Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

Em bé gái trên Đại Lộ Kinh Hoàng của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972

trungtakimnerly

Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, một em bé 4 tháng tuổi nằm trên xác mẹ trên Đại Lộ Kinh Hoàng; em đang trườn người trên bụng mẹ tìm vú để bú nhưng mẹ đã chết từ bao giờ. Một người lính Quân Cụ chạy ngang, bồng em bé bỏ vào chiếc nón lá rồi chạy qua cầu Mỹ Chánh, trao lại cho một Thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân.(Hình: Em bé nay là Trung Tá Kimberly M. Mitchell)
Bao năm trôi qua, em bé mồ côi mẹ nay trở thành Trung Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ còn người Thiếu úy TQLC sang Hoa Kỳ theo diện HO nay đang định cư tại tiểu bang New Mexico. Hai người vừa gặp nhau sau 41 năm bặt vô âm tín. Ngày Thứ Ba 2 tháng 4, 2013 vừa qua, nhân dịp sang California dự lễ cưới, người Thiếu Úy TQLC này đã kể cho phóng viên Viễn Đông câu chuyện cảm động và ly kỳ ngay tại khách sạn nơi ông đang tạm cư ngụ.
Người Thiếu Úy TQLC tên là Trần Khắc Báo. Vào thời điểm 1972 ông còn độc thân và phục vụ tại Đại Đội Vận Tải Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, được biệt phái sang Phòng 4 của Sư Đoàn làm sĩ quan phụ trách chuyển vận. Vào sáng 1 tháng 5 năm 1972, Thiếu Úy Báo được lệnh cấp trên, cùng một số đồng đội mở cuộc hành quân để giúp di chuyển Tiểu Đoàn 7 TQLC ra khỏi vùng vừa bị thất thủ thuộc tỉnh Quảng Trị vì một số đông quân nhân bị thất lạc không tìm thấy vị chỉ huy của họ. Ngoài ra, ông cũng xin lệnh giúp di tản các Quân, Dân, Cán, Chính khác đang tìm đường chạy về phía nam sông Mỹ Chánh là nơi quân đội VNCH còn đang trấn giữ; ông được cấp trên chấp thuận.
Khi đơn vị ông đến cầu Mỹ Chánh (Quảng Trị) thì nơi đây là phòng tuyến cuối cùng của VNCH để ngăn chặn quân Cộng Sản Bắc Việt tràn xuống phía Nam. Ông đã chỉ huy 20 quân xa GMC thực hiện cấp tốc cuộc di tản suốt ngày. Đến khoảng 4 hay 5 giờ chiều ông Trần Khắc Báo nhìn thấy thấp thoáng bên kia cầu còn một người đang ôm chiếc nón lá thất thểu đi qua với dáng điệu hết sức mỏi mệt. Ông định chạy qua giúp người này nhưng vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 TQLC đang trách nhiệm trấn giữ tại đó la lớn:
“Cây cầu tao đã gài mìn, có thể nổ và sẵn sàng phá hủy khi thấy chiến xa Việt Cộng xuất hiện, đừng chạy qua, mày sẽ bị bỏ lại bên đó không về lại được đâu nghe!”
Ông cố nài nỉ:
“Đại Bàng chờ em một chút, cho em cứu người cuối cùng này.”
Và ông chạy đến đưa người này qua cầu. Thấy người này đi không nổi, thất tha thất thểu mà tay còn cố ôm vòng chiếc nón lá, Thiếu Úy Báo nói đùa:
“Đi không nổi mà còn mang theo vàng bạc châu báu gì nữa đây cha nội?”
Người ôm vòng chiếc nón lá nói với Thiếu úy Trần Khắc Báo:
“Em là lính Quân Cụ thuộc Tiểu Khu Quảng Trị, trên đường chạy về đây em thấy cảnh tượng hết sức thương tâm này, mẹ nó đã chết từ bao giờ không biết và nó đang trườn mình trên bụng mẹ nó tìm vú để bú, em cầm lòng không được nên bế nó bỏ vào chiếc nón lá mang đến đây trao cho Thiếu Úy, xin ông ráng cứu nó vì em kiệt sức rồi, không thể đi xa được nữa và cũng không có cách gì giúp em bé này.”
Nói xong anh ta trao chiếc nón lá có em bé cho Thiếu úy Báo.
Ngừng một chút, ông Báo nói với chúng tôi:
“Mình là người lính VNCH, mình đã được huấn luyện và thuộc nằm lòng tinh thần ‘Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm’ nên lúc đó tôi nghĩ trách nhiệm của mình là lo cho dân nên tôi nhận đứa bé và nói với người lính Quân Cụ: ‘Thôi được rồi, để tôi lo cho nó, còn anh, anh cũng lo cho sức khỏe của anh, lên GMC đi để chúng tôi đưa anh về vùng an toàn.’”
Sau đó, người sĩ quan TQLC ôm em bé leo lên chiếc xe Jeep chạy về Phong Điền, cách đó khoảng 20 cây số. Trên đường đi, ông Báo cảm thấy rất bối rối vì em bé khóc không thành tiếng vì đói, khát mà ông thì còn là một thanh niên trẻ (lúc đó mới 24 tuổi) chưa có kinh nghiệm gì nên ông hỏi người tài xế, bây giờ phải làm sao? Người tài xế tên Tài trả lời:
“Ông thầy cho nó bú đi! Ông thầy không có sữa thì lấy bi đông nước chấm đầu ngón tay vào nước để vào miệng nó cho nó bú.”
Ông Báo làm theo lời chỉ và em bé nín khóc rồi nằm im cho đến khi ông đưa em vào Phòng Xã Hội của Lữ Đoàn TQLC. Tại đây, gặp Thiếu tá Nhiều, Trưởng Phòng 4 TQLC, ông trao em bé cho Thiếu tá Nhiều và nói:
“Thiếu tá, tôi có lượm một em bé ngoài mặt trận, xin giao cho Thiếu tá.”
Ông này nhìn ông Báo cười và nói:
“Mày đi đánh giặc mà còn con rơi con rớt tùm lum!”
Ông Báo thanh minh:
“Không! Tôi lượm nó ngoài mặt trận; nó đang nằm trên xác mẹ nó.” Thiếu tá Nhiều bảo:
“Thôi, đem em bé giao cho Phòng Xã Hội để họ làm thủ tục lo cho nó.” Sau đó, ông Báo đưa em bé cho một nữ quân nhân phụ trách xã hội. Cô này nói với ông:
“Thiếu úy giao thì Thiếu úy phải có trách nhiệm, vì em bé này ở ngoài mặt trận thì Thiếu úy phải cho nó cái tên và tên họ Thiếu úy nữa để sau này nó biết cội nguồn của nó mà tìm.”
Lúc đó, ông còn độc thân nhưng trong thâm tâm ông vốn nghĩ rằng sau này khi ông cưới vợ, nếu có con gái ông sẽ đặt tên là Bích, nếu con trai ông sẽ đặt tên là Bảo, nên sau khi nghe người nữ quân nhân nói, ông Báo đặt ngay cho em bé cái tên là Trần Thị Ngọc Bích.
Sau đó ông trở về đơn vị và cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt cho tới tháng 3/1975, đơn vị ông bị thất thủ cùng Lữ Đoàn 2 TQLC ở Huế và ông Báo bị Việt cộng bắt làm tù binh. Mãi đến năm 1981 ông được chúng thả về gia đình và bị quản chế. Tháng 9/1994 ông được sang định cư tại thành phố Albuqueque, tiểu bang New Mexico…
Em bé Mồ Côi Gặp May Mắn
Em bé Trần Thị Ngọc Bích được Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC đem đến Cô Nhi Viện Thánh Tâm Đà Nẵng giao cho các Dì Phước chăm sóc. Số hồ sơ của em là 899.
Một hôm có ông Trung Sĩ Hoa Kỳ thuộc binh chủng Không Quân phục vụ tại phi trường Đà Nẵng tên là James Mitchell vô Cô Nhi Viện xin nhận một trong các em tại đây làm con nuôi. Em Trần Thị Ngọc Bích may mắn lọt vào mắt xanh của ông James Mitchell và trở thành thành viên của gia đình này từ đó đến nay.
Sau khi rời khỏi binh chủng Không Quân, ông James Mitchell trở về Hoa Kỳ vào năm 1972. Ông quyết định mang theo đứa con nuôi Trần Thị Ngọc Bích, lúc đó em mới được 6 tháng.
Hai ông bà Mitchell đặt tên Mỹ cho em là Kimberly Mitchell. Em ở tại trang trại của gia đình tại Solon Springs, tiểu bang Wisconsin. Kimberly Mitchell lớn lên tại đây và được bố mẹ nuôi rất thương yêu, coi như con ruột. Em được đi học, tham gia thể thao và vào hội thanh niên. Lớn lên em vừa đi học vừa phụ giúp cha mẹ nuôi bò và làm phó mát. Cái tên Trần Thị Ngọc Bích đã bị quên lãng từ đó, và Kimberly Mitchell cho biết, mỗi khi nghe ai nói gì về Việt Nam, cô thường tự hỏi, Việt Nam là đâu nhỉ?
Khi đã có trí khôn, Kimberly Mitchell nhận thấy mình không phải người Mỹ như bố mẹ, không phải con lai, không phải người Tàu. Cô không biết mình là người nước nào và cứ mang cái thắc mắc đó mãi mà không ai có thể trả lời cho cô.
Một hôm, Kimberly Mitchell đánh bạo hỏi bố:
“Con muốn biết con người gì, nguồn gốc con ở đâu? Tại sao con lại là con bố mẹ?”
Bố nuôi James giải thích cho cô:
“Con là người Việt Nam, bố mẹ xin con từ trong viện mồ côi ở Đà Nẵng, Việt Nam. Nếu con muốn tìm nguồn cội của con, con có thể về Đà Nẵng, may ra tìm được tông tích của gia đình con.”
Ngay từ khi Kimberly còn học lớp ba, bố nuôi em đã muốn sau này cho Kimberly gia nhập Không Quân nhân khi cô được chọn tham dự hội thảo về nghệ thuật lãnh đạo dành cho những học sinh xuất sắc. Nhưng rồi định mệnh xui khiến, cô lại theo Hải Quân. Trong thời gian theo học, Kimberly Mitchell phải bỏ học một năm vì bố nuôi qua đời năm 1991 trong một tai nạn tại trang trại của gia đình. Sau đó cô trở lại trường và tiếp tục học. Năm 1996 cô tốt nghiệp Cơ Khí Hàng Hải và phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ và hiện nay mang cấp bậc Trung Tá, Phó Giám Đốc Văn Phòng Trợ Giúp Quân Nhân và Thân Nhân tại Ngũ Giác Đài.
Năm 2011, Kimberly Mitchell trở về cố hương trong vai một nữ Trung Tá Hải Quân, Quân Lực Hoa Kỳ, mong gặp lại người thân. Đến Viện Nuôi Trẻ Mồ Côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng, cô may mắn gặp được Sơ Mary, người tiếp nhận cô năm 1972 từ một nữ quân nhân Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC. Giây phút thật cảm động, nhưng Kimberly chỉ được Sơ Mary cho biết:
“Lúc người ta mang con tới đây, con mới có 4 tháng và họ đặt tên con là Trần Thị Ngọc Bích. Họ nói mẹ con đã chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng, con được một người lính VNCH cứu đem đến đây giao cho Cô Nhi Viện rồi đi mất, vì lúc đó chiến tranh tàn khốc lắm.”
Kimberly không biết gì hơn và cô quay trở lại Mỹ. Sau khi đã biết mình là người Việt Nam, thỉnh thoảng cô viết trên website câu chuyện của mình.
Gặp Lại Cố Nhân
Ông Trần Khắc Báo đưa cho chúng tôi xem một số hình ảnh, một số báo tiếng Việt và mấy tờ báo tiếng Anh đăng hình cuộc gặp gỡ giữa gia đình ông và cô Trần Thị Ngọc Bích, và nói:
“Sau khi ra tù Việt Cộng, tôi cũng cố tìm hiểu xem em bé Trần Thị Ngọc Bích nay ra sao, kể cả người lính Quân Cụ năm xưa, nhưng tất cả đều bặt vô âm tín. Một hôm tình cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Trúc Giang trên tờ Việt Báo Hải Ngoại số 66 phát hành tại New Jersey, tác giả kể lại câu chuyện đi Mỹ của một em bé trong cô nhi viện Đà Nẵng mang tên Trần Thị Ngọc Bích. Đọc xong tôi rất xúc động pha lẫn vui mừng, vì có thể 80, 90% cô Ngọc Bích đó là do mình cứu và đặt tên cho cô.”
Sau đó, ông nhờ người bạn tên là Đào Thị Lệ làm việc trong New York Life, có chồng người Mỹ và có em cũng ở trong Hải Quân Hoa Kỳ, liên lạc tìm kiếm Mitchell. Và chính cô Đào Thị Lệ là người đầu tiên trực tiếp nói chuyện với Trần Thị Ngọc Bích đang làm việc tại Ngũ Giác Đài.
Theo ông nghĩ, có thể cô Mitchell bán tín bán nghi, không biết chuyện này có đúng không hay là chuyện “thấy sang bắt quàng làm họ” như ông cha mình thường nói. Nhưng sau khi nói chuyện với ông Trần Khắc Báo, Mitchell quyết định tổ chức một cuộc hội ngộ trước các cơ quan truyền thông. Cô xin phép đơn vị và mời được 7 đài truyền hình cùng một số phóng viên báo chí từ Washington, D.C cũng như nhiều nơi về tham dự.
Cuộc hội ngộ, theo ông Báo cho biết, hoàn toàn do cô Kimberly Mitchell quyết định, địa điểm là trụ sở Hội Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Mexico vào Thứ Sáu, ngày 29.8. 2012. Cô đến phi trường vào tối Thứ Năm 28.8, gia đình ông Báo ngỏ ý ra phi trường đón nhưng cô cho cô Đào thị Lệ biết là cô không muốn gia đình đón ở phi trường cũng như đưa vào khách sạn. Cô muốn dành giây phút thật cảm động và ý nghĩa này trước mặt mọi người, đặc biệt là trước mặt các cơ quan truyền thông, và cô muốn ông Báo mặc bộ quân phục TQLC như khi ông tiếp nhận cô đưa đến Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC cách nay 41 năm.
trankhacbao
Giây phút đầy xúc động
Gia đình ông Trần Khắc Báo gồm vợ và con gái cùng có mặt. Khi ông Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hỏi cô Kimberly Mitchell:
“Cô đến đây tìm ai?”
Cô trả lời:
“Tôi muốn tìm ông Trần Khắc Báo.”
Vị Chủ Tịch quay sang ông Báo đang mặc quân phục và giới thiệu:
“Đây là ông Trần Khắc Báo.”
Lập tức, Kimberly Mitchell Trần Thị Ngọc Bích tiến lại ôm lấy ông Báo và cả hai cùng khóc nức nở.
Giây phút xúc động qua đi, cô Kimberly hỏi ông Trần Ngọc Báo:
“Ông là người đã cứu mạng tôi, tôi mới có ngày hôm nay; tôi xin cám ơn ông, và bây giờ ông muốn gì ở tôi?”
Ông Trần Khắc Báo nói :
“Thực sự bây giờ tôi chỉ muốn cô nói với tôi một lời bằng tiếng Việt, cô hãy kêu tôi là “Tía”. Vì tất cả các con tôi đều gọi tôi bằng Tía, tôi xem cô cũng như con tôi, tôi chỉ mong điều đó.”
Và ông mãn nguyện ngay, khi Kimberly Mitchell gọi “Tía”. Ông nói với chúng tôi:
“Bấy giờ tôi thực sự mãn nguyện.”
Trả lời các câu hỏi của chúng tôi, ông Trần Khắc Báo cho biết, cô Kimberly chưa lập gia đình và cô có hứa sẽ thường xuyên liên lạc với gia đình ông. Ông có nhắc cô Kimberly điều này, rằng cô không phải là đứa trẻ bị bỏ rơi. Cô đã được những người lính VNCH có tinh thần trách nhiệm cứu sống trên bụng mẹ cô đã chết, và chính ông đã đặt tên cho cô là Trần Thị Ngọc Bích. Ông cũng mong rằng sau này, cô có thể trở lại Quảng Trị, may ra có thể tìm ra tung tích cha cô hoặc người thân của mình. Ông Trần Khắc Báo cũng cho biết, ông mất liên lạc với người lính Quân Cụ từ lúc hai người giao nhận đứa bé đến nay.
Trong cuộc hội ngộ, trả lời câu hỏi của các phóng viên Hoa Kỳ, nữ Trung Tá Kimberly Mitchell cho biết, cô có hai cái may. Cái may thứ nhất là cô được tìm thấy và mang tới trại mồ côi . Cái may thứ hai là được ông bà James Mitchell bước vào trại mồ côi và nói với các Sơ rằng, ông muốn nhận em bé này làm con nuôi.”
Câu chuyện sau 41 năm kết thúc tốt đẹp, cô Trần Thị Ngọc Bích đúng là viên ngọc quý trên Đại Lộ Kinh Hoàng như ý nguyện của người đã cứu mạng em, vì chính cô đã làm vẻ vang cho dân tộc Việt khi cố gắng học hành để trở nên người lãnh đạo xuất sắc trong Quân Lực Hoa Kỳ, một quân lực hùng mạnh vào bậc nhất thế giới.
Người quân nhân binh chủng Quân Cụ và người sĩ quan TQLC Trần Khắc Báo đã thể hiện tinh thần của một quân nhân Quân Lực VNCH , luôn đặt Tổ Quốc – Danh Dự và Trách Nhiệm trên hết.
Thanh Phong
- See more at: http://thoibao.com/2014/02/18/em-be-gai-tren-dai-lo-kinh-hoang-cua-mua-he-do-lua-1972/#sthash.XdN6yfE8.dpuf

