RFA xin giới thiệu truyện ngắn của tác giả Lê Mai mang tên: "Quyền được rên".Tác phẩm này không được in trong nước nhưng xuất hiện trên internet cùng lúc với tác phẩm "Con rồng đá" từng gây sự chú ý của dư luận trước đây.
Truyện ngắn "Quyền Ðược Rên" của nhà văn Lê Mai. RFA PHOTO
Nhà văn Lê Mai sinh năm 1953 và theo ông cho biết thì tính đến nay ông đã in được một số tác phẩm như sau:
"Tôi có in hai tập thơ, tập "Hạnh Phúc Muộn" và tập "Lỗi tại mùa xuân". Tôi cũng có viết ba cuốn tiểu tuyết là "Tẩu hỏa nhập ma" ở nhà xuất bản Văn Học, "Bạn cùng lớp" ở nhà xuất bản Quân Ðội và "Thời gia xuẩn ngốc" do nhà xuất bản Công an nhân dân in."
Phản ứng tự nhiên
Truyện ngắn "Quyền được rên" ngay cái tựa đã cho người đọc một cảm giác thích thú và cần tìm hiểu nội dung nó chứa đựng những gì.
Cảm giác đầu tiên mà người đọc có thể tưởng tượng là sự cấm đoán các hoạt động tình dục dưới thời bao cấp và những cặp tình nhân vốn sống chung đụng trong các khu tập thể chật hẹp dễ xảy ra những điều khôi hài mà các nhà văn thường kể lại trong những năm khó khăn trước 1975.
Truyện ngắn Quyền được rên anh Lê Mai viết về cuộc đời của nhà thơ Hoàng Công Khanh, là một nhà thơ trong nhóm Thi Nhân Thời Tiền Chiến cũng khá nổi tiếng. Ông ta bị tai nạn trong chuyện Nhân Văn Giai Phẩm thuộc lứa đầu tiên.
Nhà văn Vũ Ngọc Tiến
Thật ra Quyền được rên không dính gì tới chuyện tình dục mà truyện ngắn này mô tả phản ứng tự nhiên của con người khi bị tra tấn hay khi quá đau đớn do một nguyên nhân nào đó.
Nhà văn Vũ Ngọc Tiến, đồng tác giả của Con Rồng Ðá với nhà văn Lê Mai cho biết về ý tưởng mà Lê Mai dựa vào sáng tác truyện ngắn này:
"Anh Lê Mai là một cây bút cũng hơi ẩn dật. Truyện ngắn Quyền được rên anh Lê Mai viết về cuộc đời của nhà thơ Hoàng Công Khanh, là một nhà thơ trong nhóm Thi Nhân Thời Tiền Chiến cũng khá nổi tiếng. Ông ta bị tai nạn trong chuyện Nhân Văn Giai Phẩm thuộc lứa đầu tiên."
Câu chuyện bắt đầu khi sự kiện Nhân Văn Giai Phẩm nổ ra. Nhân vật chính là một nhà văn không có tên, khi nghe tin công an đang chú ý đến mình thì phản ứng đầu tiên của ông là sự không tin vào tai mình. Ông nhà văn cứ suy nghĩ mãi về những điều mà thi sĩ Phương, một trong những người được cho là biết khá nhiều các đề tài có liên quan đến các vụ ruồng bố của công an văn hóa.
Nhà văn chờ đợi trong âu lo những điều tệ hại nhất sẽ xảy ra cho mình, và điều đó đã xảy ra sau đó không lâu.
Nhưng nỗi hoang mang không phải kéo lâu. Vào một ngày, ông cũng không rõ nắng mưa ra sao, chỉ biết vào khoảng gần trưa, có hai người đàn ông ăn mặc bình thường cùng người tổ trưởng dân phố bước vào nhà. Họ yêu cầu ông đứng dậy, rồi một người dõng dạc đọc lệnh khám nhà.
Sau lệnh, tất cả giấy tờ, sách báo, bản thảo và cả những quyển sách Mác-Lê dày cộp cũng được xếp lên chiếc xích lô đỗ xịch trước cửa nhà. Ông cúi đầu lặng lẽ bước theo họ. Vẳng theo ông là những tiếng thút thít kìm nén của vợ con. Ðịnh dừng bước nói với vợ con vài lời, nhưng họng ông nghẹn ứ. Một cú huých nhẹ và một lời thúc giục nhỏ, nhưng đanh: Ði. Ði mau...
Những tháng ngày nối tiếp là một cơn ác mộng cho nhà văn. Ông lầm lũi sống trong nhà tù Hỏa Lò rồi Yên Bái...cuộc săn đuổi giữa tự do và tù đày hành hạ tâm hồn ông ngày này sang ngày khác. Chung quanh những bạn tù đủ mọi thành phần, ông hốt hoảng sống, hốt hoảng nhận ra mình chỉ là một thằng người lẻ loi trong cái xã hội kỳ quặc của bốn bức tường lạnh lẽo.
Những ngày lao động nhọc nhằn đã khiến ông gần như kiệt sức và cuối cùng thì ông nhận ra rằng muốn sống thì phải thích nghi với môi trường chung quanh, bất kể môi trường đó tàn nhẫn, độc ác thế nào.
Ông nhìn các nhân vật cùng trại tù với ông như Apao như họa sĩ Kha và nhận ra rằng sự hồn nhiên trong lúc ở tù của họ đã chiến thắng hoàn cảnh khắc nghiệt của trại giam. Từ đó ông chấp nhận sự giam hãm một cách lặng lẽ nhưng bền bỉ và không trăn trở hay nghĩ ngợi nhiều.
Anh Ðà Linh có khuyên chúng tôi cái truyện Quyền được rên nên để lại một dịp khác vì tính chất quá nhạy cảm của nó...
Nhà văn Vũ Ngọc Tiến
Mấy tháng sau, ông được giám thị gọi lên giao nhiệm vụ mới: làm y sinh - dùng lá lẩu quanh trại chữa bệnh cho phạm nhân của trại. Hồ sơ lý lịch cho họ biết, ông có tài vặt này từ khi ngồi tù thực dân ở Sơn La, có lẽ vậy. Tốt quá! Nhận nhiệm vụ mới ông rất vui. Vui vì nhiều lẽ. Từ đây ông được tạm chia tay với cuốc, với xẻng, với gánh phân... với những tối ngồi bình xét ngày lao động.
Từ đây không có người giám sát, ông sẽ có thời gian tranh thủ hái thêm mớ rau rừng, vồ thêm con cóc, đập thêm con rắn cải thiện bữa ăn, bồi dưỡng cơ thể để còn có sức mà về với mẹ đĩ. Ông bồi hồi nhớ tới lần vô tình nhìn thấy con cua đang lổm ngổm bò dưới đáy ruộng lúa.
Ông gạt vội đám đỉa lúc nhúc ngoe nguẩy trên mặt nước, ào xuống ruộng, vồ gọn mấy chú cua. Xé từng con ăn sống, mà chất ngọt chất bổ của con cua thấm đến đâu ông biết rõ đến đấy. Ðúng là bổ hơn cả nhân sâm.
Từ đây, ông sẽ có dịp la cà sang các lán chuyện trò, thỏa chí tò mò ham biết của nhà văn. Và nhất là việc trị bệnh cứu người còn giúp ông nuôi dưỡng ngọn lửa tính người mà giờ đây trong ông nó chỉ còn leo lét cháy...
Ông gặp khá nhiều hoàn cảnh cả vui lẫn buồn trong khi ở tù. Những cái chết của tù nhân khiến ông suy nghĩ về cái bé mọn của con người trong đó có ông. Ðiều khôi hài nhất là bỗng dưng ông sợ được ra tù vì ông biết rằng đang khi ở tù thì ông còn được một số ít thời gian hiếm hoi để suy nghĩ, để trao đổi với bạn tù nhưng khi ra tù thì người ta sẽ xa lánh ông vì sợ liên lụy.
Kể cả bạn bè. Chơi với một tù chính trị không khác nào chơi với lửa và chắn chắn rằng họ sẽ dần dần xa lánh ông thôi...
Còn nữa..cái ngày ra tù là ngày ông phải đối phó với các thực tế khác đó là tem gạo, là hộ khẩu. Ông lạnh lưng khi nghĩ tới cái ngày ra tù đầy bất trắc trước mặt. Và rồi phải làm việc nữa chứ. Ông phải làm việc, phải làm việc....điệp khúc làm việc lẩn quẩn trong đầu ông như một ám ảnh. Ông giật mình nhớ ra rằng có mấy ai nhận một gã tù như ông làm việc trong cơ quan của họ. Chỉ nghĩ đến đấy, ông không còn ham hố ra tù...
