam bày tỏ. “Chúng tôi không mong đợi sự giúp đỡ từ bất cứ ai,” ông nói. “Chúng tôi tin tưởng chúng tôi có thể tự làm điều đó. Chúng tôi sẽ tiếp tục các chiến lược hiện tại , nỗ lực nhằm ngăn chặn một cuộc đụng độ, và nếu điều đó xảy ra, chúng tôi sẽ cố gắng để tự đối phó với nó. Chúng tôi chào đón tất cả các bên ở Biển Đông như miễn là họ có thiện chí giữ gìn hòa bình, ổn định và trật tự pháp lý trong khu vực. “
Cuộc chiến năm 1979, theo lệnh của lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nhằm trừng phạt Việt Nam đã xâm lược Campuchia, diễn ra dọc đường biên giới giữa hai nước. Những ký ức còn hằn sâu không chỉ vì số người chết mà còn vì lính Trung Quốc đốt phá tan hoang các thị trấn và làng mạc khi rút chạy, phá hủy các trường học và bệnh viện, những thứ mà về sau lính Trung Quốc gọi là “ nụ hôn tạm biệt”.
Lạng Sơn, sau đó được xây dựng lại, và những tòa nhà cao tầng khiêm tốn được trang trí với đèn neon tạo cho cảm giác một địa điểm buôn bán thịnh vượng. Nhưng người dân ở đây vẫn còn nhớ tới con sông đầy những xác người, cả Việt Nam lẫn Trung Quốc, và đã mất biết bao lâu để thứ mùi khủng khiếp ấy phai nhạt. Tổng số người chết của cả hai bên được ước tính ít nhất 50 nghìn lính, cùng với mười ngàn thường dân Việt Nam.
Những người lính Trung Quốc được ra lệnh là phải thật tàn bạo và đã phải viện đến sự “điên cuồng của những cảm xúc cực đoan”, theo một cựu sĩ quan tình báo Trung Quốc, Xu Meihong, người di cư đến Hoa Kỳ và xuất hiện trong cuốn sách lịch sử chiến tranh, “Chiến lược quân sự của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương lần thứ ba” của Edward C. O’Dowd.
Quyết định của Trung Quốc tiêu diệt Lạng Sơn đã để lại dấu ấn vĩnh viễn đối với một học sinh trung học lúc đó, tên là Lương Văn Lang, hiện đang làm nhân viên bảo vệ.
“Trái tim tôi đầy hận thù, toàn bộ thành phố đã bị phá hủy, tất cả mọi thứ là đống đổ nát”, ông nói. Hai năm sau khi Trung Quốc rút đi, ông được chọn để đào tạo bắn tỉa trong lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương nhằm chống lại các cuộc tấn công lẻ tẻ của Trung Quốc còn tiếp diễn cho tới cuối những năm 1980.
“Tôi thường thức dậy lúc 2 giờ sáng,chọn vị trí trên một sườn núi cao, và tôi có thể thấy lính Trung Quốc đào đường hầm”, ông nói. “Đồi của họ thấp hơn so với chúng tôi, và đôi khi họ sẽ di chuyển cao hơn. Chúng tôi sẽ chờ đợi cho đến thời điểm khi họ di chuyển và khai hỏa. “Ông đã giết chết sáu lính Trung Quốc trong mười ngày, ông tự hào nói.
Để tưởng thưởng cho sự dũng cảm và độ chính xác của mình, ông Lang giành được ba huy chương mà ông cất giữ trong một hộp lót xa tanh.
Sau khi Trung Quốc và Việt Nam bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, chính phủ xóa bỏ tất cả các kỷ niệm chính thức của cuộc chiến năm 1979, một sự tương phản với vô số các đài tưởng niệm chiến tranh thời chống Pháp và Mỹ, mà trong đó Trung Quốc đã cung cấp những hỗ trợ quan trọng.
Khi quan hệ giữa hai đảng cộng sản anh em tan băng, kinh doanh qua biên giới phát triển mạnh mẽ và những ký ức đã bị lu mờ.
Những ký ức ấy lại nổi lên hai vài tháng trước đây với sự xuất hiện của các giàn khoan dầu của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp ngoài khơi bờ biển của Việt Nam. Đã có những cuộc đụng độ hàng ngày giữa các tàu thuộc lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc và Việt Nam, dẫn đến cuộc bạo loạn chống Trung Quốc tại Việt Nam để lại bốn công dân Trung Quốc bị chết và làm hư hỏng các nhà máy nước ngoài.
Chị Hiền, hiện đang điều hành một nhà khách và đón chào khách hàng Trung Quốc, nói rằng chị vẫn sống với những ký ức kinh hoàng thời thơ ấu. Sau khi mẹ chị bị giết, những người lính tìm một người phụ nữ lớn tuổi để chăm sóc chị, và sau đó chỉ cho hai người phụ nữ đau thương ấy tới chỗ trú ẩn cùng với những ngườ sống sót khác trong một hang động đá vôi.
“Nhưng hàng trăm người đã bị giết chết “, chị nói. “Tôi thấy một người phụ nữ với đôi chân của cô bị đứt lìa, nằm trên mặt đất. Nhìn vào đôi mắt của cô, chúng tôi biết cô vẫn còn sống và muốn giúp đỡ, nhưng chúng tôi chẳng có thể làm gì cả. Chúng tôi chẳng có gì cả. Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh ấy”.
Nguồn: FB Tin Việt