Công chúa yêu cố đạo

langkinh022414

“Lăng kính soi kim cổ”, lăng kính soi thời đại bạo hành và đa sự là việc bình thường. Lần này lăng kính soi chuyện xưa, một chuyện tình đẹp có thực xảy ra vào thời Lê Mạt: Một công chứa yêu một vị linh mục ngoại quốc mà ngày trước dân ta quen gọi là cố đạo. Đây là câu chuyện thực do J.P.Thạnh thuật lại theo Lịch sử truyền giáo của L.m Nguyễn Hồng. Tình yêu ở đây thực oái oăm, nhiều đam mê, lắm sầu hận, nhưng kết thúc thực đẹp vì tình yêu cá nhân được thăng hoa thành tình yêu tôn giáo thiêng liêng.
“Năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lên làm vua, lấy niên hiệu là Minh Đức. Nhiều vị cận thần nhà Lê không chịu khuất phục họ Mạc nên tuẫn tiết. Có một số người đã chạy ra ngoại quốc, dù ở lại trong nước nhà Mạc có lưu dụng nhưng họ không chịu phục tùng.

Trong số những người chạy sang Ai Lao có Nguyễn Kim, làm quan Hữu vệ điện triều tướng quân đã tìm được người con cuối cùng của vua Chiêu Tôn, tên là Duy Ninh tôn lên làm vua, lấy niên hiệu là Trang Tôn (năm 1532).

Khi Nguyễn Kim chết, tất cả binh quyền đều vào tay con rể là Trịnh Kiểm. Kiểm đã đem binh về đất Thanh Hóa lập hành điện ở đồn Vạn Lại thuộc An Trường (huyện Thụy Nguyên) để tạm dùng nơi đây làm kinh đô, rồi sửa soạn đánh nhà Mạc.

Nước Việt lúc đó bị chia đôi; từ Thanh Hóa trở vào thuộc vua Lê, tức Nam triều, còn từ Sơn Nam (Ninh Bình, Nam Định…) trở ra thuộc họ Mạc, và gọi là Bắc triều. Đến khi Lê Trang Tôn tạ thế, không có con nối ngôi, nên Trịnh Kiểm mới lập Duy Bang, là cháu Lê Trừ (anh vua Thái Tổ) lên làm vua, tức vua Lê Anh Tôn. Vua Anh Tôn ở ngôi được 16 năm (1557-1573). Thời kỳ này ở ngôi Anh Tôn không những phải chiến đấu với Mạc, mà còn phải đối phó vợi sự chuyên quyền của Trịnh nữa. Vì vậy Anh Tôn muốn liên lạc với người Bồ Đào Nha, vì lúc này họ đang làm bá chủ ở vùng Viễn Đông, và Anh Tôn hy vọng họ giúp đỡ binh bị để dẹp nhà Mạc, và thoát quyền họ Trịnh.

Bỗng một hôm có một chiếc tàu Hòa Lan bị hải tuần của ta bắt, những thủy thủ cùng hành khách trên tàu đều bị giải về Kinh đô. Có một người lái buôn trong nhóm người này đã đưa trình một bức thư của một giáo sĩ dòng Francisco gửi cho vua Giao Chỉ. Kèm với bức thư có một bức ảnh về “Cuộc phán xét chung của ngày tận thế sẽ đến”. Vua Anh Tôn xem thư xong, cho mời vị giáo sĩ cùng mấy người đi theo đến Việt Nam. Nhưng vị tu sĩ này cho biết lúc này không thể tới Việt Nam được.

Sau đó, vua Anh Tôn cho người sang tận Ma Cao xin giám mục ở Ma Cao cho giáo sĩ tới Việt Nam. Nhưng vị giám mục dòng Tên ở đó đã phúc thư là họ chưa đủ tu sĩ để phái đi được.