Rên cũng là tội...
Cuối cùng thì ông cũng thoát ra cái trại giam ở Yên Bái để hòa mình vào đời sống. Bắt đầu bằng nghề đẩy xe bò, rồi đi buôn chó...cùng nhiều nghề lạ lùng khác. Làm gì thì làm nỗi ám ảnh được cầm bút trở lại vẫn theo đuổi ông suốt.
Ông mơ cái ngày mình ngồi vào bàn viết và viết như một nhu cầu bức thiết chứ không phải chỉ để giải sầu. Ông suy nghĩ thật nhiều những đề tài mà mình sẽ viết. Viết thôi, không cần in ấn, không cần độc giả. Ông viết cho ông đọc. Một mình ông đọc mà thôi...
Ông lập cập đeo kính rồi lập cập ngồi ngay ngắn trước màn hình, tay bật máy, tay rê rê con chuột. Rồi như có sức mạnh của quyền năng, các ngón tay ông bắt đầu múa nhanh trên bàn phím. Những con chữ hối hả chen nhau xuất hiện trên màn hình. Ông cứ gõ, gõ, tay như múa... Bỗng ông giật mình ngừng tay khi chợt nghe thấy tiếng nấc rất quen thân của vợ. Tiếng nấc của một thời tưởng đã là ngày xửa ngày xưa, không bao giờ trở lại.
- Ông!... Ông viết cái gì thế này? Sao lại bắt đầu bằng ngày ông bị đi tù, hở giời!
- Tôi viết lại những kỷ niệm buồn vui của đời mình ấy mà.
- Ông dừng ngay, dừng ngay không được viết nữa! Tôi lạy ông, xin ông đấy. Bới lại những cái đó làm gì. Phế thải hạt nhân đã chôn rồi thì không được bới, nguy hiểm lắm, ông a...à...ạ!...
- Bà yên tâm. Bây giờ đổi mới rồi. Con người đối xử với nhau nhân văn hơn trước nhiều rồi. Mà bà còn lạ gì tôi, nào có biết hận thù, căm uất ai đâu mà bà phải lo, phải sợ. Họ đánh mình đau quá thì mình rên. Rên cho nó đỡ đau, bà ạ! Con người ai chẳng có quyền được Rên.
- Sắp xuống lỗ rồi mà ông còn thơ ngây thế? Ông tưởng Rên là tội nhẹ lắm ư? Các ông ngày xưa ngợi ca - hát ông ổng còn bị kẻ độc miệng cho mang vạ. Giờ lại đòi Rên. Quyền được Rên! Ơ hơ...quyền được Rên! Ngớ ngẩn, ngớ ngẩn hết chỗ nói...
Nghe vợ mắng, ông buông tay sững sờ... ờ... ờ... Bà ấy nói... Bà ấy nói... Ông đưa mắt nhìn ra ngoài trời... Mưa! Mưa! Mưa vẫn xối xả. Trong làn mưa mù mịt ông lại thấy quản giáo Quang lừ lừ đi vào, tay vẫy vẫy, miệng làu bàu mà như ra lệnh cho ông: Hồ hởi, phấn khởi nhé! Hồ hởi, phấn khởi nhé!
Một làn gió lạnh thổi thốc vào nhà. Ông rùng mình, tê buốt.
Truyện ngắn "Quyền được rên" lẽ ra đã được in chung với tập truyện "Con Rồng Ðá" thế nhưng theo nhà văn Vũ Ngọc Tiến kể lại thì số phận của truyện ngắn này vẫn còn khá gian nan.
-Anh Ðà Linh có khuyên chúng tôi cái truyện Quyền được rên nên để lại một dịp khác vì tính chất quá nhạy cảm của nó...
Cho tới giờ này, truyện ngắn "Quyền được rên" vẫn nằm trong ngăn kéo của Lê Mai. Ông không tin rằng nó sẽ xuất hiện trở lại trong tủ sách văn nghệ mặc dù như ông đã cho biết ông từng có tác phẩm được nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành trước đây.
Mặc Lâm, phóng viên đài RFA
Copyright © 1998-2009 Radio Free Asia. All rights reserved.
QUYỀN ĐƯỢC RÊN
Lê Mai
Lời thưa của Vũ Ngọc Tiến: Trong chuyến lãng du phương Nam vừa rồi,
mỗi lần về Sài Gòn, tôi thường cùng bạn bè trong văn giới tụ họp tại quán café
Bông giấy (53 Trần Quốc Thảo), gần trụ sở Hội nhà văn thành phố (số nhà 81). Hễ
nhắc chuyện quanh vụ cuốn Rồng Đá, nhiều người lại bông phèng trách yêu: “Sao
Vũ Ngọc Tiến tham thế, đã có 2 truyện vừa còn thêm 5 truyện ngắn là 7, chỉ để
cho Lê Mai in chung có 6 truyện cười ngắn toen hoẻn(?!). Thật ra Lê Mai
có gửi in 1 truyện khá dài, nhưng biên tập viên và anh Đà Linh đã thận trọng
gác lại vì “ nhạy cảm”. Xem thế đủ biết quan điểm của anh Đà Linh là không thèm
xếp các truyện chiến tranh của Vũ Ngọc Tiến vào “ô nhạy cảm” bằng truyện dưới
đây của Lê Mai. Trân trọng giới thiệu cùng bạn viết, bạn đọc để hiểu thêm về
cây bút đa năng này.
*
*
*
Cuốn
tiểu thuyết thứ 8 ông mới in xong được vài ngày đã nhận được nhiều lời chúc
mừng của bạn bè thân hữu. Ông vui. Ông tự thưởng cho mình vài ngày nghỉ ngơi để
xả hơi, trước khi bắt tay vào việc hoàn thiện tập thơ tự sự của đời. Ông pha ấm
chè Thái thật nóng. Ngồi nhâm nhi một mình trong căn nhà tuyềnh toàng đồ đạc,
ông lơ đãng nhìn ra ngoài trời. Mưa! Mưa quá! Ngâu mà…
Chuông điện thoại ré lên như
động cỡn. Ông nhấc máy, nhỏ nhẹ:
- Alô. Ai đấy ạ! Tôi là
Hoàng, xin nghe.
- Hoàng hả. Khỏe chứ! Kha lán
9 đây! Nhớ không! Cuốn “Lẽ đời” được đấy. Hồ hởi, phấn khởi nhé!...
Ông giật thót người, buông
rơi ống nghe xuống nền nhà. Trong màn mưa dầy đặc ông bỗng thấy quản giáo Quang
lừ lừ đi vào. Vẫn da mặt bì bì, xàm xạm; vẫn cái phẩy mạnh tay vào không gian;
vẫn cái miệng hơn hớn nói trước mọi phạm nhân: “Hồ hởi, phấn khởi nhé!” Ông
chăm chắm nhìn quản giáo Quang… Những ký ức của hơn bốn mươi năm trước tưởng
mãi mãi bị chôn vùi bỗng ào ạt sống dậy trong ông…
“Bao giờ đậy nắp áo quan
Mang theo xuống huyệt nỗi oan
tày đình…”
Thơ ông từng viết thế.
Sau hội nghị Ấp Thôn, ông
thấy mình rất hoang mang. Ở đâu, làm gì, ông cũng thấy như mình bị theo dõi,
nghi ngờ. Nhiều người bạn vẫn ngày ngày bù khú, đàm đạo, trò chuyện với ông,
giờ đây hình như họ tìm cách lảng tránh. Ông lơ mơ đoán: có chuyện rồi. Nhưng
là chuyện gì thì ông chịu. Ông uể oải đạp xe đến nhà thi sĩ Phương – người nổi
tiếng với biệt danh “Biết tuốt” để dò hỏi. Với vẻ mặt quan trọng của kẻ “biết
tuốt” những bí mật quốc gia, thi sĩ Phương nhẩn nha nói: “Có nhiều người dò hỏi
về cậu lắm, cậu phải liệu. Nghe nói, ở hội nghị Ấp Thôn người ta xếp cậu là Kẻ
nổ phát súng đầu tiên của phái Nhân Văn đấy. Nổ phát súng đầu tiên, cậu hiểu
không?” Nghe thế, ông trợn tròn mắt nói:
- Vô lý! Họ căn cứ vào đâu mà
kết luận thế. Vô lý. Thậm vô lý!.