Mời đọc thêm:

Tổng hợp những (35) bài viết cũ về chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979

Biên giới phía Bắc 1979: 30 ngày không thể nào quên (1)

Trường Sơn
16-02-2015
Cuối năm 1978, để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược mà phía Trung Quốc gọi là “phản kích tự vệ chống Việt Nam”, giới cầm quyền Bắc Kinh đã tập trung một bộ phận lớn quân đội ở khu vực biên giới.
Lời Tòa soạn:
Đã 36 năm trôi qua nhưng ký ức của hàng triệu người dân Việt Nam về một trang sử hào hùng của Tổ quốc, ký ức về sự hy sinh của hàng ngàn đồng bào, chiến sỹ đã ngã xuống để bảo vệ từng tấc đất biên cương khởi đầu từ ngày 17/2/1979 … vẫn chưa hề phai mờ. Nhắc lại cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 với 30 ngày khốc liệt để hậu thế chúng ta thêm hiểu hơn về lịch sử của đất nước, để tôn vinh những người con ưu tú đã ngã xuống giống như chúng ta vẫn thường tôn vinh những anh hùng, liệt sỹ trong suốt thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc.
Với mong muốn giúp cho độc giả có một cái nhìn khái quát nhất nhưng toàn cảnh nhất về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc 1979, Infonet xin giới thiệu loạt bài viết được chắt lọc, tham khảo và tổng hợp từ các tài liệu, sách báo đã từng được xuất bản như:
Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân Quân khu 1 và 2;
Lịch sử các quân đoàn 1, 2, Binh đoàn Pắc Bó;
Lịch sử các sư đoàn 3, 316, 337, 338, 346, 395;
Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Lạng Sơn, thị xã Cao Bằng; Lịch sử Bộ đội Biên phòng
Lịch sử Dẫn đường Không quân
Lịch sử Pháo binh QĐNDVN
Báo Quân đội Nhân dân tháng 2 và 3-1979
China’s Aggression: How and Why It Failed – Nguyen Huu Thuy
Chinese Military Strategy In The Third Indochina War – Edward C. O’Dowd
China’s War With Vietnam 1979 – King C. Chen
H1
Bài 1: Tương quan và Thế trận
Ngoài Quân đoàn 41, 42, 55 của quân khu Quảng Châu và 11, 14 của quân khu Côn Minh có sẵn ở phía nam, họ còn điều động các đơn vị dự bị gồm Quân đoàn 20, 43, 54 của quân khu Vũ Hán ở phía đông và 13, 50 thuộc quân khu Thành Đô ở phía bắc. Binh lực tham chiến trực tiếp lên tới 28 sư đoàn chủ lực cùng 2 sư đoàn và nhiều trung đoàn, tiểu đoàn địa phương, biên phòng và dân binh.
Đạo quân này được sự chi viện của 7 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 sư đoàn và 39 trung đoàn pháo binh, 2 sư đoàn phòng không và nhiều trung đoàn bảo đảm (công binh, thông tin, vận tải…). Tổng cộng, Trung Quốc huy động vào cuộc chiến trên bộ khoảng 600.000 quân; 550 xe tăng thiết giáp loại Type-62, Type-59, Type-63; 2.000 khẩu pháo mặt đất và súng cối từ 76,2mm đến 152mm, súng cối 160mm và dàn phóng hỏa tiễn 107mm đến 130mm.
Bên cạnh đó, không quân và hải quân Trung Quốc cũng triển khai 948 máy bay chiến đấu trên 15 căn cứ ở Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam gồm 706 tiêm kích J-5, J-6, J-7; 120 tiêm kích bom J-6, Q-5 và 122 máy bay ném bom H-5, H-6 sẵn sàng chi viện khi có yêu cầu.
Hạm đội Nam Hải với 300 tàu chiến cũng được đặt trong tình trạng báo động cao, đồng thời tăng cường một biên đội tàu tên lửa xuống khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép.
H1Lính Trung Quốc cùng sự yểm trợ của xe tăng tấn công vào lãnh thổ Việt Nam. (Ảnh tư liệu)
Cuộc xâm lược được Bắc Kinh tiến hành trên hai hướng.
Cánh đông do Thượng tướng Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou), Tư lệnh Đại quân khu Quảng Châu chỉ huy có 18 sư đoàn chủ lực, 1 sư đoàn địa phương, 3 trung đoàn biên phòng cùng các đơn vị binh chủng và dân binh.
Hỗ trợ cho hướng này là 6 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 sư đoàn pháo binh và 1 sư đoàn phòng không. Cánh quân này đảm nhiệm tiến công ba tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh của Việt Nam, cụ thể:
- Hướng Cao Bằng có 10 sư đoàn bộ binh: 58 (Quân đoàn 20), 121, 122, 123 (Quân đoàn 41), 124, 125, 126 (Quân đoàn 42), 129 (Quân đoàn 43), 150 (Quân đoàn 50), 160, 162 (Quân đoàn 54).