Lúc này, phía Bắc phải chống đỡ họ Mạc, còn ở phía Nam nhà Lê áp dụng chính sách thân thiện giao hảo với Chiêm Thành. Và trong hoàn cảnh này vua Anh Tôn đã kết hôn với một Công chúa Chiêm Thành, thuộc dòng thừa kế chính thống. Bà đã sinh được một Công chúa tên là Chèm vào lúc người anh, vua nước Chiêm Thành, tạ thế lại không có con nối nghiệp, nên Công chúa được hưởng tước đó, vì thế người ta vẫn gọi bà là Bà Chúa Chèm. Có người cũng gọi là Bà Chúa Chè, là để ghi nhớ công ơn bà đã khai thác và mở mang việc trồng chè ở vùng Thanh Hóa. Còn tên Mai Hoa thì chữ Hoa có lẽ là tên của bà, còn Mai là lối phiên âm tên Thánh bổn mạng Maria của bà cho đẹp với chữ Hoa thôi, vì sau này bà chúa Chèm đi đạo mới có tên Mai Hoa (theo tác giả cố đạo Ordonez de Cevallos còn gọi tên bà là Flora). Và Cevallos cho biết thì khi ông tới An Trường gặp công chúa Mai Hoa và người em nhỏ tuổi của công chúa là vua Thế Tôn.

Như trên đã nói, vị hoàng tử em ruột của bà Thái phi là vua Chiêm Thành từ trần, không có con kế tự, nên Công chúa Mai Hoa (bà chúa Chèm) đã được thừa hưởng mọi đặc quyền của người cậu với tước hiệu là “Công chúa Chiêm Thành”, vì vậy sau này dân ở An Trường mới gọi bà là Bà Chúa Chiêm.
Vào cuối năm 1572, phải bỏ hoàng cung vì họ Trịnh áp đảo quá độ, vua Anh Tôn cùng bốn hoàng tử và công chúa Mai Hoa vào tới Nghệ An thì Trịnh Tùng bắt được giết đi cùng với ba hoàng tử, chỉ còn lại có công chúa Mai Hoa và hoàng tử thứ năm nhỏ tuổi nhất là Duy Đán, đặt lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thế Tôn.

Thế Tôn lên ngôi vua năm 1573, khi đó mới bảy tuổi còn nhỏ nên bà Thái hậu phải nắm quyền phụ chính. Nhưng ngặt cái bà Thái hậu lại gốc ngoại quốc, nên phải giao quyền cho con gái làm phụ chính. Theo cố Cevallos (chữ cố tức là linh mục, mà thời trước dân ta gọi các linh mục người ngoại quốc là cố Tây), Công chúa Mai Hoa có một tâm hồn đạo đức, từ bi, bác ái vô biên, bà muốn chấn hưng tôn giáo, và chỉnh đốn kỷ luật nhà Phật, lập nhà thương giúp người nghèo chữa bệnh. Bà cũng tiếp tục chính sách của vua cha, và cho các giáo sĩ dòng Tên vào truyền đạo tại xứ ta. Bà cũng như vua Anh Tôn, phái người sang Ấn Độ để mời các giáo sĩ tới Việt Nam, nhưng vị Giám mục tại Goa đã trả lời là việc truyền giáo ở Đông Dương thuộc quyền các tu sĩ Ma Cao để liên lạc với các tu sĩ tại đây, và lần này có hai giáo sĩ, Alfonsa de Costa và Joao Gonsalvez de Sa, tuy đã 50-60 tuổi cũng bằng lòng theo chân sứ giả vào đất Thanh Hóa để giảng đạo. Khi hai cố trên tới Thanh Hóa đã được công chúa Mai Hoa tiếp đón rất nồng hậu và dành nhiều cảm tình, đặc biệt cấp nhà cho ở riêng.

Đến cuối năm 1590, có một chiếc tàu của cố Pedro Ordonez de Cevallos gặp trận bão, phải dạt vào bờ biển xứ bắc. Cố Cevallos và mấy người bạn được đưa về Kinh đô vua Lê ở An Trường. Và câu chuyện giữa công chúa Chèm với cố Tây được diễn ra như sau:

Pedro Ordonez de Cevallos sinh tại Jean, miền Andalouise, Tây Ban Nha, khi bé đã có óc mạo hiểm. Lớn lên đi tu và khi làm linh mục đã qua nhiều nước Tây phương rồi qua đất Thánh và những vùng Phi Châu như Guinea, Congo rồi vòng sang Tân thế giới. Khi bị nhập ngũ được mang hàm trung úy. Trong một chuyến đưa xác Đức Giám mục thành Chili về Tây Ban Nha, qua CuBa thì tàu bị đắm. Được thoát nạn, Cevallos qua Mễ Tây Cơ để lấy tàu trở lại Nouvelle Grenade, nhưng giữa đường lại gặp trận bão, tàu lại dạt tới tận khu Aceania và qua nhiều gian truân, Cevallos đã qua Trung Hoa, Áo môn (1-5-1590), rồi tới Nhật Bản. Đến khi rời Nhật Bản để trở về Quảng Đông, giữa đường lại gặp bão, thuyền đã bị trôi dạt vào bờ biển xứ Bắc, chỗ cửa Bạng ngày nay.

Khi Cevallos bị bắt, được đưa tới quan sở tại trình diện, Cevallos không chịu lạy như các bạn đồng thuyền, mà ông chỉ bỏ mũ ra chào mà thôi. Các quan thấy vậy tưởng Cevallos là một vị hoàng tử, nên dẫn đến Kinh đô để trình vua Lê. Kinh đô vua Lê lúc đó chiếm cả một vùng An Trường, Lam Sơn, Văn Lái và Phúc Lập nằm bên tả ngạn sông Chu của tỉnh Thanh Hóa.

Đúng vào dịp lễ Giáng sinh 24-12-1590, cố Cevallos được vua Lê cho vào yến kiến . Gặp vua Lê, cố chỉ bái gối trái để kính chào. Vua Lê thấy thế không giận và còn niềm nở hỏi han thân tình.

Ngày hôm sau, vua Lê sai dọn tiệc mời cố Cevallos, ban quà cho cố và các bạn đồng hành. Nhân dịp này cố Cevallos đã nói về sự tích Chúa Jesu Giáng sinh là đấng cứu thế, cùng bà Maria là mẹ của Jesu. Nhà vua nghe vậy nên giới thiệu cố gặp bà chúa Chèm, vì bà cũng thích nghe kể sự tích tôn gio.

Nhà vua nói Công chúa là bà chị của vua và nhà vua yêu kính như mẹ. Vậy khi gặp Công chúa cố đừng làm điều gì phật lòng bà.

Ngy 28-12-1590, Công chúa cho mời Cevallos tới và bà tiếp cố tại phòng khách với nghi lễ trang trọng. Công chúa phải dùng người thông ngôn để nói chuyện với Cevallos. Cố Cevallos đã tỏ ra lịch thiệp và trả lời những điều mà Công chúa hỏi, rồi ra hiệu cho người Bồ Đào Nha thông ngôn lui ra, và mời một người Trung Hoa làm thông ngôn vào. Công chúa hỏi về nguyên quán của cố, và sau đó Công chúa hỏi cặn kẽ:
- Thầy đã có vợ chưa?
Cevallos nghiêm nét mặt trả lời:
- Tôi làm linh mục (cố) nên theo luật tôn giáo không bao giờ lấy vợ.
Công chúa nghe vậy tỏ nét mặt buồn và nói:
- Thật là một luật ác nghiệt.
Nói xong, Công chúa ra hiệu mời cố đạo vào phòng riêng với bà. Bà nói:
- Bây giờ, không còn nghi lễ phiền phức như ở phòng khách nữa. Thầy thực tình cho tôi biết cảm tưởng của thầy đến đây như thế nào?
Cố Cevallos đáp:
- Được gặp Công chúa, tôi rất mừng và vui nên quên tất cả những ngày gian nan khổ cực trong hải trình.

Và Công chúa còn hỏi những chuyện đi biển của cố và đồng bạn. Công chúa cũng cám ơn cố đã tặng nhiều vật quý giá. Khi cáo biệt, Công chúa còn dặn cố mỗi ngày cố dành thời giờ đến thăm Công chúa tại biệt cung.

Giữ đúng lời hứa, mỗi chiều chiều cố Cevallos đến thăm Công chúa và giảng những sự tích về Thiên chúa cho bà nghe. Trong lúc cố và Công chúa nói chuyện thì nhà vua vào và nhà vua cho biết đêm qua vua và chị (Công chúa) thức cả đêm để bàn với nhau về chuyện tôn giáo. Vì vậy, cố Cevallos đã lấy ảnh tượng ra tặng cho Công chúa và các cung nữ trong triều. Công chúa lấy ảnh tượng treo lên lập một bàn thờ và gọi các cung nữ tới bái lạy.

Nhân dịp này cố cũng xin cho gặp hai giáo sĩ Bồ Đào Nha để bàn việc truyền giáo tại đây. Vì từ khi tới đây cả ba giáo sĩ chưa ai được hành lễ ngày nào vì không có bàn thờ, nhà thờ riêng. Đến ngàyy 13-1-1591 cố Cevallos làm đơn xin cất một nhà nguyện nhỏ, và nhờ Công chúa đệ đơn lên đức vua. Vua chấp nhận đóng triện ngay.

Từ ngày gặp giáo sĩ Cevallos, Công chúa rất vui mừng và tỏ ra quý mến giáo sĩ. Lúc này thì cả hai không dùng thông ngôn nữa vì cũng tạm hiểu những câu hỏi của nhau. Ðến đây Công chúa nói là mong các giáo sĩ đừng về cố hương nữa và ở lại đây kết bạn rồi truyền đạo. Nhưng Cevallos trả lời, riêng ông không thể được vì ông là linh mục. Nghe vậy, Công chúa không nói thêm nữa mà chỉ đưa ra ý kiến thôi, còn tùy thầy nghĩ sao thì nghĩ.

Ngày hôm sau, trong cuộc nói chuyện giữa Công chúa, nhà vua và cố Cevallos, nhà vua nói:
- Nhà vua rất quý mến những người Y Pha Nho, và chỉ muốn làm bà con gia đình với người Y Pha Nho.

Đến ngày 2-2 là ngày khánh thành nhà nguyện Đức Bà dâng con. Công chúa Chèm lại nhân dịp này lại ngỏ ý với cố Cevallos một lần nữa. Công chúa nói:
- Thực tình tôi ngỏ ý cùng thầy, là tôi rất quý mến thầy ngay khi được gặp thầy, vì thầy tỏ ra lịch thiệp, thông minh. Vậy tôi muốn kết hôn với thầy.

Nhưng cố Cevallos đưa ra những lý lẽ để từ chối. Còn Công chúa thì quá thương Cevallos nên nói thẳng:
- Tôi đã nhất định chọn thầy làm chồng tôi.
Đến đây, cố Cevallos không biết trả lời sao, nên ông đem chuyện này về bàn với hai vị giáo sĩ của bạn ông, để tìm xem có cách nào giải quyết việc trên không. Khi Cevallos đem chuyện trên nói ra đầu đuôi với hai giáo sĩ và các bạn ngoài đời. Mấy người không phải là tu sĩ thì khuyên Cevallos nên lợi dụng dịp này chấp nhận để các giáo sĩ khác có hoàn cảnh truyền đạo. Nhưng cố Cevallos và hai giáo sĩ kia thì không đồng ý. Và họ đã bàn cách hoãn binh bằng cách trả lời Công chúa là đem việc này về trình xin phép Giáo hoàng ở La Mã đã. Còn bây giờ thì Công chúa nên nhập đạo trước rồi khi thông hiểu luật đạo Công chúa sẽ nghĩ lại.