- Họ không vô lý đâu. Họ dựa
vào đơn tố cáo của thằng Năng Lé. Nó dựng đứng chuyện cậu dịch bài “Văn nghệ và
chính trị” của Lỗ Tấn là khơi mào cho một âm mưu. Tưng tửng hỏa mù thế thôi!
Đấy, cái chết của anh em mình nằm ở chỗ ấy đấy. Văn chương mà, hiểu thế đếch
nào chẳng được.
Lời tủng tẳng của thi sĩ
Phương làm ông đã hoảng lại càng thêm hoảng…
Nhưng nỗi hoang mang không
phải kéo lâu. Vào một ngày, ông cũng không rõ nắng mưa ra sao, chỉ biết vào
khoảng gần trưa, có hai người đàn ông ăn mặc bình thường cùng người tổ trưởng
dân phố bước vào nhà. Họ yêu cầu ông đứng dậy, rồi một người dõng dạc đọc lệnh
khám nhà. Sau lệnh, tất cả giấy tờ, sách báo, bản thảo và cả những quyển sách
Mác-Lê dày cộp cũng được xếp lên chiếc xích lô đỗ xịch trước cửa nhà. Ông cúi
đầu lặng lẽ bước theo họ. Vẳng theo ông là những tiếng thút thít kìm nén của vợ
con. Định dừng bước nói với vợ con vài lời, nhưng họng ông nghẹn ứ. Một cú
huých nhẹ và một lời thúc giục nhỏ, nhưng đanh: Đi. Đi mau…
Trại 12 Hỏa Lò, vẫn thế - ông
đưa mắt nhìn quanh. Trước thời gian, mọi vật đều biến đổi. Nhưng có lẽ, nhà tù
là nơi biến đổi chậm hơn cả. Vẫn cái nhà xí mốc meo, hôi thối. Vẫn cái bể nước
tầng tầng lớp lớp rêu phong. Vẫn cái không gian mờ mờ ẩm ẩm. Ở đây, hơn mười
năm trước ông cùng các tù nhân trong trại đã tận mắt chứng kiến những giây phút
bi tráng cuối cùng của người chiến sĩ cộng sản họ Hoàng trước khi ra pháp
trường. Cũng ở đây, ông phải căng đầu suy nghĩ để chống lại những cuộc hỏi cung
mưu mô và căng thẳng của bọn Phòng Nhì Pháp. Hơn mười năm trước, tang chứng vật
chứng “phản lọan” của ông và các đồng chí đã rõ ràng nên kẻ thù mới đầy được
ông lên Sơn La… Giờ tang chứng, vật chứng có gì đâu cơ chứ! Hơn nữa, lòng
ông sạch. Ông thanh thản chờ đợi cuộc hỏi cung để tự biện minh cho mình. Nhưng…
Chờ mãi, chờ mãi vẫn chẳng thấy gì. Nửa tháng sau, ông được đưa lên núi rừng
Yên Bái. Những thâm niên ở nhà tù Hỏa Lò, Sơn La ngày trước bỗng thức dậy trong
ông một sự dò kiếm, tìm hiểu những điểm giống nhau, khác nhau giữa chúng với
trại cải tạo Yên Bái của ta bây giờ. Núi thì cũng điệp trùng, rừng thì cũng âm
u đến như Sơn La là cùng. Có lẽ nhà tù Đế Quốc hiện đại hơn, nhiều bê tông,
nhiều kẽm gai sắt thép hơn và dữ dằn hơn – lính canh gác quanh mình đầy súng
đạn, còn ở đây thì… chỉ những lán tre nứa, ọp ẹp; chỉ những sạp giường nứa gồ
ghề và những hàng rào tre nứa sơ sài và những anh quản giáo hiền hiền ngô ngố.
Nhưng chớ coi thường… Ở Sơn La còn có thể vượt ngục được nhưng ở đây thì… trốn
ra ngoài rồi sống ở đâu, vợ con sẽ ra sao? Ông khẽ rùng mình. Ở lán trung tâm
ông thoáng nhìn thấy văn sĩ Phùng, thi sĩ Thảo, họa sĩ Phạm. Mấy gã còn nháy
mắt gật đầu trêu ông như ở ngoài đời. Ông vội quay mặt, lờ đi như không biết gì
– kinh nghiệm tù dạy ông phải thế. Sao lại đông thế nhỉ? Họ mắc tội gì? Ông
thèm được nói chuyện với họ quá mà không dám nhìn lâu.
Lán 9 – nơi ông ở có 16 phạm
nhân. Mươi anh ăn cắp vặt, du thủ du thực; dăm anh đâm người, đánh vợ; ông và
Apao (nghe nói, đâu như anh này chứa chấp thổ phỉ). Một dãy nhà tre nứa, tuềnh toàng,
ọp ẹp nằm thườn thượt như nấm mồ hoang, cỏ chui qua vách nứa. Ông hòa nhập nhịp
sống của trại rất nhanh. Sáng sáng, khi hồi kẻng lành lạnh rờn rợn ré lên, là
ông đổ nước vào miệng, súc òng ọc vài cái rồi ra lĩnh củ khoai ăn sáng. Xong là
ra lĩnh cuốc xẻng, quang gánh – công cụ cho một ngày lao động. Định mức là rất
rõ ràng cụ thể, nhưng có hoàn thành hay không lại là việc không quan trọng.
Quan trọng là ý thức: phân công việc gì cũng chấp hành không ý kiến, không thắc
mắc. Quan trọng là: khi có mặt quản giáo phải cố làm việc hăng say, chờ lúc
quản giáo vẫy tay gọi phải nhanh nhẹn chạy đến, đứng cách xa 3m cúi đầu, lắng
nghe lời huấn thị, giáo dục của quản giáo: “Hồ hởi, phấn khởi nhé – Đào sâu suy
nghĩ nhé!” Tất cả chỉ có thế thôi. Rồi buổi tối ngồi gật gà bình xét. Khổ, đói
rồi cũng quen, nhưng nhớ nhà thì không thể. Chiều chiều, sau bữa cơm thấy Apao
lánh riêng ra một chỗ, đăm đắm nhìn rừng núi thâm u là ông lại lặng lẽ rơi nước
mắt. Apao nó đang nhớ nhà, nhớ rừng… Ngày ông bị bắt, đứa con út mới sinh được
mấy ngày, mới chỉ kịp đặt tên. Vợ đã yếu giờ lại bị cho thôi việc. Tấm thân gày
còm ấy giờ đây biết làm gì để nuôi bốn đứa con nhỏ dại. Tuần trước, nghe nói,
họ cử cán bộ đến tận nhà vận động vợ con ông đi xây dựng vùng kinh tế mới. Hoàn
cảnh kinh tế khó khăn… Những lời nói đường mật… Những viễn cảnh ngọt ngào… Lòng
ông nóng như lửa đốt. Ông muốn thét vào không gian dặn vợ: “Cố bám chặt lấy phố
phường. Cống rãnh, đường phố sẽ giúp Em và các con vượt qua hoạn nạn.” Nhưng
núi rừng trùng điệp thế, không gian mang mang thế làm sao ông dặn nổi vợ con!
Ông đau đáu thấy mình có tội với vợ con. Bất lực, bí tắc, ông lê chân đến đứng
trước mặt người quản giáo – người trạc tuổi con ông, chưa đọc thông viết thạo.
Ông chắp tay, cúi đầu, giữ đúng khoảng cách 3 mét rồi nhỏ nhẹ thưa: “Thưa cán
bộ, trường hợp tôi bao giờ thì được ra toà?” Ra tòa! Phải! Ra tòa! Các
phạm kinh tế hay hình sự ở lán ông ai cũng đã được ra tòa. Họ có án đàng hoàng.
Họ biết rõ ngày đi – cũng biết rõ ngày về. Còn ông… Ông mong ước được ra tòa.
Ra tòa – ông nghĩ: Mọi việc sẽ được phân định rõ ràng. Trắng ra Trắng. Đen ra
Đen. Lúc ấy, dẫu có phải đi tù ông cũng không oan ức. Người quản giáo nhìn ông.
Nhìn từ đầu xuống chân rồi khinh khỉnh nói:
- Ông là nhà văn có tiếng mà
còn dốt thế! Tù rồi còn đòi ra tòa làm gì?
Ông lạnh người nhận ra cái
tuyệt đúng, tuyệt gọn, tuyệt dễ hiểu của lời lẽ anh quản giáo, nhưng như thế
thì mông lung quá, mịt mờ quá… Ông rụt rè thưa tiếp:
- Nếu không ra tòa, không có
án tôi biết sao được tội gì? Hình phạt là bao nhiêu năm?