- Hướng Lạng Sơn có 8 sư đoàn bộ binh: 127, 128 (Quân đoàn 43), 148 (Quân đoàn 50), 160, 161 (Quân đoàn 54), 163, 164, 165 (Quân đoàn 55).
- Hướng Quảng Ninh có sư đoàn địa phương quân Quảng Tây.
Cánh tây do Thượng tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), Tư lệnh Đại quân khu Côn Minh chỉ huy có 10 sư đoàn chủ lực, 1 sư đoàn địa phương, 4 trung đoàn biên phòng cùng các đơn vị binh chủng và dân binh. Hỗ trợ cho hướng này là 1 trung đoàn xe tăng, 1 sư đoàn pháo binh và 1 sư đoàn phòng không. Lực lượng này đảm nhiệm tiến công ba tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang), Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai), Lai Châu của Việt Nam, cụ thể:
- Hướng Hà Tuyên có Trung đoàn 12 biên phòng cùng lực lượng dân binh.
- Hướng Hoàng Liên Sơn có 8 sư đoàn bộ binh: 32 (Quân đoàn 11), 37, 38, 39 (Quân đoàn 13), 40, 41, 42 (Quân đoàn 14), 149 (Quân đoàn 50).
- Hướng Lai Châu có Sư đoàn 31 Quân đoàn 11 và sư đoàn địa phương quân Vân Nam.
Đương đầu với đạo quân xâm lược hùng hậu của Trung Quốc là các lực lượng vũ trang tại chỗ cùng nhân dân 6 tỉnh biên giới Việt Nam.
Quân khu 1 do Thiếu tướng Đàm Quang Trung làm tư lệnh kiêm chính ủy có 4 sư đoàn và 1 lữ đoàn chủ lực, 7 trung đoàn và 21 tiểu đoàn địa phương. Bố trí trên tuyến biên giới Đông Bắc như sau:
H1
Bộ đội chủ lực:
- Sư đoàn bộ binh 3 (đoàn Sao Vàng) gồm Trung đoàn bộ binh 2 (đoàn An Lão), 12 (đoàn Tây Sơn), 141 (đoàn Hoài Ân) và Trung đoàn pháo binh 68; bố trí tại khu vực Đồng Đăng, Văn Lãng, Cao Lộc và thị xã Lạng Sơn của tỉnh Lạng Sơn.
- Sư đoàn bộ binh 338 gồm Trung đoàn bộ binh 460, 461, 462 và Trung đoàn pháo binh 208; bố trí tại khu vực nam Lộc Bình, Đình Lập của tỉnh Lạng Sơn và An Châu của tỉnh Quảng Ninh.
- Sư đoàn bộ binh 346 (đoàn Lam Sơn) gồm Trung đoàn bộ binh 246 (đoàn Tân Trào), 677, 851 và Trung đoàn pháo binh 188; bố trí tại khu vực Trà Lĩnh, Hà Quảng, Hòa An của tỉnh Cao Bằng.
- Sư đoàn bộ binh 325B (về sau đổi thành 395) gồm Trung đoàn bộ binh 8, 41, 288 và Trung đoàn pháo binh 189; bố trí tại khu vực Tiên Yên, Bình Liêu của tỉnh Quảng Ninh.
- Lữ đoàn bộ binh 242 đảm nhiệm phòng thủ khu vực bờ biển và tuyến đảo Quảng Ninh.
Phần lớn các đơn vị binh chủng trực thuộc Quân khu 1 như Trung đoàn pháo binh 166, Trung đoàn phòng không 272, Trung đoàn xe tăng 407, Trung đoàn công binh 522 cùng tiểu đoàn pháo tầm xa 130mm thuộc Lữ đoàn pháo binh 675 (đoàn Anh Dũng) tăng cường được tập trung chi viện cho hướng Lạng Sơn.
Bộ đội địa phương:
Hướng Cao Bằng có Trung đoàn bộ binh 567 của BCHQS tỉnh ở khu vực Quảng Hòa; 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn cao xạ, 7 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Bảo Lạc, Hà Quảng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Quảng Hòa, Hòa An, Ba Bể và 3 đại đội của Thông Nông, Thạch An, thị xã Cao Bằng.
Hướng Lạng Sơn có 2 trung đoàn bộ binh trực thuộc BCHQS tỉnh là Trung đoàn 123 ở khu vực Lộc Bình và Trung đoàn 199 ở khu vực Tràng Định; 7 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc, Lộc Bình, Đình Lập, Văn Quan và thị xã Lạng Sơn.
Hướng Quảng Ninh có 2 trung đoàn bộ binh trực thuộc BCHQS tỉnh là Trung đoàn 43 ở khu vực Móng Cái và Trung đoàn 244 ở khu vực Quảng Hà; 1 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn cao xạ và 5 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Bình Liêu, Quảng Hà, Móng Cái, Hà Cối, Cẩm Phả.
Lực lượng công an vũ trang có Trung đoàn công an vũ trang cơ động 12 (đoàn Thanh Xuyên) bố trí ở Lạng Sơn, 4 tiểu khu (tương đương tiểu đoàn) ở Cao Bằng và Quảng Ninh, một số đại đội cơ động và 24 đồn biên phòng.
Lực lượng tuyến sau của Quân khu 1 có Sư đoàn 431 và Trung đoàn 852 là khung huấn luyện tân binh cùng 2 trung đoàn và 2 tiểu đoàn bộ binh của các tỉnh Hà Bắc, Bắc Thái.
H1