Đến ngày hôm lễ Thánh Blaise, cố Cevallos, lại vào gặp công chúa. Sau lời chào hỏi, Công chúa tỏ nét mặt buồn và nói:
- Ý định hôm trước tôi thưa với thầy, thầy đã nghĩ kỹ chưa, thầy có ưng làm chồng tôi không, còn tôi thì vẫn yêu thầy. Nhưng nếu thầy thấy luật Chúa đã dạy giáo sĩ không được lấy vợ thì thôi, và ta không nên cưỡng luật Chúa.
Cố Cevallos nghe Công chúa nọi vậy mừng trong bụng và nói:
- Công chúa nói đúng ý nghĩ của tôi. Vì tôi đã khấn luật linh mục sống độc thân. Và tôi rất cám ơn lòng tốt công chúa đã dành cho tôi.
Công chúa lại tiếp:
- Vậy thầy không thể kết bạn đời với tôi, nhưng tôi vẫn kết bạn đạo với thầy và tôi xin nhập đạo để cùng phụng thờ Chúa như thầy. Vậy từ nay ta chỉ nói chuyện đạo thôi.
Cố Cevallos đáp:
- Tôi cũng chỉ cầu mong Chúa soi sáng cho tôi, và mong Công chúa trở lại đạo.
Ngày 22 tháng 2 là lễ Thánh Mathius bỗng dưng Công chúa lại nhắc chuyện cũ và lần này thì bà cương quyết hơn. Công chúa nói:
- Tôi quá yêu thầy, nhưng không phải là luật Chúa ngăn cản, mà tại hai giáo sĩ ngăn cản thầy.
Nói xong Công chúa quay mặt sang hai giáo sĩ cùng có mặt với cố Cevallos, và Công chúa nói với nét mặt giận dữ:
- Từ xưa tới nay ta chưa hề làm điều gì ác với ai, và nay ta cũng muốn giữ như vậy. Bây giờ các thầy về bàn tính lại với nhau xem sao.
Sau khi các giáo sĩ trở về dùng cơm xong, cố Cevallos trở lại gặp Công chúa và nói:
- Bởi tôi là linh mục, nên phải giữ đúng luật giáo hội.

Công chúa nghe vậy, nước mắt đầm đìa và lặng im. Còn cố Cevallos thì chỉ biết tự nhủ lòng mình và cầu xin Thiên Chúa soi sáng cho cố được vững lòng giữ luật Chúa trọn đời.
Cuối cùng Công chúa như động tâm và chỉ thở dài, quỳ xuống khấn nguyện.
Cố Cevallos thấy vậy rất mừng, và cám ơn Công chúa đã cứu linh hồn các giáo sĩ. Và dịp này cố Cevallos cũng xin để giáo sĩ Alfonso de Costa hằng ngày đến giảng đạo cho Công chúa, còn giáo sĩ Joao Gonzalves de Sa thì giảng đạo cho phi tần, nữ hầu.

Giữa lúc này thì bên ngoài chiến cuộc giữa Lê Mạc sắp khơi mào. Và đây cũng là cuộc chiến lớn nhất giữa hai bên một mất một còn vào năm 1591-1592. Lúc đó thì Trịnh Tùng đóng quân tại bản doanh ở thành Tây Giai, và cần đem vua Lê ra mặt trận để khích lệ tinh thần quân sĩ là chiến đấu có chính nghĩa và bà Thái hậu cùng đi theo Thế Tôn, còn hai giáo sĩ Bồ Đào Nha và những thủy thủ Y Pha Nho cũng đồng ý tháp tùng vua ra mặt trận, duy chỉ có cố Cevallos ở lại An Trường thôi. Rồi ngày đầu tháng 5 năm 1591, hai giáo sĩ đã gởi cho cố Cevallos một bức thư báo tin: Ông và những giáo sĩ Bồ Đào Nha và tất cả những người Tây Ban Nha đều bị lên án phát lưu và tịch biên tài sản. Nghe tin vậy, Cevallos vội báo tin cho Công chúa biết. Công chúa thở dài rằng:
- Thiên chúa không muốn như vậy đâu, nhưng án này thật khó cứu vãn, tôi thấy vậy buồn muốn chết được.
Nói dứt lời Công chúa ôm mặt khóc nức nở, và cố Cevallos xin cáo lui.
Như thường lệ, ngày hôm sau cố Cevallos lại đến giảng dạo cho Công chúa. Và lần này Công chúa tỏ ra nét mặt buồn rầu và nói:
- Linh cảm tôi thấy thầy sắp xa tôi. Vậy thầy hãy cho phép tôi vào đạo ngay đi.

Cố Cevallos hỏi Công chúa tại sao bà là chị của vua mà sao không có quyền bác bỏ bản án bắt giam các giáo sĩ. Công chúa cho biết là có những luật mà không ai có thể can thiệp được.
Và sự thật thì luật ấy do bàn tay của chúa Trịnh chuyên quyền, vì Trịnh Tráng lúc đó rất lo sợ những người Tây phương sẽ giúp nhà Lê loại trừ nhà Trịnh ra khỏi triều đình, vì vậy đã bảo các quan ra bản án “Cevallos” đã vô lễ với các quan trong triều”.
Còn Cevallos thì hỏi Công chúa bây giờ có tin đạo không.
- Tôi tin chân lý của Chúa và xin giữ đạo. Và xin thầy hãy rửa tội cho tôi ngay, nếu để chậm sẽ khó khăn.
Cố Cevallos đặt cho Công chúa tên bổn mạng là Maria, và lễ rửa tội hoàn tất, cố Cevallos lại hỏi:
- Từ giờ trở đi tôi và Công chúa là họ hàng thiêng liêng cùng một đạo.

Đến sáng ngày hôm sau thì có 8 bà khác ở trong cung cũng xin rửa tội. Buổi chiều cũng có thêm 8 bà nữa xin nhập đạo. Đến cuối tháng 5 thì cố Cevallos đã rửa tội được tất cả 72 phụ nữ và 5 đàn ông.
Đến ngày 15-6-1591, Công chúa Maria Mai Hoa xin vua cấp cho một ngôi đình nhỏ để làm tu viện và cấp một khoản tiền hằng năm để tu viện có phương tiện làm nhà thương, nhà tế bần do Công chúa lập ra nay mai.

Vua chấp thuận cấp đất, cấp tiền để làm việc xã hội. Khu đất này thuộc sản nghiệp hoàng gia ở bên kia con sông Chu, và khu này được gọi là một làng đạo sống riêng.

Cố Cevallos cấp tốc tổ chức tu viện, và cho phép treo những ảnh tượng về sự tích Thiên Chúa đã làm “phép lạ” khi xưa. Ngày 26-7-1591, lễ khánh thành tu viện và được đặt tên là Dòng Đức bà vô nhiễm. Cố Cevallos cử Thánh lễ đầu tiên ở đây, và chấp nhận 51 nữ tu mặc áo dòng. Ít lâu sau có thêm nhiều người gia nhập đạo, chịu phép rửa tội.

Đến ngày 15-8-1591, Cevallos tới nhà các giáo sĩ Bồ Đào Nha ở ngoài thành, thì khoảng quá trưa một viên lãnh binh đã dẫn 30 tên lính cầm giáo mác tới. Viên lãnh binh cáo lỗi các tu sĩ và truyền lệnh cho binh sĩ cởi hết áo của mấy giáo sĩ ra, và đưa áo trắng thường dân cho mặc. Sau đó các giáo sĩ bị trói tay, và mang gông, xích sắt ở chân. Đến ngày hôm sau thì họ đưa Cevallos ra cửa Bạng rồi giải xuống tàu của Bồ Đào Nha đang đậu tại cửa biển trục xuất họ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam

J.P.Thạnh
(Theo “Lịch sử truyền giáo của LM Nguyễn Hồng)

Ngụy Nhân sưu tầm


Đá gà… gà đá

ngythanh02234142
NgyThanh
Năm nay Giáp Ngọ, lẽ ra chúng ta nên bàn chuyện ngựa đá người, hay những cú đá hậu của ngựa làm vỡ mặt chủ. Nhưng những chuyện ấy thiên hạ nói hết cả rồi, nên kỳ báo nầy xin dành để nói về một trong những trò vui truyền thống vào những ngày đầu năm: chơi đá gà.
Đá gà và võ thuật gà trong lịch sử Việt Nam
Đá gà (hay chọi gà) là một trong những trò chơi phổ thông của người Việt, được cho là xuất phát từ triều các vua nhà Lý, khi tướng Ngô Tuấn cầm binh sang đánh Chiêm Thành ba trận, vào tháng 2/1069, lần kế tiếp vào năm 1075, và lần cuối năm 1104. Trong trận đầu, Ngô Tuấn bắt sống được cả vua Chiêm là Rudravarman IV (Chế Củ). Ở trận thứ ba, sau khi bị quân ta đánh bại, vua Jaya Indravarman II (Chế Ma Na) đã phải giao nộp cho Đại Việt 3 châu Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý (là phần đất Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên ngay nay) để chuộc mạng và được tha về. Ngoài chiến thắng đất đai, binh sĩ của Ngô Tuấn cũng mang về nước các tập quán hay, vui và mới lạ, trong đó có tục đá gà. Với các công trạng khai phá đất nước, tướng “khai quốc công thần” Ngô Tuấn được triều đình cho mang họ Lý của nhà vua, và đổi tên thành Lý Thường Kiệt.
Gà đá được phát triển hẳn thành một bộ môn võ thuật, có văn bản hẳn hòi, gọi là “Kê Kinh” – một bài kinh bằng thơ lục bát dài 4.824 chữ, bắt đầu bằng “Trời xuân nương ngọn đèn hoa, Thừa nhân xem thấy sách gà Phạm Công”. Năm 1902, Kê Kinh được đăng trên tuần báo Nông cổ mính đàm (農賈茗談 – lúc bấy giờ phiên âm thành Nông cổ mín đàm), mà người ta truyền tụng rằng chính Tả quân Lê Văn Duyệt – người từng nuôi đàn gà 5 ngàn con để nghiên cứu bằng cách xem tướng gà dựa trên màu lông vảy chân – là tác giả. Nông cổ mính đàm có nghĩa “uống trà bàn chuyện làm ruộng và đi buôn”, là tờ báo kinh tế đầu tiên in bằng chữ Quốc ngữ. Báo do chủ đồn điền Paul Canavaggio làm chủ nhiệm, ký giả Lương Khắc Ninh là vị chủ bút đầu tiên. Lúc đầu, các số báo ra mỗi ngày thứ năm hằng tuần, rồi về sau mỗi tuần 3 số. Sau hơn 20 năm, báo bị đình bản ngày 4/11/1921.
Trước đó, vào đời nhà Trần, phong trào chọi gà đã lan truyền hết sức rộng rãi trong dân gian, nên khi đạo quân Mông Cổ của Hốt Tất Liệt (忽必烈) vừa xóa sổ xong Vương quốc Đại Lý ở Vân Nam vào năm 1253, chuẩn bị đánh qua Tứ Xuyên và tràn xuống Việt Nam. Tháng Chạp năm Giáp Thân 1284, cánh quân của Thoát Hoan đã đánh bật căn cứ Chi Lăng, làm Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn phải dẫn tàn quân thoát về Vạn Kiếp. Thấy thế địch quá mạnh, vua Nhân Tông khuyên tướng Trần Quốc Tuấn đầu hàng. Nhưng Hưng Đạo Vương một mặt xin vua cứ chém đầu mình đã, rồi hãy hàng giặc, một mặt viết Dụ chư tỳ tướng hịch văn (諭諸裨將檄文), tức Hịch Tướng Sĩ với nội dung cảnh tỉnh binh lính phải ngừng chuyện mê muội, để cầm vũ khí bảo vệ đất nước. Trong Hịch văn có đoạn nói về đam mê đá gà: “Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; Hoặc đổ bác dĩ vi ngu. Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia; Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ. Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ; Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập. Hoặc cam mỹ tửu; Hoặc thị dâm thanh. Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai, Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp” — (Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; Có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; Có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; Có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc).
Danh nhân thứ ba trong lịch sử Việt Nam có liên quan đến lãnh vực gà chọi, là ông em út nhà Tây Sơn. Tuy nhiên, dù mang danh “Đông Định Vương”, nhưng Nguyễn Lữ (tức Nguyễn Văn Lữ) là mẫu người nghệ sĩ. Ông hiền từ độ lượng, không tham danh, không cố vị, chỉ thích ngao du đây đó để thỏa mãn thú tò mò và ý thích học hỏi chuyện hay vui mới lạ mà bản thân mình chưa được biết. Có những thành kiến phiến diện cho rằng ông là người hèn yếu, giặc chưa đánh đã bỏ thành chạy để cứu lấy thân, nhưng không ai phủ nhận chính ông là một võ sư đã khai sáng ra môn quyền thuật Hùng Kê Quyền (bài quyền gà chọi) một thời nổi tiếng và vẫn lưu truyền đến nay. Do phát âm không chuẩn, Hùng Kê Quyền ở một số địa phương xa cách các thị trấn bị gọi trại đi thành “Hồng” Kê Quyền, là bài quyền đặt căn bản trên các thao tác của con gà chọi khi lâm chiến, tận dụng tính bền bỉ và nhẹ nhàng nhưng dữ dội để có thể tấn công vào bất cứ sơ hở nhỏ nhặt nào của đối thủ.
ngythanh0224141