Nhìn ông, anh quản giáo cười hiền,
tỏ ý thông cảm:
- Dốt thế, ở tù cũng đáng...
Ông là đi học tập, đi cải tạo chứ có phải tù đâu mà hỏi án bao nhiêu năm. Đi
học tập, đi cải tạo thì bao giờ học tập tốt, cải tạo tốt thì… ra trường. Tốt
nghiệp ý mà! Muốn biết bao nhiêu năm thì phải tự hỏi mình chứ hỏi gì tôi. Thôi,
hồ hởi, phấn khởi nhé!.
Ông ghìm tiếng thở dài ngao
ngán, biết mình rơi vào tình trạng sống dở chết dở rồi, muốn thoát khỏi nó chỉ
còn cách:
“… Tôi đã sống rất nhiều ngày
thảm hại
Khôn ngoan không dám làm người
Bao nhiêu lần tôi không thực
là tôi…”
Phải biết chấp nhận thực tại.
Chấp nhận một cách hồn nhiên và phải luôn hồ hởi, phấn khởi. Apao đấy. Họa sĩ
Kha đấy. Họ đi tù rất hồn nhiên, đâu có trĩu nặng như ông. Càng hồn nhiên, giác
ngộ tốt, hồ hởi, phấn khởi, sẽ càng chóng… ra trường.
Mấy tháng sau, ông được giám
thị gọi lên giao nhiệm vụ mới: làm y sinh – dùng lá lẩu quanh trại chữa bệnh
cho phạm nhân của trại. Hồ sơ lý lịch cho họ biết, ông có tài vặt này từ khi
ngồi tù thực dân ở Sơn La, có lẽ vậy. Tốt quá! Nhận nhiệm vụ mới ông rất vui.
Vui vì nhiều lẽ. Từ đây ông được tạm chia tay với cuốc, với xẻng, với gánh
phân… với những tối ngồi bình xét ngày lao động. Từ đây không có người giám
sát, ông sẽ có thời gian tranh thủ hái thêm mớ rau rừng, vồ thêm con cóc, đập
thêm con rắn cải thiện bữa ăn, bồi dưỡng cơ thể để còn có sức mà về với mẹ đĩ.
Ông bồi hồi nhớ tới lần vô tình nhìn thấy con cua đang lổm ngổm bò dưới đáy
ruộng lúa. Ông gạt vội đám đỉa lúc nhúc ngoe nguẩy trên mặt nước, ào xuống
ruộng, vồ gọn mấy chú cua. Xé từng con ăn sống, mà chất ngọt chất bổ của con
cua thấm đến đâu ông biết rõ đến đấy. Đúng là bổ hơn cả nhân sâm. Từ đây, ông
sẽ có dịp la cà sang các lán chuyện trò, thỏa chí tò mò ham biết của nhà văn.
Và nhất là việc trị bệnh cứu người còn giúp ông nuôi dưỡng ngọn lửa tính người
mà giờ đây trong ông nó chỉ còn leo lét cháy… Nghe đồn, ở lán chân đồi còn gọi
lán Đồi Ma có nhốt một phạm lạ. Phạm này chẳng biết mắc tội gì. Cũng chẳng biết
có điên hay không. Chỉ biết từ ngày vào trại hắn chỉ nói, nói sang sảng, nói
toàn đúng, nói tới mức giám thị trại phải nhốt riêng hắn ra một lán khuất nẻo.
Hôm trên đường sang lán 4 chữa bệnh, ông ngó trước ngó sau không thấy ai liền
tạt sang lán Đồi Ma. Đúng lời đồn, khi còn cách lán vài chục mét ông đã nghe
tiếng nói sang sảng phát ra. Giọng nói có âm có sắc, tròn vành rõ chữ, khúc
triết mạch lạc nhưng đã đuối. Ông ghé mắt nhòm qua vách lán. Trong không gian
tử thần có một bộ xương người ngồi ngay ngắn trên mặt sạp nứa dài thườn thượt.
Từ lỗ thủng sâu hoắm trên chiếc đầu lâu sang sảng phát ra tiếng nói rất hay và
tuyệt đúng. Ông rùng mình, bỏ chạy. Hai ngày sau hắn chết. Ông ghìm tiếng thở
dài, thương lắm số kiếp một sinh linh nhỏ bé. Con người có số phận không? Ông
nhớ, sau lần vượt ngục Sơn La, tổ chức Đảng cho người tìm đến tận nhà giao cho
ông một cái chức kha khá… Tiếp theo là những ngày hoạt động sôi nổi, tràn đầy
hào khí. Những bài thơ, trang văn, lời kịch đậm đà lòng yêu nước diết da toát
ra trong bản ngã của con người nhân hậu có sức hút công chúng lạ lùng. Ông hừng
hực sống. Ông rạo rực sống. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, toàn Đảng toàn dân
náo nức bước vào thời kỳ xây dựng CNXH, ông háo hức vung ngọn bút náo động kịch
trường. Ngày đêm ông say sưa làm việc, lúc viết kịch bản, viết báo, viết thơ…,
khi làm đạo diễn chọn diễn viên, phân vai, chọn cảnh; lúc gặp người này, khi
người khác gặp… náo nức tưng bừng… Thế mà bỗng nhiên, thoắt một cái thành thằng
tù xa vợ, lìa con, bạn bè lảng tránh…
Ông ngậm ngùi chợt nhớ đến
cái ngày ra tù… “Một ngày tù nghìn thu ở ngoài”. Ra tù, ở Yên Bái tiếng ấy reo
vang, hừng hực như lửa phát nương nhưng khi về đến đô thành nó trở thành đốm
lửa ma lạnh lẽo. Ở Yên Bái bạn tù lưu luyến tiễn đưa, về đến nhà không bạn bè
thăm viếng. Thậm chí mấy ngày sau, ra phố vô tình gặp người bạn văn (người bạn
hiểu rõ nỗi oan khuất của ông giờ đã có chức có quyền trong làng văn nghệ),
người đó kéo sụp mũ che mặt lảng tránh… Cũng phải thôi, họ sợ liên lụy. Ông tự
nhắc mình: giờ đây trong quan hệ mình phải thận trọng giữ gìn đừng để liên lụy
đến bạn bè hàng xóm. Ngày ông đến đồn công an trình báo, người chiến sĩ công an
trạc tuổi con ông (cái tuổi mà khi ông và đồng đội bừng bừng dũng khí tham gia
cướp chính quyền thực dân – phong kiến, chúng còn đỏ hỏn) nghiêm khắc, ân cần
giáo dục và nhắc nhở ông phải sống sao cho ra sống. Lòng ông nhức nhối, buốt
đau. Giá trước đây thì… Nhưng giờ đây, sau những lời giáo huấn đó là hộ khẩu,
tem gạo; là người vợ và những đứa con xanh xao, gầy còm, ngơ ngác sống, rụt rè
sống, nhẫn nhục sống… Ông lểu thểu về nhà, lăn ra giường và nghĩ miên man. Phải
kiếm việc để làm ngay – ông tự nhủ. Nhưng, làm gì? Văn sĩ Đoàn nói: “Vì không
biết làm gì, tôi phải làm nhà văn.” Còn ông, đến nhà văn cũng không được làm
thì làm gì? Làm gì?... Té ra, một ngày ở ngoài nghìn thu ở tù. Ông lò dò đến
thùng gạo. Mở nắp thùng thấy chỉ còn vài lon gạo. Ông giật mình hiểu ra cái
khảnh ăn của vợ con. Thảo nào, vợ con ông gầy gò, xanh xao thế! Phải tìm việc
đi làm ngay – ông tự nhủ rồi đi luôn đến nhà văn sĩ Trần. Nghe nói, mình đi Yên
Bái được ít lâu thì cậu ấy cũng bị nghỉ việc. Lăn lộn hè phố lâu rồi, chắc cậu
ấy có nhiều mối tìm việc, lo gì ế! Ông căng mắt nhìn xiên vào lớp không gian mờ
mờ ảo ảo, trống trải, lạnh lẽo như căn nhà mồ và giật mình, ngơ ngác khi nhận
ra hình dạng người bạn nối khố. Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu! Đúng là:
hết thời kỳ oanh đến thời kỳ liệt. Còn đâu văn sĩ Trần đầy vẻ tinh tướng. Ăn
mặc thì phong lưu, đài các. Lời nói thì khúc triết, văn hoa. Đi đứng thì ung
dung tự tại. Giờ đây, văn sĩ Trần lừng danh đang ngồi co ro như chú gà rù trên
chiếc giường giẻ quạt cũ, đầu gối quá tai, nom rũ rượi, thê lương hơn con bù
nhìn trên ruộng. Vừa nhìn thấy ông, văn sĩ Trần hơi ngửa mặt cười và nói luôn:
- Học tập xong rồi hả? Giác
ngộ rồi, đến giáo huấn ta đấy phỏng?... Ngẫm kỹ thấy anh cũng giỏi. Giỏi lắm!