Quân khu 2 do Thiếu tướng Vũ Lập làm tư lệnh kiêm chính ủy có 3 sư đoàn chủ lực, 8 trung đoàn và 24 tiểu đoàn địa phương. Bố trí trên tuyến biên giới Tây Bắc như sau:
Bộ đội chủ lực:
- Sư đoàn bộ binh 316 (đoàn Bông Lau) gồm Trung đoàn bộ binh 98, 148 (đoàn Sơn La), 174 (đoàn Cao Bắc Lạng) và Trung đoàn pháo binh 187; bố trí tại khu vực Bình Lư, Phong Thổ của tỉnh Lai Châu.
- Sư đoàn bộ binh 345 gồm Trung đoàn bộ binh 118, 121, 124 và Trung đoàn pháo binh 190; bố trí tại khu vực Bảo Thắng của tỉnh Hoàng Liên Sơn.
- Sư đoàn bộ binh 326 gồm Trung đoàn bộ binh 19, 46, 541 và Trung đoàn pháo binh 200; bố trí tại khu vực Tuần Giáo, Điện Biên của tỉnh Lai Châu.
Phần lớn các đơn vị binh chủng trực thuộc Quân khu 2 như Trung đoàn pháo binh 168, Trung đoàn phòng không 297, Trung đoàn công binh 89 được tập trung chi viện cho hướng Hoàng Liên Sơn.
Bộ đội địa phương
Hướng Hà Tuyên có Trung đoàn bộ binh 122, 191 của BCHQS tỉnh, 1 tiểu đoàn pháo binh và 8 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Quản Bạ, Hoàng Su Phì, Xìn Mần, Na Hang.
Hướng Hoàng Liên Sơn có 2 trung đoàn bộ binh của BCHQS tỉnh là Trung đoàn 192 ở khu vực thị xã Lào Cai và Trung đoàn 254 ở khu vực Bảo Thắng; 1 tiểu đoàn pháo binh và 8 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Mường Khương, Bát Xát, Bảo Thắng, thị xã Lào Cai, Yên Bái.
Hướng Lai Châu có Trung đoàn 193 và 741 (ở khu vực Sìn Hồ) của BCHQS tỉnh, 1 tiểu đoàn pháo binh và 5 tiểu đoàn bộ binh của các huyện Phong Thổ, Mường Tè, Mường Lay, Điện Biên, Sìn Hồ.
Lực lượng công an vũ trang có Trung đoàn công an vũ trang cơ động 16 ở Hoàng Liên Sơn, một số đại đội cơ động và 39 đồn biên phòng.
Lực lượng tuyến sau của Quân khu 2 có Sư đoàn 411 là khung huấn luyện tân binh cùng 2 trung đoàn và 8 tiểu đoàn bộ binh của các tỉnh Sơn La, Vĩnh Phú.
Đóng góp vào thế trận phòng thủ chung trên địa bàn 6 tỉnh biên giới còn có các đơn vị binh chủng (pháo cối, ĐKZ, cao xạ, trinh sát, công binh, thông tin, quân y, vận tải) của các BCHQS tỉnh và huyện, thị; lực lượng công an, cảnh sát và đông đảo dân quân, tự vệ ở khắp các làng bản, huyện thị, nông lâm trường và nhà máy xí nghiệp… được tổ chức ở quy mô từ cấp trung đội đến cấp trung đoàn (ở mỗi quân khu có khoảng 500.000 dân quân tự vệ).
Từ tháng 1-1979, đối phương bắt đầu ráo riết đẩy mạnh các hoạt động trinh sát vũ trang dọc biên giới. Chỉ trong tháng 1 và tuần đầu tiên của tháng 2-1979, phía Trung Quốc đã gây ra 230 vụ xâm phạm vũ trang vào lãnh thổ Việt Nam, từ gây hấn, khiêu khích cho tới phục kích, giết hại, bắt cóc người đưa về Trung Quốc, tập kích, bắn phá các đồn biên phòng và trạm gác của công an, dân quân Việt Nam cũng như các cơ sở sản xuất của nhân dân.
Trong những vụ xâm phạm này, lính Trung Quốc đã giết hại trên 40 dân thường và chiến sĩ, làm bị thương hàng trăm người và bắt đi hơn 20 người. Đặc biệt có những vụ diễn ra sâu trong lãnh thổ Việt Nam tới 5km như vụ tập kích trạm gác của dân quân ở Bản Lầu (Hoàng Liên Sơn) ngày 14-1, có những vụ quy mô lớn như huy động 1 tiểu đoàn chính quy tấn công bình độ 400 ở Thanh Lòa, Cao Lộc (Lạng Sơn) ngày 10-2, có những vụ pháo kích lớn đã sử dụng cả tới pháo 85mm, súng cối, ĐKZ… Cùng với đó là hàng chục lần tốp máy bay và tàu thuyền xâm phạm vùng trời, vùng biển của Việt Nam.
Ngày 1-1-1979, theo chỉ thị của Thường vụ Quân ủy Trung ương, các lực lượng vũ trang biên giới được lệnh chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Ngày 15-2, ngoại trừ các xã biên giới và một vài đơn vị, các lực lượng trên tuyến 1 được lệnh hạ cấp xuống trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Nhiều đơn vị tổ chức cho phần lớn bộ đội về trạng thái sinh hoạt bình thường, di chuyển, điều chỉnh lại đội hình bố trí…
Tuy nhiên đến rạng sáng ngày 17-2-1979, pháo binh Trung Quốc đã khai hỏa bắn phá các mục tiêu trong lãnh thổ Việt Nam, mở màn cuộc xâm lược. Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của quân và dân Việt Nam chính thức bắt đầu.
Bài 2: Diễn biến trận chiến trên các mặt trận