Chuyện không hay ho gì của một người tự xưng cứu nước
Nhân vật thứ tư trong lịch sử Việt nổi cộm về chuyện đá gà, là một ông tướng Không quân. Trong trận chiến đẫm máu chống lại mưu đồ thống trị miền Nam của Hà Nội với hàng triệu thanh niên miền nam hi sinh tính mạng, thì ở trên đỉnh cao của quyền lực, tướng Nguyễn Cao Kỳ lạm dụng máy bay skyraider bay theo sát cánh máy bay dân sự có chở chiêu đãi viên Tuyết Mai để tán tỉnh người đẹp, và tổ chức trường đá gà riêng của mình trong căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất để vui chơi.
Nếu vì sợ xấu mặt mà mỗi người lính VNCH phải ngậm miệng trước những trò tệ hại của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, thì vào những năm gần ra nhà xác, “tướng râu kẽm” tự dẫn xác về Việt Nam cầu thân với cộng sản, bôi nhọ đồng đội cũ của mình, và nổ, khoe, hoặc khai tất cả những chuyện thâm cung bí sử về chuyện đá gà của bản thân.
Chuyện đá gà của ông Kỳ 
Trước năm 1975, việc huấn luyện gà trong trại gà nòi của Nguyễn Cao Kỳ được các huấn luyện viên có đẳng cấp phụ trách để có thể phát huy triệt để các đặc tính của một chiến kê. Ngay các “thầy gà” được vinh dự vào “trường gà” của tướng Kỳ đều bái phục thủ tục chọn tông, kén giống và nhân giống gà của nhóm huấn luyện viên riêng của ông. Nhóm đặc biệt nầy có nhiệm vụ bôi mặt để gà cùng bầy không thể nhận diện nhau trước khi gắn cựa cho đá thử. Thường, dân sành gà chọn giống gà Cao Lãnh, với cánh rộng, nhảy cao, cựa đâm nhanh hoặc giống gà Bà Ðiểm Hóc Môn to con, đá đòn cứng, khỏe mạnh, như tình thần câu nói: “Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh; Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân!” Vì từ tháng Năm, gà thường thay lông xong khó có thể đá hết sức mình, nên chúng được cho tập đá từ tháng Chạp đến cuối tháng Tư. Khi gà non vừa mọc đủ lông, các thầy lo tỉa bớt lông nách, lông cổ, và cả lông hậu môn, riêng lông đầu thì nhổ sạch, trước khi thân gà được “vô ngải nghệ”, tức tẩm một hợp chất gồm nghệ, phèn chua, ngải cứu trộn chung với muối trong rượu đế để làm da thịt gà săn lại, tăng sức chịu đòn. Thức ăn của gà là loại lúa tròn, được ngâm cho lên mộng, để đầu thóc không xóc vào cổ gà. Ngày hai lượt, ban ngày gà nòi được các thầy cho “quần nắng” và ban đêm được “quần sương” để chúng quen với thời tiết nóng lạnh khi giao đấu. Gà chỉ được uống nước mưa chứa trong lu sành, kiêng uống nước giếng nước sông. Sau trận đấu, nếu gà thua cuộc không còn đứng vững, thầy gà phải ẵm con gà lên, kẹp chặt bên hông, để “vỗ hen” cho nó: một tay nắm đầu gà dùng ngón mở banh miệng gà ra, tay kia dùng khăn sạch thấm nước bóp cho nước chảy nhẹ vào họng gà, trước khi ghì đầu gà chúi xuống, vỗ vào cổ để nhớt, đàm, dãi, lông, cát trong họng nó phải tuôn nhểu ra. Cẩn thận hơn, huấn luyện viên dùng chiếc lông gà rửa sạch ngoáy sâu xuống cổ họng gà để kéo hết đàm dãi ra. Tiếp theo, lấy lá trầu tươi vò nát trộn và viên tròn với muối, nhét vào họng cho gà nuốt xuống, để làm sạch miệng gà vừa ngừa gió độc. Kế đến, thầy phải tìm các vết thương để xức thuốc kháng sinh hay khâu vá nếu cần.
Trong giai đoạn huấn luyện, gà chọi phải được “xổ” (đá thử) nhiều lần để thầy gà nắm biết được sở trường của từng con. Có con sở trường về “giàn nạp”, “đá đầu”; có con chuyên “đá hầu”, “đá mé’; và có những con đá “đòn buông” (phóng tiễn) hay “đá vỉa tối” (đòn luồn). Đòn buông là thế đá khi xung trận, gà không mổ vào địch trước như các loại gà khác, nhưng thận trọng tìm chỗ hở để đá trúng địch thủ. Ngược lại, “đá vỉa tối” là khi gà tìm cách rúc đầu vào bên cánh địch để tránh đòn, rồi bất ngờ mổ lên vai, lưng hoặc đầu đối thủ trước khi ra một ngón đòn đá chí tử, thường nhắm vào hai bên phao câu, trên lưng hay vào mắt đối thủ. Các đặc tính và sở trường, sở đoản của mỗi chiến kê đều được các thầy gà ghi chép tỉ mỉ để trình cho ông Kỳ trước khi mang gà đi “cáp độ” với các chủ gà khác. Ngoài ra, trước khi Nguyễn Cao Kỳ đem gà đi đá độ, các thầy gà còn phải nắm “lý lịch” đối thủ để huấn luyện tăng tốc, và nuôi thúc bằng cách thêm vào số lúa ăn thường ngày các miếng thịt bò tươi loại đặc tuyển vằm nhỏ trộn với trứng gà sống để tăng lực cho chiến kê.
Không rõ hành động bỏ bê việc nước và việc nhà binh để chạy theo thú say mê đá gà của Nguyễn Cao Kỳ đã góp được bao nhiêu phần cho biến cố mất miền Nam hôm 30/04/1975, và chẳng biết con cháu của cựu Phó tổng thống VNCH thành công nhiều hay ít trong nỗ lực bưng bít các chuyện chẳng hay ho gì của “Người”, nhưng “ngàn năm bia miệng sẽ còn trơ trơ” với hai chứng tích nầy:
Trong cuốn An American Adventure (Một cuộc phiêu lưu của người Mỹ), tác giả William Lloyd Stearman viết: “Tôi cũng từng có dịp chứng kiến, chỉ một lần duy nhất trong đời, một trận đá gà; trận đấu có Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ tham dự, ông là người có gà tranh hùng trong trận nầy”.
Về phần mình, trong cuốn sách gây nhiều phản bác và dư luận ồn ào Buddha’s Child: My Fight to Save Vietnam (Con Cầu Tự: Cuộc Tranh Đấu Của Tôi Để Cứu Việt Nam), ở dòng áp chót trang 267, tác giả Nguyễn Cao Kỳ đã không nhắc có bao nhiêu người Việt đã chết dưới thời ông làm phó tổng thống, nhưng lại không quên kể lại chuyện đá gà của dân đồng bằng sông Cửu Long.
Đá gà vòng quanh thế giới
Theo thế giới phương Tây, đá gà là một trò thể thao đẫm máu giữa hai con gà chiến, được chính thức bút lục bởi Antonio Pigafetta, nhà biên niên sử của thám hiểm gia Bồ Đào Nha, ông Ferdinand Magellan, khi họ tới khu vực Taytay và khám phá ra Phi Luật Tân vào năm 1521.
Do tính chất của cuộc đấu, dù không hẳn trận nào cũng gây tử vong cho đối thủ, nhưng ít nhất con gà thua trận phải bị thương trầm trọng trước khi chịu nhận phần chiến bại và bỏ chạy khỏi cuộc đấu, và cuộc đấu chỉ kết thúc khi một trong hai đấu thủ tử thương hay bị thương và loại khỏi vòng chiến. Trò chơi nầy có lịch sử 6.000 năm ở vùng Ba Tư (nay là Iran). Theo một học giả, người ta đã tìm thấy dấu tích của trò đá gà tại khu vực Văn minh lưu vực sông Ấn (Indus Valley Civilization) – một nền văn minh Thời đại Đồ Đồng tức khoảng năm 3300 trước Công nguyên, phát triển dọc theo sông Ấn nằm về phía tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ. Trò chơi nầy phổ biến tới nhiều địa phương, mang chút ít khác biệt trong cách vũ trang cho gà chiến: có nơi dùng cựa kim khí, có nơi dùng dao bén nhọn cặp vào vị trí cựa thật của gà đã bị cắt tỉa một phần. Cựa có thể dài từ 3cm đến 6cm. Cuộc đấu có thể là 3 hiệp dài 20 phút, hay 4 hiệp dài 15 phút, với 15 phút giải lao xen kẽ.
Dân Nicaragua, Venezuela, Colombia, Ecuador, Pháp, Mễ, Dominican Republic, Phi Luật Tân, Peru, Panama, Puerto Rico, Canary Islands, Saipan và đảo Guam ngồi vào hàng ghế khán giả để xem trận đấu hẳn hòi, trong khi ở các nước khác người xem chỉ việc túm tụm lại ở một sân vận động, một sân bóng chày nào đó là có thể gầy nên một trận huyết chiến. Tại Cuba, đá gà là loại hình thể thao theo mùa, thường kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 – vì sau đó là mùa gà thay lông, chúng không nhiệt tình đấu đá – được tổ chức ở các sân đấu gọi là valla, bao quanh bằng một hàng rào thấp để ngăn khán giả không tràn vào sân. Trận đấu ở đây qui định bằng một hiệp duy nhất, dài 30 phút, nhưng thực tế cho thấy 50% các trận đấu chấm dứt không lâu hơn phút thứ sáu. Những người nào bị phát hiện cá cược cáp độ sẽ bị các hình phạt khá nặng, có thể vĩnh viễn không được dự các trận đá gà nữa.
Trò đá gà ở Mễ được cho là do các thủy thủ Phi Luật Tân du nhập tới. Ở thủ đô, người ta xây dựng hẳn một sân đá gà có tên Palenque. Các palenque như thế cũng mọc lên khắp các thành thị lớn, cũng phổ thông chẳng khác các hí viện chuyên trình diễn nhạc truyền thống. Trong Chợ phiên San Marcos kéo dài 3 tuần vào tháng Tư hằng năm, ca sĩ và vũ công khiêu vũ ngay trên sân đá gà, và các hiệp đá gà được tổ chức xen kẽ với các tiết mục văn nghệ. Ở Peru, trò đá gà được cho phép, nhưng phải tổ chức trong các đấu trường, nơi hai ông quản đốc là hai kẻ có gà duy nhất, mỗi người ôm một con, trước sự hiện diện của một thẩm phán giữ chức vụ trọng tài. Trong khi đó tại Brazil, môn đá gà có tên rinha de galos đã bị loại ra khỏi vòng pháp luật từ năm 1934.