Người đời phải gây tội mới được tù. Còn anh, chẳng phải nhọc xác gây gì cũng
được tù. Thời Pháp đi tù thời Pháp. Thời ta đi tù thời ta. Thời nào cũng được
tù. Dễ thường nghề tù cũng đến kịch bậc rồi chứ kém cỏi gì!
- Tưởng cậu hộ khẩu ngoài
đường phố. Biết đâu lại “cấm cung” thế này! Yếu liễu đào tơ quá! Nghe nói, tớ
đi Yên Bái được mấy tháng thì cậu cũng có quyết định cho thôi việc hả?
- Quyết định quyết đeo gì
đâu. Sau mấy hôm kiểm điểm, đến cơ quan làm việc tự dưng thấy anh em nhạt nhẽo
với mình quá. Cứ xà vào đâu thì chúng nó hình như lại lảng đi. Cũng chẳng thấy
thủ trưởng phân công công việc… Được vài hôm như thế thì chán, thì nghỉ, chứ
quyết định quyết đeo gì. Ông Trương, thằng Phùng, thằng Nguyễn cũng nghỉ việc
cơ quan rồi. Thằng Phùng ra bờ hồ cắt tóc, gần cây đa ở đền Ngọc Sơn ấy. Ông
Trương tối tối xách sọt đi các chợ, bới rác nhặt lá lẩu về nuôi lợn, nuôi
người. Thằng Nguyễn đi đội than ở Vọng. Ông có biết thằng Văn không? Thằng ấy
hóa ra số sướng ông ạ. Khi ở nhà, thì nhà cạnh hồ, tha hồ sát cá. Giờ lại được
điều đến nông trường trông giữ mía cho Hợp tác xã ông ạ. Đúng là chuột sa chĩnh
gạo. Phải tay ông thì, mía sẵn đấy ông cứ “tẩn” cho đã đời.
- Ông tìm được việc làm ổn
định như chúng nó chưa?
- Ông lạ gì tôi. Tôi thì làm
được cái đếch gì ngoài việc viết. Học từ tấm bé đến giờ. Cái kìm còn không biết
cách cầm. Mó phải cuộn dây điện nằm trong tủ còn sợ giật. Giờ không được viết
nữa thì ở nhà trông nhà, nấu cơm, cho vợ với cái mẹt thuốc lá lê la đầu đường
xó chợ. Thương bà ấy, trước tôi cũng lò dò ra giúp thêm. Nào ngờ cứ dò ra lần
nào là lần ấy mẹt thuốc bị bắt. Họ không bắt mình mà chỉ bắt mẹt thuốc mới đau.
Sau bà ấy cấm chỉ, bắt tôi cấm cung ở nhà. Lúc nào buồn quá thì… “Mây ở đầu ô,
mây lang thang”…
- Nghe nói, cậu Hoàn – bạn
con chấy cắn đôi với cậu, dạo này lên to lắm. Đến nhờ nó một câu việc gì chẳng
xong. Có việc làm nó mới ra con người ông ạ.
- Tớ đếch đến! Mình gặp nạn
nó không đến, mình lại mò đến xin xỏ, nhờ vả nó thì còn ra đếch gì cái tình
bạn. Mà có lẽ bạn mình tinh những loại hiểu biết, giỏi giang, vô tình gặp mình
trên phố chúng đều biết cách kéo sụp mũ xuống che mặt, lảng tránh. Làm vậy đỡ
khó xử ông ạ!
“ Mai sau có gặp lại nhau.
Xin đừng cúi mặt để đau lời
chào.”
Nó không đánh hôi mình thế là
tốt rồi.
- Nó thù ghét gì mình mà đánh
hôi. Chẳng qua là do bị phân công mà phải viết thôi. Thông cảm với chúng nó –
người mà.
- Ông ở xa nên không biết.
Đúng là chúng nó chẳng có thâm thù gì với mình. Đúng là có đứa bị phân công,
nhưng cũng có đứa vì chút lợi lộc, quyền chức nhỏ nhoi mà a dua, xiểm nịnh. Có
đứa té nước theo mưa để ra vẻ ta đây là oai, là quan trọng, là trung thành và
cách mạng tới cùng… Lão Sơn đấy, khi bài Nam Chinh mới ra đời thì hết lời khen
ngợi, tụng ca, giờ thì quay ngoắt 180 độ phê cái này, phán cái kia, đọc mà lợm
giọng. Nhưng thôi, giờ cái gì đã qua rồi thì cho qua luôn, không giữ cho khỏi
rặm bụng. Hỏi thật nhá: Hôm nay anh đến định nhờ tôi xin việc chứ gì? Phải thì
khai ra!
- Phải! Nhưng tôi về đây. Ốc
còn chẳng mang nổi mình ốc…
- Thế mà lại mang được cọc
cho rêu đấy. Ông có thích đi đẩy xe bò không? Đẩy thôi. Phụ thôi. Không được
cầm càng đâu. Cầm càng là phải giỏi lắm! Lớ ngớ nó tùng bê mẹ xe bò lên, người
lơ lửng trên không trung như con nhái bén ấy. Tôi có quen anh tổ trưởng tổ vận
chuyển Toàn Thắng. Chưa bại lần nào. Ở đấy họ đang cần tuyển một người đẩy xe
kiêm bốc dỡ hàng. Lương công nhật đồng tư một ngày, không cao lắm nhưng cũng
nhiều hơn tiền công đan thuê của mấy con vịt giời nhà ông. Bở đấy. Thích thì
tôi xin cho. Áo quần đầu tóc lếch thếch thế này là tốt rồi nhưng… phải cái là
da còn trắng quá, mịn quá.
- Bở đấy. Ông làm đi. Tôi đâu
dám cướp “nắm cơm chim” của bạn.
- Tôi cũng muốn làm lắm nhưng
họ không dám nhận. Không dám nhận ông hiểu không? Cái tình thế khốn nạn của tôi
là thế đấy. Thà như ông đi tù rồi là xong. Thằng tù rồi thì làm gì mà chẳng
được. Còn thằng tôi, thật sống dở chết dở…Việc đang làm thì tự nhiên nghỉ. Bài
viết chẳng dám in… Chẳng có tai tiếng gì nên thiên hạ họ vẫn nghĩ mình cao sang
lắm… Anh đây công tử không nhà. Cái áo đi mượn cái quần đi thuê… mà họ vẫn
tưởng là ông nọ bà kia. Tôi đã xin tay tổ trưởng rồi, hắn tưởng tôi nói lỡm nên
lại nói dỗi, càng làm mình thêm đau. Thế có chết cha mình không. Thôi, không
dài dòng, ông theo tôi đến gặp nó ngay, không nó nhận người khác thì khốn…
Ông từ từ mở mắt, nhấp nhẹ
một hớp chè, tự thưởng cho cái trí nhớ của mình. Mấy chục năm ba chìm bảy nổi
ngỡ tưởng tất cả đã trôi vào quên lãng, nào ngờ… Ông nhớ rõ từng chi tiết, từng
từ ngữ, từng biến thái sắc mặt của văn sĩ Trần trong cuộc trò chuyện đó. Giờ
đây bạn ông đã là người thiên cổ. Hết rồi, đời của một con người tài hoa bạc
phận nhưng những gì bạn ông làm được lúc văn chui – rượu lậu vẫn còn cả đấy…
Những trang văn, những bài thơ bạn âm thầm viết, giấu vợ, giấu con, giấu bè
giấu bạn… mà sao thấm đẫm tình người, mà sao run rẩy cõi không gian. Giá mà ông
Trần còn sống, cùng ông đi dự lễ phát giải thưởng văn chương cho ông Sâm (trong
lũ chúng ta) thì ông Trần sẽ nói gì, khi thấy cảnh vợ con ông Sâm xốc nách, đặt
ông lên ghế ngồi. Còn ông Sâm chỉ lặng lẽ ngồi, mặc cho mấy giọt cặn lệ khó
nhọc rỉ ra nơi khóe mắt. Một vinh quang cay đắng. Một hạnh phúc muộn mằn. Ai đó
nói nhỉ:
Hạnh phúc đến sao người thân
nước mắt rưng rưng
Hạnh phúc muộn, mong manh hơn
sợi khói
Hạnh phúc đến, anh lặng không
cười nói
Anh biết mình, không còn được
như xưa…
Thương những giọt nước mắt rơi
Nuối tiếc thời hoa đỏ
Lo sợ ngày mai…
Trên đỉnh cao vời vợi
Gió rít mịt mùng
Đỉnh chon von, chơi vơi…
Mà anh tóc bạc, da mồi…
Hạnh phúc muộn như trái cây
chín ép
Chỉ nhợt nhờ, ưng ửng đến
quái thai
Chỉ sợ xấu trai!