Mời đọc thêm:

Tổng hợp những (35) bài viết cũ về chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979

Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới năm 1979


Sơ đồ cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc do Trung Quốc phát động ngày 17.2.1979. Ảnh Wiki
Sơ đồ cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc do Trung Quốc phát động ngày 17.2.1979. Ảnh Wiki
Rạng sáng ngày 17.2.1979, Trung Quốc bất ngờ đưa quân 60 vạn quân với sự yểm trợ của xe tăng, pháo binh, hỏa tiễn… đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh) với chiều dài 1.200km.
Đây là cuộc tấn công bất ngờ đối với Việt Nam và cả thế giới. Thời điểm này, đại bộ phận các quân đoàn chủ lực của Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, lực lượng phòng thủ của ta chủ yếu là bộ đội biên phòng, bộ đội địa phương, công an vũ trang, dân quân tự vệ. Mặc dù với lực lượng và vũ khí áp đảo nhưng quân Trung Quốc không thể tiến nhanh, đạt được các mục tiêu như dự tính…
Trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược này, quân và dân ta đã có những trận đánh kiên cường, kiềm chế bước tiến quân địch. Ở mặt trận Lạng Sơn, tại điểm cao 417, Đoàn An Lão đã đánh bật hàng chục đợt tấn công, loại khỏi vòng chiến đấu Trung đoàn 850 của Trung Quốc. Ở khu vực cầu Khánh Khê trên đường 1B, chiến sĩ Đoàn Tây Sơn đã kiên cường chặn đứng một sư đoàn quân và một tiểu đoàn xe tăng Trung Quốc.
Trên tuyến Hoàng Liên Sơn, các sư đoàn tuyến 1 của 2 quân đoàn Trung Quốc ồ ạt tấn công toàn biên giới Hoàng Liên Sơn từ phía tây bắc đến đông bắc thị xã Lào Cai. Thế nhưng sau 7 ngày, 2 quân đoàn Trung Quốc không qua nổi trận địa đánh chặn, phục kích của quân và dân Hoàng Liên Sơn. Trên các mặt trận Lai Châu qua hơn 20 ngày, quân Trung Quốc vẫn bị chặn ở Phong Thổ…
Ngày 5.3.1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày, lãnh đạo phía Trung Quốc tuyên bố đã “hoàn thành mục tiêu chiến tranh” và bắt đầu rút quân.
Theo số liệu công bố, với hành động quân sự mưu toan phá hoại, trong cuộc chiến xâm lược biên giới của ta, phía Trung Quốc có 62.500 lính bị thiệt mạng, 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn bị tiêu diệt, thiệt hại; 550 xe quân sự trong đó có 220 xe tăng, xe bọc thép bị bắn cháy, 115 đại bác và súng cối hạng nặng bị phá hủy…
Về phía ta, các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Hàng triệu người dân bị mất nhà cửa, phương tiện sinh sống…