Bên châu Á, ở Bali, đá gà được tiến hành như một nghi thức tôn giáo để tẩy uế và trừ tà. Nghi thức nầy có tên tabuh rah (đổ máu) nhằm cung hiến máu của con gà bị hiến tế cho tà thần. Trận đấu gà được tổ chức trong các đền thờ Ấn giáo, nhưng không có sự tham dự của phái nữ. Bên ngoài đền thờ, đá gà ở Indonesia bị khép vào tội cờ bạc theo luật mới áp dụng từ năm 1981.
Ở Nhật, đá gà được quan niệm như môn đô vật, nếu như gà tơ được đấu đá bằng cựa thật của chúng. Trái lại, ở Ấn độ, đá gà là môn thể thao được ưa chuộng, nhất là đối với dân vùng duyên hải Andhra Pradesh, Dakshina Kannada và ở huyện Udupi – nơi người ta thường gắn dao bén dài 11cm vào chân gà, và trận đấu chỉ kết thúc khi một trong hai chiến kê phải bỏ xác tại trận. Ở vùng Tamil Nadu, phần thắng được tuyên bố sau ba hay bốn hiệp đấu, và gà chiến phải tham dự bằng chân trần.
Ở Iraq, đá gà là phạm pháp, nhưng luật thì mặc ông nhà nước, các trận đá vẫn diễn ra ở khắp nơi, và giá mỗi con gà chiến có thể ngang với 8 ngàn đô. Bên Pakistan, đá gà là thể thao, chính phủ chỉ cấm cá độ, theo Đạo luật Chống Cờ Bạc năm 1977, nhưng cảnh sát thường làm ngơ nếu có bắt gặp. Bên Phi Luật Tân thì khỏi nói, người ta tổ chức hằng tuần tại những điểm bí mật, và gắn dao một lưỡi hay lưỡi kép vào chân trái của gà. Thông lệ nầy còn tùy hai chủ gà; đôi khi họ thỏa thuận gắn dao vào chân phải, hay cả hai chân. Nếu ở trong bờ, chính phủ Úc cấm hẳn mọi hoạt động đá gà, thì ngoài khơi, trên hàng ngàn tiểu đảo thuộc phân vùng Micronesia của châu Đại Dương ở tây Thái Bình Dương kế cận Úc, môn đá gà được kể như truyền thống văn hóa, được tổ chức suốt tuần tại sân đấu có giấy phép của chính phủ.
Bên châu Âu, đá gà bị cấm, chỉ trừ tại Canary Islands và Andalusia, nhưng ngược lại môn đấu bò, trong khi cả nước coi là trò vui hợp pháp, thì lại bị cấm ở Canary Islands. Chính phủ Anh cấm chỉ đá gà ở trên lãnh thổ Anh, ở Wales, và trên tất cả thuộc địa Anh ở trên thế giới, theo Đạo luật Cấm Tàn Ác Với Thú Vật năm 1835. Ở Pháp còn khắt khe hơn: không cần đá gà hay xem đá gà, chỉ cần ôm một con gà chiến trong mình, đã là một tội ác, chỉ trừ: đá gà được hợp pháp tại vùng Bắc Pas de Calais, Vùng chính quốc Pháp, và các làng mạc quanh xứ Lille.
Tại Hoa Kỳ, trong khi ở American Samoa, Guam, Puerto Rico và Virgin Islands trò đá gà, chủ gà đá, xem đá gà đều hợp pháp, thì trong tất cả 50 tiểu bang và tại Quận hành chánh Columbia (thủ đô), những gì liên quan tới đá gà đều bất hợp pháp, sau khi Louisiana trở thành tiểu bang cuối cùng ký luật cấm vào tháng 8/2008. Hình luật về đá gà tại các địa phương Mỹ thay đổi khác nhau: 34 tiểu bang và DC quy định đá gà là trọng tội (felony), trong khi các nơi khác chỉ coi là khinh tội (tội nhẹ, misdemeanor). Ngày 7/02/2014 vừa qua, Tổng thống Obama mới ký thêm Luật Nông Trại, trong đó, việc mang một trẻ em dưới 16 tuổi tới dự một trận đấu của bất kỳ thú vật nào, là một tội ở cấp liên bang.
Cơn Thịnh nộ của Loài Lông vũ
Ngày 8/02/2014, chỉ 24 giờ sau khi chữ ký của Obama vừa ráo mực, một cuộc hành quân mang tên “Cơn Thịnh nộ của Loài Lông vũ”, đã phát hiện và giải cứu cho 3.000 chiến kê, và đưa 9 ‘kê sư’ – hầu hết là dân nói tiếng Mễ – vào chuồng rệp.
Trong một văn thư công bố chi tiết nội vụ, Bộ trưởng Tư Pháp Eric Schneiderman của tiểu bang New York cho biết đấy là cuộc bố ráp tệ nạn đá gà lớn nhất từ trước đến nay trong tiểu bang, và cả trong lịch sử Hoa Kỳ, tiến hành đồng loạt tại các mục tiêu ở các quận Queens, Brooklyn và Ulster, với sự phối hợp của cảnh sát tiểu bang và nhân viên Bộ Nội An.
Ở các trường đá gà nầy, người xem phải mua vé vào cửa, cộng thêm lệ phí ghế ngồi tổ chức dưới các tầng hầm với các trận đấu từ chiều tối kéo dài suốt đêm đến sáng. Cũng tại đây, chủ chứa bán rượu bia không có giấy phép, còn người xem thản nhiên dùng ma túy, và thiên hạ tùy tiện cá cược, có khi một món tiền cược cho mỗi con gà lên tới 10 ngàn đô.
Ở quận Queens, cảnh sát đột kích trường đấu thường diễn ra hai tháng một lần tại địa chỉ 7426 đường Jamaica, bắt giữ 70 người, trong đó có 6 người can tội tổ chức. Tại quận Brooklyn, tiệm buôn gia súc do ông Jeremias Nieves 74 tuổi làm chủ, ở địa chỉ 71 đường Central, đã bị đọc lệnh khám xét. Tang vật gồm 50 chiến kê giấu dưới tầng hầm của tiệm. Chủ tiệm bị bắt giữ vì oa trữ cựa sắt nhân tạo cùng với băng cứu thương, sáp nhựa và kim tiêm để chích thuốc kích thích gà. Nhân viên công lực cũng đột kích nông trại Plattekill rộng 92 mẫu ở địa chỉ 230 đường Plattekill Ardonia, nơi nuôi chui cả 6.000 gà đá để bán lẻ cho các thân chủ có máu me đá gà ở các tiểu bang khác tới, nhất là từ New Jersey, Pennsylvania, Connecticut và Massachusetts. Quản đốc nông trại, ông Manuel Cruz 60 tuổi và viên phụ tá tên Jesus Cruz 37 tuổi đã bị câu lưu, sau khi cảnh sát phát hiện đàn gà có gắn cựa sắt đang bị nhốt trong những lồng nhỏ. Một vài tiếng đồng hồ sau vụ đột kích, chủ nông trại, ông Moises Cruz 71 tuổi, đã bị cảnh sát quận Pasco bắt giữ tại một căn nhà ở Meadowpoint, tiểu bang Florida, sau khi ông trốn thoát cuộc vây bắt của chính quyền New York.
Theo luật tiểu bang New York, đá gà và sở hữu gà chiến bị bắt quả tang tại trường đấu là trọng tội, với hình phạt tối đa có thể lên tới 4 năm tù giam, và phải đóng tiền phạt tới 25.000 đô. Phần khán giả mua vé vào xem sẽ bị khinh tội, với bản án tối đa 1 năm tù, cộng với 1.000 đô tiền phạt.
Thú vui tao nhã?
Tinh thần thể thao hay máu me cờ bạc? Trò đùa đẫm máu hay thú vui thanh tao? Tùy bạn. Nhưng luật là luật. Ở Việt Nam, nếu bạn là công an hay có đảng tịch, luật pháp chỉ là cuộn giấy đi cầu không hơn không kém. Nhưng ở Mỹ, nếu bạn thừa tiền, thì có nhiều thứ để chơi dại, nên đừng đùa với luật pháp. Nếu bạn nhất định cho rằng đá gà muôn thủa chỉ là trò chơi, thì cũng cần thận trọng.
Ở Kiên Giang, anh Phan Thành Thọ, 39 tuổi, làm nghề thợ hồ ở khu phố 2, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, có con gà chiến, thường được chủ đưa đi đá độ ở nhiều nơi. Hôm 2/11/2010, anh Thọ băng cặp cựa sắt dài 6cm vào chân gà rồi thả cho đi trong sân nhà, và say sưa đứng ngắm gà mình bệ vệ đi lại trong sân với đôi cựa đặc biệt. Bất chợt con gà lao đến tấn công chủ, chém nguyên cặp cựa sắt vào ngực anh Thọ. Được đưa tới bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang cấp cứu, các bác sĩ thấy nạn nhân bị cựa gà đâm sâu 4cm, thủng cả tim, và ca mổ sau đó kéo dài suốt 3 tiếng đồng hồ, để mở lồng ngực và khâu vết thủng cho anh. Đây là vụ gà chiến phản chủ đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam.
Ngày 30/01/2011, tại thị trấn Tulare, một người ở California tên Jose Luis Ochoa đi xem đá gà, đã bị gà đá mất mạng. Văn phòng pháp y quận Kern cho hay thanh niên Ochoa 35 tuổi nầy đã chết tại bệnh viện hai tiếng đồng hồ sau trận đá gà, vì cựa sắt của con gà chiến đá chém trúng vào bắp vế bên phải của anh.
Trước đây, Ochoa đã từng bị cảnh sát bắt vì tội đá gà, và đã phải đóng phạt 370 đô. Lần nầy, bị gà chém vào chân, nếu để bị bắt nữa, số tiền sẽ hơn. Do đó, anh chàng bỏ chạy khỏi hiện trường khi cảnh sát sắp đến, nên bị mất nhiều máu từ tĩnh mạch chủ bị chém đứt. Tại trường đấu, cảnh sát thu nhặt 5 xác gà đã chết, cùng với các tang vật của trận đấu.
Phan Thành Thọ và Jose Luis Ochoa chơi dao nên có ngày mang họa. Nếu không bỏ được cơn ghiền, bạn phải tiếp tục chơi, thì cứ mặc áo giáp mà chơi, nhưng đừng khoác lác như tướng râu kẽm, để chết chôn rồi, vẫn cứ thối.
NgyThanh