Không cần đẹp lão!
Phải lắm! Đẹp lão còn nhử
được ai! Mà có nhử được cũng bất lực, phí cả cái đẹp đi. Nhưng nói thế liệu có
thái quá không? Vì méo mó có vẫn hơn không. Hơn nữa, chí ít đó cũng là sự ghi
nhận: lũ các ông đâu phải tồi. Suối giải oan cũng bớt đi được vài chục giọt…
Ông tủm tỉm cười khi nghĩ tới cảnh ông hân hoan từ nhà văn sĩ Trần về báo cho
vợ con biết tin: ông đã trúng tuyển và được bổ nhiệm làm thằng đẩy xe bò kiêm
bốc vác trong tổ vận chuyển Toàn Thắng – không bại. Nghĩ vợ con cũng mừng rú
như ông, nào ngờ… Họ ôm mặt khóc thút thít. Những tiếng nấc nức nở, xót thương
làm ông hoảng sợ. Thời gian sau, khi công việc đi vào ổn định, cả nhà đã quen
cảnh sáng sáng ông úp chiếc nón rách lên đầu, tay xách liễn cơm lầm lũi bước ra
khỏi nhà, vợ ông mới nói: hôm đó họ khóc vì họ thương ông quá. Một nguời chữ
nghĩa đầy mình, thông minh sáng láng, tiếng Tây tiếng Tầu vanh vách…, phải đi
tù còn có thể hiểu được, chứ làm ông xe bò kéo thì họ chưa bao giờ tưởng tượng
được. Cái bà, trông thế mà lạc hậu. Còn vương vít tư tưởng tiểu tư sản (Tạch –
Tạch – Sè). Thời đại mới: lao động là vinh quang. Là nhà văn, là nghệ sĩ, là
giáo viên hay anh hót cứt đều vinh quang tuốt. Ăn trộm ăn cướp của ai mà xấu
hổ. Hơn nữa, lao động sinh niềm vui. Tự giác ngộ mình thế thôi, nhưng thực lòng
những ngày đầu đi đẩy xe bò ông thấy ngượng ngùng, xấu hổ… Vẫn chỉ dám cắm mặt
xuống đường và rất lo gặp người quen. Lòng tự nhủ phải dấu mình, để lòi đuôi ra
thì rách việc lắm…
“… Li ti đi dưới gầm trời
Vẫn lo nhiều lúc mây rơi
trúng đầu…”
Rồi cũng dần dần quen… Những
ngày đi đẩy xe bò, cắm mặt xuống đất ông thấy lòng thanh thản, đầu óc thư thái,
ăn ngon ngủ say. Vĩnh biệt nhé danh hão! Vĩnh biệt nhé họp hành, kiểm điểm! Rồi
ông cũng tự nhiễm những “thói quen nghề nghiệp”: nắng thì úp mê nón rách lên
đầu, nóng thì quần đùi - cởi trần, khát thì chổng mông bên vòi nước công cộng,
mưa thì phủ chiếc áo tơi… Những thói quen rất tốt cho cuộc sống đầy cảnh giác.
Giờ thì ông đã an tâm sống. Trong con mắt của đồng nghiệp, cái anh Hoàng hiền
đến mực cậy mồm mới nói vài câu, chỉ được cái hùng hục làm, đích thực là người
của họ, cũng bố cu mẹ đĩ, cũng thành phần cốt cán, không có gì phải cảnh giác.
Cuộc sống và sự nghiệp của ông sẽ êm ả trôi nếu không có một lần… Quái lạ, cái
đất nước mình, ở đâu, môi trường nào cũng có gái đẹp mới chết chứ. Cái cô Thúy
đã đi đẩy xe bò mà người ngợm cứ ròn tan, tươi tắn. Lại còn cái mắt, cái mồm
mới diệt giới làm sao. Lại còn cứ tìm cớ trêu chọc, va chạm. Những va chạm,
tình tứ làm ông nhớ về những ngày tháng huy hoàng… Những cô đào, nghệ sĩ lừng
danh thiên hạ cũng va thế, cũng chạm thế, cũng liếc thế… Mình là thằng đẩy xe
bò, ngơ ngơ, dôn dốt – ông luôn tự nhắc mình và cố lờ như không hiểu những lời
trêu chọc:
Ai sinh ra cái xe bò
Để chàng quân tử kéo gò lưng
tôm
Dựa lưng vào chiếc xe, ông
lấy nón úp lên mặt, vờ như nằm khểnh mặc mẹ đời. Lại vút lên tình tứ:
Làm trai cho đáng nên trai
Ăn cơm với vợ còn nài vét niêu
Rồi những cái lay, tiếng
giục, tiếng cười rạo rực… Nó nhìn cậu, nó cười kìa… Không dằn nổi mình, ông
buột miệng:
Gái này là gái cũng liều
Thắt lưng thật chặt giằng
niêu với chồng
Tiếng vỗ tay, cười nói rầm
rầm làm ông hứng khởi. Chợt nhận thấy ánh mắt nghi ngờ, cảnh giác của ông tổ
trưởng. Ông giật mình ân hận. Rồi đến một trưa nắng. Nắng mềm đường nhựa. Nắng
cháy gió. Có hai người Pháp đỏ như tôm luộc nói với nhau những lời lo lắng vì
lạc đường. Ông bèn chỉ cho họ biết đường về khách sạn Metropol… Việc chỉ vậy
thôi nào ngờ… Chỉ ít phút sau ông đã phát hiện thấy tay tổ trưởng bí mật vào
đồn công an trình báo những điều nghi vấn. Ông ghìm tiếng thở dài, số kiếp ông
sao khổ vậy, người ta làm người lao động sao dễ thế, mà ông… Ông nhớ tới ông
Xuân ở bãi Phúc Tân, trốn cải cách ở quê lên bãi sinh sống. Cũng trắng trẻo thư
sinh như ông, cũng tiếng Tây tiếng Tàu làu làu mà cũng xe bò ba gác như ông,
tối tối còn xách cái đèn dầu đi học bình dân học vụ. Hai năm ròng học không
xong cái vỡ lòng nên gia đình được xếp thành phần dân nghèo thành thị. Giờ đây
ông ấy đã là người lao động thực thụ rồi, không còn ai eo xèo, xoi mói. Thế mà
ông đoảng quá… Binh tình này phải nghỉ việc thôi. Gia đình đang đi vào thế ổn
định. Các con đang thì lớn, ăn như tằm ăn rỗi. Da vợ, má con đã có chút sắc
hồng. Chẳng ai còn phải khảnh ăn như trước…
Ông lại nhấp ngụm chè nhỏ và
bất chợt lè lưỡi nhớ tới từng ngày đi đào hầm thuê sau đó. Các cụ nói cấm có
sai: Nhất thổ nhì mộc.Ông không thể quên những lần vung chiếc búa chim xuống
nền đá ong khô khốc. Hai cánh tay bật chùn lại. Một luồng điện giật nẩy toàn
thân. Ông khạc mạnh vào lòng bàn tay một bãi đờm vấy máu. Lúc đó ông hoảng hồn,
nhưng rồi lại có cách tự trấn an mình. Hồi ở nhà tù Sơn La, có lúc ông đã thổ
ra từng bát máu, rồi cũng có sao đâu. Hơn nữa, bát cơm nào của người lao động
chẳng đổi bằng mồ hôi, xương máu. Ông lại nghiến răng vung cuốc. Công việc đang
thuận lợi, thu nhập cũng rảnh rang thì… Sư cha cái anh Giôn Xơn, nó lại
tuyên bố: Ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Nghĩa là, nó ngừng ném bom ở
khoảng không gian mà ông sống và đào hầm để kiếm sống. Thế là… ông lại thất
nghiệp. Nhưng ơn giời, phúc tổ, các cụ lại nói đúng: Trời sinh voi thì sinh cỏ.