Ký ức 17/2/1979: Chuyện của người lính sống sót ở pháo đài tử thủ Đồng Đăng

 Chúng dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, chất hóa học vào các lỗ thông hơi, làm thiệt mạng tất cả chiến sỹ cũng như dân quanh vùng chui vào pháo đài lánh nạn.
Kỳ 1: Ngày 17/2 khốc liệt
Đồng Đăng, Lạng Sơn trong một chiều mưa phùn lất phất, cái lạnh lẽo cuối mùa đông làm khung cảnh thêm buồn bã.
Ngoài quốc lộ, hàng đoàn xe container xếp thành hàng dài, chở đầy hàng hóa chờ xuất sang Trung Quốc.
Không ai để ý tới bóng dáng một người đàn ông hơn 50 tuổi tập tễnh khó nhọc bước về phía Pháo đài Đồng Đăng.
Những người lớn tuổi nhận ra ông là một cựu binh thông qua bộ quân phục cũ kỹ khoác trên người. Người cựu binh đó đã trải qua những giây phút sinh tử của chiến tranh, mà bằng chứng là những vết sẹo chằng chịt trên khuôn mặt khắc khổ.
Bất chợt, ông run rẩy, ngâm những câu thơ trong bài thơ “Thần chiến thắng” của Chế Lan Viên: “Ôi, ta yêu đến đau thương Tổ quốc của mình/ Mỗi đất nước có một số phận riêng, một cuộc đời riêng, có phải?/… Cái ta xây cất mười năm, chúng thiêu tàn một buổi/ Tội ác ấy muôn đời không xóa nổi…”.
Những câu thơ đau ruột xót lòng. Hơn 36 năm sau cuộc chiến, những câu thơ ấy vẫn lay động tâm can, thức tỉnh ý thức con người.
Pháo đài Đồng Đăng hoang tàn đổ nát, cỏ mọc kít mít
Pháo đài Đồng Đăng hoang tàn đổ nát, cỏ mọc kít mít
Pháo đài Đồng Đăng – nơi diễn ra cuộc chiến anh hùng của mấy trăm chiến sỹ chống lại quân xâm lược Trung Quốc giờ quá hoang tàn, đổ nát. Người cựu binh đến đây, chỉ thấy rác lẫn kim tiêm của con nghiện vứt lại. Không một tấm bia, không một hình ảnh.
Hỏi chuyện xung quanh, thì nhiều người cũng chỉ biết rằng cuộc chiến ở Đồng Đăng, nhất là khu vực pháo đài nghe nói khủng khiếp lắm. Nhưng ít ai được chứng kiến, vì phần lớn đều chạy loạn khi cuộc chiến nổ ra, hoặc về sau họ mới tìm lên đây sinh sống.
Xung quanh pháo đài, tường đá đổ nát rêu phong, lau lách chi chít. 36 năm, lẽ nào cỏ dại đã mọc trùm ký ức?
Nhiều tài liệu ghi chép, lực lượng phòng thủ tại pháo đài Đồng Đăng dù không được chi viện nhưng đã kiên cường chiến đấu suốt 5 ngày trời, trụ được cho tới ngày 22/2/1979.
Ông Nguyễn Duy Thực kể lại thời khắc khốc liệt ở Pháo đài Đồng Đăng
Ông Nguyễn Duy Thực kể lại thời khắc khốc liệt ở Pháo đài Đồng Đăng
Ngày cuối cùng tại đây, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá đánh sập cửa chính.
Chúng dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, chất hóa học vào các lỗ thông hơi, làm thiệt mạng tất cả chiến sỹ cũng như dân quanh vùng chui vào pháo đài lánh nạn.
Ít ai biết rằng, vẫn có người sống sót. Và người cựu binh già đó là một trong mấy nhân chứng của cuộc chiến khốc liệt tại pháo đài Đồng Đăng 36 năm trước.
Ông là Nguyễn Duy Thực, ở phường Việt Hưng, quận Long Biên, Hà Nội. ông là cựu binh của Đại đội 42, Trung đoàn 4, Sư đoàn 3 đóng quân tại Lạng Sơn.
Ông Thực gia nhập quân ngũ và huấn luyện tại Lục Ngạn, Bắc Giang đầu năm 1978.
Cuối năm đó, khi Trung Quốc rục rịch gây chiến suốt toàn dải biên giới phía bắc, đơn vị của ông được lệnh tập trung tại Lạng Sơn. Bản thân ông cùng đại đội của mình đóng quân tại pháo đài Đồng Đăng, nơi mà chỉ ít lâu sau đã diễn ra cuộc chiến bi tráng của vài trăm con người chống lại cả mấy sư đoàn quân xâm lược Trung Quốc.
Chiến tranh biên giới. (Ảnh: internet)