Món nợ mà nhà cầm quyền không muốn trả

Sau gần 40 năm độc quyền lãnh đạo trên toàn đất nước, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn chưa trả được những món nợ tối thiểu cho người dân: tự do dân chủ và tôn trọng nhân quyền.

Cho đến buổi Kiểm Ðiểm Nhân Quyền Ðịnh Kỳ Phổ Quát UPR tại trụ sở Liên Hiệp Quốc, Genère vào ngày 5 Tháng Hai vừa qua, phái đoàn chính phủ Việt Nam vẫn phải đối mặt với những lời nhắc nhở lẫn chỉ trích nặng nề của đa số các nước về hồ sơ nhân quyền tệ hại.

lequocquan ratoa
Sau phiên tòa phúc thẩm, Luật Sư Lê Quốc Quân vẫn tiếp tục bị đày ải trong tù. (Hình: TTXVN)


Dù đã sử dụng bộ máy truyền thông báo chí “lề đảng” để tô vẽ về kết quả tốt đẹp của phiên điều trần UPR, nhưng nhà cầm quyền vẫn không thể thay đổi được sự thật. Ðó là, lần này số quốc gia tham gia góp ý, chất vấn Việt Nam đông hơn hẳn (107) so với con số 60 của phiên điều trần năm 2009. Số khuyến nghị mà cộng đồng quốc tế nêu lên với Việt Nam về nhân quyền là 227, so với lần trước chỉ có 123.

Dù cố tình ngụy biện cãi chày cãi cối, nhà cầm quyền có lẽ cũng phải tự hỏi vì sao quá nhiều quốc gia trên thế giới có cái nhìn tiêu cực về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam?

Vì sao các nước đều đưa ra những yêu cầu như nhau là Việt Nam cần phải cho người dân quyền tự do về tư tưởng, ngôn luận, tín ngưỡng, tự do lập hội, chấm dứt việc kết án những người phản kháng ôn hòa, trả tự do cho những người bị giam giữ vì lý do chính trị hay tôn giáo, sửa đổi bộ luật hình sự, giảm thiểu các tội có hình phạt là tử hình v.v...

Xưa nay, trước tất cả những lời chỉ trích, khuyến nghị, Hà Nội thường có những cách trả lời “lưỡi gỗ” rằng các nước có cái nhìn sai lệch, không khách quan, hay nhân quyền ở Việt Nam khác với nhân quyền theo kiểu phương Tây...

Có phải như vậy? Thử nghĩ, động cơ nào khiến các nước phải rỗi hơi làm vậy, khi mà những yêu cầu của họ chỉ là nhà nước Việt Nam hãy đối xử tử tế hơn với chính nhân dân của mình?

Và có phải Việt Nam, vì có nền văn hóa riêng, hoàn cảnh lịch sử, xã hội riêng, nên những giá trị, tiêu chuẩn về quyền con người cũng phải khác, cho dù ở đâu trên thế giới này, con người cũng có những nhu cầu, khát vọng, mơ ước như nhau?

Ngay trong phái đoàn hùng hậu kéo nhau sang “đọc” báo cáo về thành tích nhân quyền của nhà nước cộng sản Việt Nam, có bao giờ, có ai tự hỏi những điều này.

Trong số họ và trong 3-4 triệu đảng viên cộng sản đang hưởng những quyền lợi lớn từ chế độ, chắc chắn phải có bạn bè, người thân hoặc con em đang học tập, làm việc, sinh sống tại các nước dân chủ phát triển. Chắc chắn họ đều được nghe, hoặc tận mắt chứng kiến, so sánh cuộc sống của người dân Việt Nam và các nước khác, cách đối xử của những người đại diện cho nhà nước với nhân dân nói riêng và mối quan hệ giữa nhà nước-nhân dân nói chung ra sao...

Về phía những người đang đấu tranh cho nhân quyền, tự do dân chủ của Việt Nam, càng nhìn ra thế giới, chúng ta càng thêm thương cho đất nước, dân tộc. Và càng cháy bỏng trong lòng ước mơ về một tương lai tốt đẹp hơn cho Việt Nam.

Tất nhiên, thế giới và ngay chính người dân Việt Nam thừa hiểu Hà Nội sẽ hứa và hứa, nhưng rồi sẽ không làm, như sau lần Kiểm Ðiểm Nhân Quyền Ðịnh Kỳ Phổ Quát UPR 4 năm trước, như hàng ngàn hàng vạn ví dụ khác trong suốt chiều dài cầm quyền của họ.

Thực tế đúng là như vậy. Ngay trước, trong và sau phiên Kiểm Ðiểm Nhân Quyền lần này, những hành động chà đạp nhân quyền vẫn tiếp tục diễn ra, chưa bao giờ ngừng nghỉ.

Trước đó, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng bị cấm xuất cảnh. Một vài tờ báo đảng lên tiếng đòi chặn Facebook. Những tù nhân lương tâm được chính phủ Hoa Kỳ nêu tên đích danh và yêu cầu Việt Nam trả tự do ngay tức khắc như Nguyễn Văn Hải tức blogger Ðiếu Cày, Kỹ Sư Trần Huỳnh Duy Thức, Luật Sư Lê Quốc Quân tiếp tục bị đày ải trong tù.

Không những thế, phiên tòa phúc thẩm xét xử Luật Sư Lê Quốc Quân diễn ra vào ngày 18 Tháng Hai vẫn y án 30 tháng tù giam. Bất chấp phản ứng sau đó của Hoa Kỳ và quốc tế.

Chẳng ai còn lạ gì việc những tù nhân, đặc biệt là tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị, bị đối xử vô cùng hà khắc trong các nhà tù khác nhau ở Việt Nam.

Thông tin ít ỏi từ những người đã, đang bị giam giữ, những lời tường thuật từ người thân của họ như mẹ của nhà hoạt động Ðỗ Thị Minh Hạnh, con trai dân oan Hồ Thị Bích Khương, em gái nhà báo, blogger Tạ Phong Tần... thỉnh thoảng lọt ra ngoài, chỉ là một phần nhỏ của bức tranh hiện thực vô cùng tăm tối sau những song sắt nhà tù.

Trước đó nữa, nhà cầm quyền Việt Nam, do lo sợ trước việc gia đình ông Nguyễn Hữu Cầu, người đã chịu cảnh tù đày 38, 39 năm, lên tiếng đánh động thế giới nên đã dối gạt với gia đình, với đứa cháu nội 15 tuổi của ông rằng sẽ thả ông về trước Tết. Và họ đã nuốt lời hứa, ngay cả với một đứa trẻ.

Còn đối với thầy giáo bất đồng chính kiến Ðinh Ðăng Ðịnh, chỉ đến khi bệnh ung thư gan đã bước vào giai đoạn thứ tư, và trước sức ép từ quốc tế, nhà cầm quyền mới đồng ý cho thầy hoãn thi hành án 12 tháng.

Ðừng quên trước kia có những người tù chính trị như ông Nguyễn Văn Trại cũng bị ung thư giai đoạn cuối, gia đình xin cho ông về chết trong vòng tay người thân nhưng nhà cầm quyền lạnh lùng từ chối, đến khi ông chết gia đình cũng không được mang xác về. Bởi vì, như lời ban giám thị trại: “Nguyễn Văn Trại là một tù nhân chính trị, chứ không phải là người.”

Vậy nhưng, trước nhân dân, trước thế giới, và ngay giữa trụ sở Liên Hiệp Quốc, nhà cầm quyền vẫn tuyên bố không một chút ngượng miệng rằng ở Việt Nam không có tù nhân chính trị!

Những ngày này hàng loạt hành động đàn áp vẫn ngang nhiên diễn ra.

Cựu tù nhân lương tâm Nguyễn Bắc Truyển và vợ sắp cưới bị công an Ðồng Tháp ùa vào nhà, phá đồ đạc, bắt đi câu lưu cả ngày. Tư gia của cựu tù nhân bất đồng chính kiến Huỳnh Ngọc Tuấn bị côn đồ tấn công, bản thân ông và con trai cũng vừa bị công an thuê côn đồ hành hung giữa đường.

Bà Bùi Thị Minh Hằng, một người năng nổ trong các cuộc biểu tình, cùng với một số người khác khi đang trên đường đi tới nhà ông Nguyễn Bắc Truyển, bị công an Ðồng Tháp hành hung, bắt tạm giam từ ngày 11 Tháng Hai. Công dân Nguyễn Văn Thạnh tố cáo bị công an xã Hòa Phước, Hòa Vang, Ðà Nẵng hành hung tối 16 Tháng Hai...

Và dân oan khắp nơi vẫn đang đổ về các trụ sở tiếp dân tại Sài Gòn, Hà Nội để kêu cứu, kiến nghị, ngày này qua ngày khác.

Hoặc tình trạng người dân bị “mời” lên đồn công an “làm việc” vì phạm một lỗi nhỏ trong giao thông hay để điều tra về một vụ việc nào đó, sau đó chết đột ngột do bị công an bạo hành, đã diễn ra từ nhiều năm qua, và vẫn chẳng có gì thay đổi. Chúng ta vẫn tiếp tục đọc thấy những tin tức như “Công an viên bắn 2 viên đạn vào cổ, mang tai dân” (Ðất Việt), “Nghi can trộm tiêu tử vong sau khi làm việc với công an xã” (Tuổi Trẻ), “Thêm một người chết sau khi làm việc với công an” (Tuổi Trẻ)...

Ngày 11 Tháng Hai, trong bản phúc trình về Chỉ Số Tự Do Báo Chí 2014 do tổ chức RFS tức Phóng Viên Không Biên Giới công bố tại Washington, Việt Nam đứng hạng 174/180 quốc gia!

Nghĩa là, không có một dấu hiệu gì cho thấy Việt Nam sẽ cải thiện nhân quyền, nới lỏng tự do dân chủ cho nhân dân.