Trong lúc chưa biết nên buồn hay vui, khi mà anh Giôn Xơn giở chứng thì ông lại
gặp vận may: ông được anh buôn chó tuyển luôn làm phụ tá. Thế là từ đấy, sáng
sáng với chiếc xe đạp tòng tọc, với 2 chiếc sọt sắt buộc chắc chắn 2 bên gác ba
ga, với cái thòng lọng cắm sau yên, ông thong thả đạp xe sau anh lái chó, đi
khắp đường làng ngõ xóm. Đường xá ngoại thành và các vùng quê lân cận nhỏ lắm,
xấu lắm. Nắng thì xóc nẩy người. Mưa thì lầy ngập ngụa. Nhưng gió. Nhưng nắng.
Nhưng bát ngát cánh đồng. Bỗng thi hứng dạt dào trong ông. Ông dùng ý chí cố
gạt nó ra khỏi đầu. Văn chương là thứ cực kỳ nguy hiểm. Vinh quang chẳng đáng
là bao mà nhục nhã ê chề thì vô tận. Ngày ra tù ông đã ngầm tự hứa sẽ cai nó,
sẽ cạch nó đến già. Nhưng gió, nhưng nắng, nhưng hương đồng gió nội, nhưng
những thôn nữ dịu dàng, e ấp như lúa, như ngô… khiến thi hứng giờ đây cuồn cuộn
trào dâng. Ông chặc lưỡi . Sao mình lại không viết? Chẳng lẽ những cái mình
viết trước đây đều vớ vẩn sao? Cứ viết. Giờ chưa hiểu thì sau sẽ hiểu. Lưu Bang
chẳng từng đã đái vào mũ Lục Sinh sao? Sau lại phải dắt cả hoàng tộc và bá quan
đi tế trên dòng sông nước Lỗ để mua lòng sĩ phu trong thiên hạ? Lịch sử nhiều
nước đã chứng minh chỉ có hôn quân, bạo chúa mới căm thù trí thức, căm thù sách
vở. Phải viết. Phải viết. Ông lẩm nhẩm sắp xếp lại ý tứ trong đầu:
“Anh thích chồi thật xanh
Và hoàng hôn giáng đỏ
Con đường làng nho nhỏ
Hun hút vào chân mây…
(Ờ… ờ…) Cánh đồng quê bối rối
Con đường quê ngập ngừng
Hương quê thơm phập phồng
Em dịu dàng, e ấp…
Bỗng, từ một mái nhà lúp xúp
ven đường vẳng ra tiếng đàn bà gọi giật giọng: Chó ơi, Chó ơi… ời! Ông ngớ
người nhận ra họ gọi mình. Chút tủi thân, tủi phận chợt bật lên làm mắt ông
nhòe đi…
… Ông bồi hồi nhớ về một ngày
ở thời buôn chó… Ngày ấy, ú ớ gặp hên. Mới nửa buổi ông đã mua được một xe chó
đầy. Về đến nhà thì vợ đi trả hàng, con đi học… Ông lôi giấy bút ra viết. Dòng
cảm hứng dâng trào. Những con chữ thân quen bừng bừng rạo rực nở rộ trên mặt
giấy. Ông cố ngoáy tay thật nhanh cho kịp, cho hết những ý nghĩ vùn vụt xuất
hiện trong đầu. Ông cắm cúi viết, miệt mài viết cho đến khi chợt nhận ra vợ và
đứa con gái đầu lòng đang ôm nhau thút thít khóc ở góc phòng. Ông thẫn thờ rời
bút, hoang mang đến với họ. Mấy năm này gia đình ông đã ở thế ổn định. Khó khăn
và nỗi buồn nào vào nhà mà ông không biết? Gạn hỏi ông mới biết, thì ra thấy
ông đói viết, ngấu nghiến viết như thằng đói lâu năm vớ được bữa ăn ngon, bà
thương bà khóc. Bà nói: Trong người có tơ thì phải nhả, nhưng chớ động tới ai.
Viết xong không được mang in mà phải nộp để bà lưu giữ.
- Vâng! Tôi viết thì ai người
ta in mà bà lo. Bà giữ cho tôi là tốt rồi.
Ông kéo đứa con gái vào lòng,
xoa đầu an ủi nó. Nó ngước mắt nhìn ông nói trong nghẹn ngào:
- Bố ơi! Bố đừng viết nữa,
con sợ lắm.
Lời nói trẻ thơ như cật nứa
cắt lòng ông. Ông ứa nước mắt tự nói với lòng mình: “Bố hiểu rồi. Con đừng lo.
Ngày ra tù là bố biết ngay: Một ngày ngoài ngàn thu ở thù. Khi ở trại làm y
sinh, chưa được lên voi, chỉ ở mức lên chó thôi, đi tới đâu, gặp ai bố
cũng được “đồng nghiệp” tay bắt mặt mừng, chuyện trò, động viên, chia sẻ… Ngày
ra tù, về nhà con thấy đấy. Nhà mình vẫn hoang lạnh như nấm mồ hoang. Bạn bè
thân thiết, hàng xóm láng giềng có ma nào đến sẻ chia với mình đâu. Thậm chí ra
ngoài đường có người chẳng may gặp bố, họ còn kéo mũ che mặt lảng đi. Bố hiểu
rồi, nỗi nhọc nhằn, cực khổ của bố trong những năm ở trại sẽ chẳng là gì so với
nỗi nhọc nhằn, tủi hổ của mẹ và các con phải gánh chịu hàng ngày”. Một ngày
ngoài ngàn thu ở tù. Bố ơi! Bố đừng viết nữa con sợ lắm. Thảo nào thi sĩ Phúc,
văn sĩ Lam cứ phải viết chui, viết lủi. Mỗi lần viết cứ phải lén lút như tội
phạm. Những câu thơ hay, những áng văn hay thẫm đẫm tình người – tình vật phải
chịu chung số phận đớn đau nơi gầm giường, nóc bếp, đống rơm, chuồng lợn… Ông
nghiêm túc nói với con:
- Bác Trần vừa tề gia nội trợ
- nữ công gia chánh để bác gái bán hàng vừa viết truyện. Ông Trương vừa bới rác
nhặt rau nuôi lợn vừa viết kịch. Bác Phùng vừa cắt tóc vừa làm thơ. Bác Loan
vừa câu cá vừa vẽ… Chẳng lẽ bố lại không vừa làm lái chó vừa viết văn được sao?
Không đọc không viết bố thấy tiếc thời gian lắm, tủi mình và chưa xứng với mẹ,
với các con. Vả lại, không viết nữa tức là bố công nhận mình sai, phải đi tù là
đúng.
Đứa con gái ngừng khóc, mặt
nó đanh lại, biểu lộ sự sẻ chia nỗi đau với người cha. Nhìn mặt con, ông giật
mình chợt nhận ra, trên gương mặt nó, có những nét gì phảng phất nét mặt Việt
Vương – Câu Tiễn trong những năm nhẫn nhục. Lòng ông the thắt thương con và lo
sợ cái gì lạ lắm đang ẩn giấu trong mắt nó. Ông thủ thỉ nói với con và cũng như
nói với lòng mình:
- Con ơi! Oán hờn mà trả bằng
oán hờn thì oán hờn ngày càng chồng chất. Con người hơn con vật ở chỗ đối xử
với nhau có nghĩa có nhân. Lớn lên rồi con sẽ hiểu, không phải ngẫu nhiên mà
Thánh Găng Đi nói: “Tôi không bao giờ tự hạ thấp mình ngang tầm của bạo lực.”
Cái gì đã qua bố con mình cùng cho qua con nhé! Chớ để bụng, đừng thù oán ai
cả… Càng đớn đau mình phải sống càng nhân hậu, con có hiểu không?