Chiến tranh biên giới. (Ảnh: internet)
Nhắc lại thời điểm 17/2/1979, ông Thực rưng rưng: “Các bạn còn trẻ, chưa được chứng kiến cũng như không hình dung được hết sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng dù sao tôi còn may mắn hơn nhiều những đồng đội đã mãi nằm lại nơi biên cương này”.
Với ông, dù đã trải qua 36 năm, nhưng những ký ức về cuộc chiến vẫn như mới vừa hôm qua, và nó vẫn cứ đeo đẳng mãi về sau.
Năm 1979, Trung Quốc bất ngờ huy động hàng chục sư đoàn tấn công trên khắp tuyến biên giới với Việt Nam. Ở Trung Quốc, giới cầm quyền mị dân gọi đây là cuộc “phản kích tự vệ”, để “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Tuy nhiên, lẽ phải không thuộc về Trung Quốc bởi họ không có lý do nào chính đáng để giải thích cho hành động xâm lược này.
Trước đó, lúc mới hành quân lên biên giới, ông Thực cùng anh em Đại đội 42 đã chia nhau đào công sự, trấn giữ các mỏm đồi. Tuy nhiên, lán trại mới được dựng lên, vữa trát còn chưa khô, mái gianh còn xanh lá, mới có mấy ngày đã xảy ra chiến tranh.
Người cựu binh già nhớ lại: 5h sáng ngày17/2/1979, lúc mọi người đang chuẩn bị tập thể dục, thì bất ngờ phía bên kia biên giới, cách chỗ lán trại có vài km, tiếng pháo bắt đầu nổ ùng oàng, ánh chớp sáng rực góc trời, liên tiếp những quả đạn vượt qua pháo đài rơi xuống thị trấn Đồng Đăng.
Không ai bảo ai, mọi người đồng thanh hô to: “Tàu đánh rồi”. Tất cả chạy qua kho quân khí, mỗi người cầm 1 khẩu súng và tức khắc chạy lên các chốt phòng thủ.
Sau màn rót pháo, chỉ trong phút chốc, quân Trung Quốc rầm rộ tiến vào Đồng Đăng.
Đi đầu là xe tăng, bò lên bắn vào các cao điểm, phía sau là quân Trung Quốc tiến lên đủ chủng loại, kẻ chạy bộ, kẻ đi ngựa, kẻ ngồi trên xe quân sự tiến lên.
Thị trấn Đồng Đăng nhìn từ pháo đài
Thị trấn Đồng Đăng nhìn từ pháo đài
Một phát đạn B40 phóng xuống đám lính đầu tiên tiến gần đến pháo đài, cả tiểu đội tan xác. Những tên gần đó tóc tai cháy xém, mặt mũi lộ vẻ kinh hoảng, ngần ngừ không dám tiến. Ngay tức khắc, chúng bị những tên đi sau bắn chết, rồi cả biển người lầm lũi tiến lên, bất chấp súng đạn.
B40, ĐKZ, AK bắn toét cả nòng súng cũng không xuể trước chiến thuật biển người của quân Trung Quốc, ông Thực cùng đồng đội phải rút dần vào pháo đài cố thủ.
Đến trưa 17/2, các chốt cố thủ của Đại đội 42 từ con đường quanh đồi thông dẫn đến pháo đài cũng lần lượt bị mất.
Về sau mới biết, bên cạnh ưu thế về lực lượng, lại chủ động về thời gian xâm lấn, quân Trung Quốc còn được sự hỗ trợ của bọn phản động người Hoa. Chúng cắt hết dây thông tin liên lạc, dẫn lính Trung Quốc theo các đường hẻm lên chốt, những vị trí đóng quân của ta.
Trong pháo đài lúc đó có khoảng 700 con người, bao gồm Đại đội 42, một đơn vị cảnh sát dã chiến Đồng Đăng, công an vũ trang, cùng một số người dân chạy loạn tìm lên.
Lương thực dự trữ chỉ có chút ít, nhưng quân Trung Quốc tiến vào đã phá sạch, cướp sạch.
Một đồng đội kể lại với ông Thực rằng, ông chứng kiến phía sau đám lính là một đội dân binh rất đông di chuyển theo để hỗ trợ. Chúng là đội quân ô hợp hôi của. Chúng vào nhà dân bắt gà, bắt lợn chọc tiết, xuống cả ao bắt cá… Đám quân ô hợp ấy đặt bộc phá giật đổ nhà cửa dân cư.
Trên đường tìm về pháo đài, người đồng đội ấy đã tiêu diệt thêm mấy tên lính Trung Quốc. Khi chạy qua đám xác chết, ông còn gặp một tên chết trong tư thế hai tay còn ôm chặt bao khoai lang.
Còn tiếp…

Thứ Sáu, 13 tháng 2, 2015

Tổng hợp những bài viết cũ về chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979

1/  -BỘ SƯU TẬP HÌNH ẢNH CHIÊN TRANH BIÊN GIỚI 1979 - 1989

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/bo-suu-tap-hinh-anh-chien-tranh-bien.html


2/  -Chiến tranh biên giới 1979 từ lời kể của người trong cuộc......( phần 1)

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/chien-tranh-bien-gioi-1979-tu-loi-ke.html

3/  -Chiến tranh biên giới 1979 từ lời kể của người trong cuộc......( phần 2)

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/chien-tranh-bao-ve-bgpb-1979-1989-theo.html

4/  -Lại nhớ ngày 17-2-1979

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/lai-nho-ngay-17-2-1979.html


5/  -VĂN TẾ TƯỞNG NIỆM 6 VẠN ĐỒNG BÀO VÀ CHIẾN SĨ TỬ TRẬN THÁNG 2 NĂM 1979

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/van-te-tuong-niem-6-van-ong-bao-va.html

6/  -Hoa đào biên viễn: "Đồng chí với nhau, ai nghĩ sẽ đánh nhau" (Bài 2)

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/hoa-ao-bien-vien-ong-chi-voi-nhau-ai.html

7/  -Hoa đào biên viễn: Bia trấn ải - nơi tổ quốc được tô màu đỏ (Bài 3)

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/hoa-ao-bien-vien-bia-tran-ai-noi-to.html

8/  -Hoa đào biên viễn: Biên giới, hồi ức 35 năm (Bài 1)

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/hoa-ao-bien-vien.html


9/  -Phút bi tráng ở Pò Hèn, 17.2.1979

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/phut-bi-trang-o-po-hen-1721979.html


19/  -Tài liệu vế một nữ tù binh Việt Nam bị Tàu hãm hiếp tập thể rồi mổ ăn thịt

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/tai-lieu-ve-mot-nu-tu-binh-viet-nam-bi.html

11/  -35 năm cuộc chiến biên giới phía Bắc

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/35-nam-cuoc-chien-bien-gioi-phia-bac_17.html


12/  -Tháng Hai & Những bà mẹ

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/thang-hai-nhung-ba-me.html


13/  -Chuyện hai nàng liệt nữ xả thân đánh giặc cứu nước!

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/chuyen-hai-nang-liet-nu-xa-than-anh_13.html

14/  -1979 - Cuộc chiến không thể lãng quên

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/1979-cuoc-chien-khong-lang-quen.html


15/  -Nhớ lại đêm 17 tháng 2 năm 1979

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/nho-lai-em-17-thang-2-nam-1979.html

16/  -Những ngày căm hận của sinh viên Việt nam tại Liên xô

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/nhung-ngay-cam-han-cua-sinh-vien-viet.html


17/  -Người chứng kiến ngày 17/2/1979 tại Lào Cai kể lại

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/nguoi-chung-kien-ngay-1721979-tai-lao.html


18/  -Ngã xuống trên địa đầu Lũng Cú

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/nga-xuong-tren-ia-au-lung-cu.html


19/  -Đừng quên "Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới"

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/ung-quen-tieng-sung-vang-tren-bau-troi.html

20/  -Cuộc chiến 1979 và báo chí 35 năm trước

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/cuoc-chien-1979-va-bao-chi-35-nam-truoc.html

21/  -CUỘC CHIẾN BIÊN GIỚI VIỆT TRUNG : 2-1979 - MỘT CUỘC CHIẾN CỐ TÌNH BỊ LÃNG QUÊN HAY LÀ SỰ PHẢN BỘI CỦA ĐẢNG CSVN?

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/cuoc-chien-bien-gioi-viet-trung-2-1979.html


22/  -Ký ức về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 17/2/1979

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/ky-uc-ve-cuoc-chien-tranh-bien-gioi.html


23/  -GIẢI MẬT CON SỐ THƯƠNG VONG CỦA HAI BÊN TRONG CHIẾN TRANH TRUNG-VIỆT NĂM 1979

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/ai-giai-mat-con-so-thuong-vong-cua-hai.html

24/  -TÀU BỰA NÓI VỀ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI 1979

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/tau-bua-noi-ve-chien-tranh-bien-gioi.html


25/  -Biên Giới Tháng Hai (2009-1979)

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/bien-gioi-thang-hai-2009-1979.html


26/  -Tài liệu của CIA về cuộc chiến Việt – Trung

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/tai-lieu-cua-cia-ve-cuoc-chien-viet.html


27/  -Sư lãng quên của đảng và nhà nước làm cho nhân dân vô cảm với số phận của đất nước.

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/su-lang-quen-cua-ang-va-nha-nuoc-lam.html

28/  -35 NĂM TRƯỚC BCH TW ĐẢNG CSVN CÓ LỜI KÊU GỌI NHƯ THẾ NÀY.

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/35-nam-truoc-bch-tw-ang-csvn-co-loi-keu.html


29/  -Lịch sử không xu nịnh ai

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/lich-su-khong-xu-ninh-ai.html

30/  -Chiến tranh biên giới - 33 năm trước

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/chien-tranh-bien-gioi-33-nam-truoc.html


30/  -Chiến tranh biên giới 1979 và biểu tượng hoa sim

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/chien-tranh-bien-gioi-1979-va-bieu.html

31/  -Thà ơi em mau về đi học!

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/tha-oi-em-mau-ve-i-hoc.html



32/  -Mách nước nhân 35 năm Ngày Trung Quốc xâm lược !

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/mach-nuoc-nhan-35-nam-ngay-trung-quoc.html

33/  -Nhìn lại chiến tranh biên giới 1979

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/nhin-lai-chien-tranh-bien-gioi-1979.html

34/  -Tháng Hai

http://rbomtm.blogspot.ca/2014/02/thang-hai.html


35/  -Cuộc chiến 1979 và mạng xã hội

http://rbomtm.blogspot.ca/2013/02/cuoc-chien-1979-va-mang-xa-hoi.html