Con đường giành lại tự do, giành lại quyền làm người đúng nghĩa của người Việt Nam vì vậy còn lắm gian nan. Nhưng nhìn lại chỉ trong một, hai năm vừa qua, phong trào đấu tranh dân chủ, phong trào xã hội dân sự đã làm được khá nhiều. Các tổ chức dân sự như Mạng lưới blogger Việt Nam, Nhóm No-U, Hội Bầu Bí Tương Thân, Phụ Nữ Nhân quyền, Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm Ở Việt Nam ... được thành lập với nhiều hoạt động sôi nổi.

Ngay việc tổ chức thiện nguyện VOICE, Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống, nhóm Dân Làm Báo, mạng lưới Bloggers Việt Nam, Con đường Việt Nam và No-U Việt Nam..., cùng phối hợp có mặt tại Genere để báo cáo về tình trạng nhân quyền của Việt Nam vừa qua, cho thấy đã có sự kết nối, hỗ trợ nhau giữa các tổ chức trong và ngoài nước.

Một khi đã hiểu sự khác biệt giữa cuộc sống của người Việt Nam so với nhiều dân tộc khác, một khi đã thấm thía những quyền lợi gì mà chúng ta đã và đang bị nhà nước này đánh cắp, người Việt chắc chắn sẽ đi đến cùng để giành lại.

Song Chi

Hội An bảo vệ môi trường như thế nào?


Hình:internet

Thành phố Hội An hồi trong tuần cho biết bắt đầu từ ngày thứ ba 25 tháng 3 tới đây tất cả công chức của thành phố này khi đi làm việc đều phải sử dụng xe đạp, trừ những trường hợp đặc biệt. Và sang đến đầu tháng tư, toàn thể người dân được vận động đi lại trong thành phố bằng phương tiện xe đạp.

Lợi ích - bất tiện

Mục tiêu của chủ trương yêu cầu công chức đi làm bằng xe đạp; ngoại trừ trường hợp đặc biệt, cũng như vận động người dân sử dụng xe đạp để đi lại được cho biết ‘nhằm góp phần bảo vệ môi trường, hướng đến xây dựng Hội An- thành phố sinh thái, văn hóa, du lịch”.

Ông Nguyễn Sự, chủ tịch Hội Đồng Nhân dân thành phố Hội An cho biết chủ trương đi xe đạp tại thành phố Hội An như sau:

Thực ra mà nói cách đây 10 năm, Phố cổ Hội An đã đi xe đạp và đi bộ rồi. Cả khu vực phố cổ Hội An không có xe gắn máy, không có tiếng động cơ. Gần như người dân phố cổ Hội An và du khách chấp hành việc này rất tốt. Nó tạo ra thích thú cho du khách khi đến Hội An và điều quan trọng hơn là đảm bảo được vấn đề môi trường, không có tiếng ồn, ít ô nhiễm và không xảy ra vấn đề tai nạn giao thông trong khu phố cổ. Chính không có tiếng động cơ như thế tạo nên sự thích thú cho du khách khiến du khách đến đông hơn và ngày càng mang lại lợi ích cho người dân trong khu phố cổ.

Nay chúng tôi quyết định mở rộng cuộc vận động này ra trên toàn thành phố. Mà để cuộc vận động được toàn thể nhân dân hưởng ứng thì cán bộ, công chức phải gương mẫu, thực hiện trước. Đó là bằng cách công chức khi đi làm đến công sở dưới 5 kilomet đều phải đi xe đạp. Khi chúng tôi đưa ra chủ trương này hầu hết công chức đều đồng tình. Hiện nay có một số cơ quan đã sắm xe đạp và nhiều người đã đi xe đạp đến cơ quan. Sau khi có chủ trương như vậy, chúng tôi đưa đến từng cơ quan bàn bạc để thực hiện. Tuy nhiên cũng có một số ít ý kiến phản ứng; tất nhiên việc gì cũng có phản ứng; nhưng theo tôi cái gì cũng tạo từ thói quen miễ là nếu làm vì lợi ích cộng đồng, lợi ích của thành phố, lợi ích của từng người dân.

Ông Nguyễn Sự đề cập đến những lợi thế thành phố Hội An có được để có thể triển khai chủ trương sử dụng xe đạp đi lại trong thành phố, nhất là đối với công chức khi đi làm hằng ngày từ nhà đến sở:

Thứ nhất thành phố nhỏ, cự ly đi lại của người dân không dài, không xa lắm. Thứ ba nữa đường phố Hội An chật hẹp, không to, không lớn dẫn đến điều là đi xe máy, ô tô thậm chí chậm hơn đi xe đạp. Tốt nhất đi xe đạp vẫn là thuận lợi hơn trong điều kiện bây giờ. Đó là một trong những yếu tố để chúng tôi có thể thực hiện được việc này.

Tuy nhiên theo một người dân sinh sống và làm ăn tại thành phố Hội An, hằng ngày phải tiếp xúc và phục vụ khách hàng thì có một số bất tiện khi phải sử dụng xe đạp để làm ăn như thế, người đó cho biết:

Tất nhiên đi xe đạp cũng có trở ngại khó khăn vì từ hồi nào đến giờ giao dịch với khách nếu khách yêu cầu chở đi đâu, không lẽ chở bằng xe đạp: Tây to mà sao Việt Nam chở bằng xe đạp.Rồi đi chọn kiểu mẫu, vải mà chở Tây sao chở cho nổi. Đi bằng xe đạp chậm thời gian, không phục vụ khách được. Đi xe máy khi nào cũng nhanh hơn đi xe đạp.

Người này nhắc đến đoạn đường 4 kilomet từ thành phố xuống đến Cửa Đại nơi có bãi để dân chúng và du khách tắm biển thì đó cũng là một đoạn đường dài khi đi xe đạp xuống và về lại:

Đạp đi, đạp về 8 kilomet. Rất lâu, dài, tốn thời gian. Nếu là công nhân viên chức 7 giờ có mặt tại công ty; nếu đi xe đạp phải đi từ 6 giờ, còn đi xe máy 6:45 mới đi như thế tiết kiệm được thời gian. Đạp đến công ty thì chết ngắt. Không lụt, bão thì còn tốt; nhưng Hội An là trung tâm lụt bão.

Người dân của thành phố Hội An cũng cho biết về nạn mất cắp xe đạp tại đó so với việc ăn cắp xe máy như sau:

Ngay gần chợ xe đạp thường mất, mà xe máy thì chưa bao giờ mất. Xe đạp rất dễ mất cắp. Tây để xe còn mất chứ chưa nói đến Việt Nam.

Đối với chuyện mất cắp như thế, ông Nguyễn Sự có trình bày:

Vấn đề mất cắp nơi nào cũng có, nhưng chúng tôi có thể nói thế này: thỉnh thoảng Hội An mới có mất cắp xảy ra, cả một tháng hai tháng mới có xảy ra chứ không phải xảy ra thường xuyên.

Tôi có thể nói đối với nhân dân Hội An có thể tự hào một điều là ai cũng hiểu đâu cũng có  người tốt, người xấu; nhưng dân chúng Hội An đều hiểu rằng người ta chỉ có thể giàu lên bằng sự tử tế. Người ta kinh doanh để lấy tiền; nhưng người ta không chấp nhận hành động gây phiền hà, tạo ra sự khó chịu, nghi ngờ không tin tưởng của khách. Người ta thông hiểu giá phải trả: khi việc đó xảy ra trên địa bàn của họ thì sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của họ lâu dài. Họ tự trọng biết rằng nếu chuyện đó ( mất cắp) xảy ra trên địa bàn của họ thì du khách sẽ khinh họ.

Phần lớn người dân Hội An phản ứng đối với việc (ăn cắp) đó. Việc mất cắp xảy ra ở những nơi tham quan, lễ hội tại Hội An cũng có nhưng rất ít, hãn hữu.

Theo ông Nguyễn Sự chủ trương của thành phố được triển khai là vì lợi ích của người dân, của cộng đồng. Trên cơ sở đó thì việc thực hiện sẽ có kết quả:

Qua 10 năm, điều thuyết phục được người dân là lợi ích của người dân, lợi ích của cộng đồng. Qua 10 năm, từ việc đi xe đạp, đi bộ trong khu phố cổ, đã mang lại lợi ích về môi trường- tiếng ồn không có, chất thải không nhiều, phố trở nên yên tĩnh hơn. Người ta cảm thấy an toàn hơn khi sống ở một khu phố yên tĩnh. Thứ hai, khi ra đường người ta không còn lo xác xe gắn máy chạy nhanh nên họ đi nhẹ nhàng. Nó tạo ra cảm giác cho người dân sống chậm lại trong một môi trường phải làm việc như thế này. Họ thấy thích thúc trong tốc độ chậm lại như hiện nay.

Khi du khách thấy thích thú thì họ đến nhiều hơn.

Chúng tôi rút ra kết luận là việc gì làm lợi ích cho cộng đồng, chứ không vì lợi ích của một nhóm nào, thì cuộc vận động hiện nay sẽ thành công. Tôi tin chắc, người ta khi đi lại dưới 5 cây số, ở cự ly gần người ta sẽ đi xe đạp. Điều này không chỉ đối với công chức mà đối với người dân.

Người phụ nữ sinh sống tại thành phố Hội An cho rằng một khi cơ quan chức năng đã quyết định yêu cầu dân chúng đi lại bằng phương tiện xe đạp thì người dân chấp hành thôi:

Tất nhiên đi xe đạp sẽ hạn chế gây tai nạn, gây tiếng ồn. Nhưng phố cổ thì bao nhiêu xe máy mà gây ra tiếng ồn.

Tuy nhiên nếu như họ ra qui định thì tôi vẫn chấp hành dù rằng phục vụ khách không được tốt.

Hạn chế túi nylon

Một biện pháp giúp bảo vệ môi trường cho thành phố du lịch Hội An là hạn chế sử dụng túi nylon cũng đã được áp dụng tại đó từ năm 2009 đến nay.

Ông Nguyễn Sự cho rằng chủ trương đó nhận được hưởng ứng của dân chúng thành phố và một địa phương là Cù Lao Chàm đã triệt tiêu được túi nylon giúp môi trường sinh thái được phục hồi.

Thành phố du lịch- sinh thái

Hội An, trực thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm cách thành phố Đà Nẵng chừng 30 kilomet về phía nam. Đây là một thành phố có lịch sử từ xa xưa của người Chàm. Đến thế kỷ thứ 16, 17 nơi đây trở nên một thương cảng sầm uất.

Năm 1999, Hội An được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới với những công trình kiến trúc nhà ở, đền miếu, chùa chiền...được bảo tồn khá nguyên vẹn. Có thể nói du khách ngoại quốc khi đến miền Trung Việt Nam đều được đưa đến tham quan thành phố Hội An.

Chính quyền thành phố Hội An tiến hành nhiều hoạt động nhằm có thể duy trì những nét đặc trưng của Hội An, xây dựng nơi này thành một khu sạch đẹp về môi trường cho người dân địa phương và thu hút thêm ngày càng nhiều du khách đến tham quan thành phố.

Thống kê cho thấy Hội An hiện có 4 ngàn công chức và dân chúng thành phố này tổng cộng chừng 121 ngàn người.

Gia Minh