Lẽ ra ông có thể yên tâm sống
trên cõi đời này với vị thế của ông lái chó kiêm văn sĩ, nếu không có một
ngày…Ông khẽ lắc đầu… Ngày đó, ông mang chó về giao cho cửa hàng thịt chó Quang
Vinh. Người ta rọ mõm con chó lại rồi treo ngược lên cành cây. Hai hàng dãi chó
nhễu ra. Trong ánh mắt hoảng loạn của nó, ông nhìn thấy những tia oán hờn, trách
móc, nhẫn nhục, xót xa… Người đồ tể xía một đường dao sắc lẹm. Một tia máu phọt
ra đỏ hồng ấm như máu người. Con chó oằn mình giẫy giụa trong không gian. Càng
giẫy máu càng phọt mạnh. Thế là xong! Một số kiếp nhỏ nhoi, yếm thế trước sức
mạnh dửng dưng đến lạnh lùng của bạo tàn. Ông rùng mình, ân hận, xót xa… Thương
cho một kiếp chó vốn rất tận tụy, trung thành với con người. Và từ đó ông bỏ
việc…
Cứ thế, ông ngồi chết lặng
rồi lại mỉm cười mơ hồ nhớ tới chuỗi năm tháng đổi nghề như thay áo. Những ngày
ra ngoại thành để đóng gạch thuê. Nhớ một trưa hè nắng như đổ lửa. Đang nhào
đất thì bỗng ngứa ran khắp lưng. Chân tay dính đầy bùn đất không làm sao mà gãi
được. Chợt nhìn thấy con trâu đang cọ mình dưới gốc đa, thế là ông chạy ngay
vào chiếm một chỗ. Bắt chước trâu, ông cọ mạnh tấm lưng trần vào gốc cây sần
sùi. Cọ đến đâu sướng run đến đấy. Đang sướng, bỗng ông giật mình nghe thấy
tiếng khóc nức nở như từ trên trời rơi xuống. Ngửa mặt lên nhìn thì… Ối giời
ơi! Đó là cô đào Bích – nghệ sĩ Bích Đào lừng danh. Bích Đào nói trong tiếng
nấc:
- Ngứa mà cũng không biết
đường gãi gọn được như trâu… Em không thể ngờ đời anh lại có đận khốn nạn thế
này… Về! Về ngay! Em sẽ kiếm cho anh nghề khác.
Ông lại lắc đầu cười, nhớ về
những ngày sau đó nặn từng con lợn đất đem bán. Đúng là tránh vỏ dưa lại gặp vỏ
dừa. Người ta có nhiều mối giao hàng. Làm đến đâu có người đến tận nơi lấy hết
tới đó. Hơn nữa, họ lại có vốn. Lợn đất của họ, phơi khô xong được đưa vào lò
nung qua cho rắn, rồi lại còn được phết một lớp sơn đỏ rực màu. Đằng này lợn
đất ông làm tiền đâu mà thuê nung. Đành chỉ phơi khô rồi quét qua một lớp vôi
hồng trông cứ nhờn nhợt dài dại. Làm xong không có mối giao. Đành gánh hàng ra
chợ bán lẻ. Mua vé vào chợ thì lãi có ngày chẳng đủ tiền vé. Bán ngoài cổng chợ
thì công an, quản lý chợ bắt hàng. Gánh rao dọc phố thì tiếng rao đuối hơi, lạc
chìm giữa dòng đời ồn ã… Gánh ra ngoại thành thì bán được nhúc nhắc nhưng nhiều
lúc gặp mưa giữa đường, giữa đồng thấy cũng nản lòng. Có lần ông đã chịu ướt,
dành tấm ni lông che lên miệng thúng mà những cơn gió cứ tớn lên, giật mạnh tấm
ni lông để xối những hạt mưa vào những con lợn đất… Mươi phút sau, cả vốn lẫn
lãi của ông đã trở thành bùn đất… Ông lắc đầu mủm mỉm cười: rõ đúng, tình
thương vô ý gây nên tội. Ông lại bắt đầu những tháng ngày đi tìm việc. Ông nhẩm
tính trên ngón tay. Phải mượn thêm cả những ngón chân. Mác-xim Gooc-ky thời lưu
lạc trải qua bao nhiêu nghề nhỉ? Ơn giời, cuối cùng ông cũng neo đậu được cuộc
đời bằng nghề mộc. Tai ông lại vang lên tiếng gọi: Ê… mộc! Ê… mộc! Tiếng gọi
tuy xấc xược nhưng sau nó vẫn là cơm ăn, áo mặc, là tiền bạc, là cuộc sống của
gia đình. Ông vẫn hồi hợp chờ mong tiếng gọi như trước đây từng mong thiên hạ
gọi chó ơi! Chó ơi! Mấy chục năm gắn bó với nghề mộc cũng mang đến cho ông
nhiều buồn vui đáng nhớ. Đoạn đời này nếu viết ra cũng được tập sách dầy cỡ dăm
trăm trang chứ ít ỏi gì! Mà nhất định sẽ không tầm tầm, nhàn nhạt. Viết sách về
cuộc đời mình ư? Tướng tá, chính khách gì mà hồi ký. Jiu-cốp đâu mà “nhớ lại và
suy nghĩ”. Phải, mình sẽ viết lại những kỷ niệm buồn vui của một đời oan trái
phải học tập, phải rèn luyện thế nào để giữ được tính người trong một hoàn cảnh
trớ trêu, hoang dại. Hơn 40 năm sống trong oan sai mà giúp vợ nuôi 4 con ăn học
nên người, viết được dăm chục tác phẩm các loại. Đời người thế kể cũng chẳng
đến nỗi nào. Thân phận cỏ cây như thế phải đâu là bèo bọt. Có cây còn nuôi được
trâu bò, chó đẻ còn chữa được ỉa chảy, nhọ nồi còn cầm máu
hay hạ được cơn sốt… Cỏ cây như thế còn trăm lần hơn, vạn lần gấp những tên
tuổi lẫy lừng mà độc hại. Phải, mình sẽ viết lại cuộc đời mình để sẻ chia với
bè bạn, người thân. Biết đâu sau này, ai đó ngồi thăm thẳm trên ghế cao quyền
lực, đọc cuốn truyện này sẽ phải ngập ngừng nghĩ suy trước khi thò tay ký một
quyết định liên quan đến thân phận một con người, dù đó là thân phận con sâu
cái kiến.
Cõi trời chỉ có cỏ hoa
Cõi người – nếu có, chỉ là
chữ NHÂN.
Nghĩ tới đây, dòng cảm xúc
trong ông dâng lên dào dạt. Ông lập cập đeo kính rồi lập cập ngồi ngay ngắn
trước màn hình, tay bật máy, tay rê rê con chuột. Rồi như có sức mạnh của quyền
năng, các ngón tay ông bắt đầu múa nhanh trên bàn phím. Những con chữ hối hả
chen nhau xuất hiện trên màn hình. Ông cứ gõ, gõ, tay như múa… Bỗng ông giật
mình ngừng tay khi chợt nghe thấy tiếng nấc rất quen thân của vợ. Tiếng nấc của
một thời tưởng đã là ngày xửa ngày xưa, không bao giờ trở lại.
- Ông!... Ông viết cái gì thế
này? Sao lại bắt đầu bằng ngày ông bị đi tù, hở giời!
- Tôi viết lại những kỷ niệm
buồn vui của đời mình ấy mà.
- Ông dừng ngay, dừng ngay
không được viết nữa! Tôi lạy ông, xin ông đấy. Bới lại những cái đó làm gì. Phế
thải hạt nhân đã chôn rồi thì không được bới, nguy hiểm lắm, ông a...à…ạ!...
- Bà yên tâm. Bây giờ đổi mới
rồi. Con người đối xử với nhau nhân văn hơn trước nhiều rồi. Mà bà còn lạ gì
tôi, nào có biết hận thù, căm uất ai đâu mà bà phải lo, phải sợ. Họ đánh mình
đau quá thì mình rên. Rên cho nó đỡ đau, bà ạ! Con người ai chẳng có quyền được
Rên.
- Sắp xuống lỗ rồi mà ông còn
thơ ngây thế? Ông tưởng Rên là tội nhẹ lắm ư? Các ông ngày xưa ngợi
ca – hát ông ổng còn bị kẻ độc miệng cho mang vạ. Giờ lại đòi Rên. Quyền được
Rên! Ơ hơ…quyền được Rên! Ngớ ngẩn, ngớ ngẩn hết chỗ nói…
Nghe vợ mắng, ông buông tay
sững sờ… ờ… ờ… Bà ấy nói… Bà ấy nói… Ông đưa mắt nhìn ra ngoài trời… Mưa! Mưa!
Mưa vẫn xối xả. Trong làn mưa mù mịt ông lại thấy quản giáo Quang lừ lừ đi vào,
tay vẫy vẫy, miệng làu bàu mà như ra lệnh cho ông: Hồ hởi, phấn khởi nhé! Hồ
hởi, phấn khởi nhé!.
Một làn gió lạnh thổi thốc
vào nhà. Ông rùng mình, tê buốt.
Cao ốc N5A, Trung Hòa- Nhân Chính, 5/2007
Lê Mai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét