Thứ Ba, 12 tháng 8, 2014

Diện mạo văn hóa, văn học miền Nam trong những tình thế cực đoan lại là nơi hội tụ của bốn dòng chảy văn hóa-văn học [2]

Tiếp theo phần I

Hiệp định Geneve một cách nào đó gián tiếp xóa bỏ miền Trung về mặt địa lý chính trị vốn đã có từ thời Pháp thuộc. Lãnh thổ thuộc triều đình nhà Nguyễn mặc dầu chỉ còn là danh hiệu cũng không còn nữa. Việc Bảo Đại ngồi lì ở Pháp để điều khiển một phần đất nước là điều chưa từng xảy ra đến một lúc nào đó tự nó phải cáo chung.
Ngày nay, về mặt địa lý, chính thức chỉ còn có hai miền:  miền Bắc và miền Nam lấy vĩ tuyến 17 làm lằn ranh chia đôi lãnh thổ. Miền Bắc nay cộng thêm một phần đất phía Nam cũa miền Trung và được gọi là miền Bắc XHCN. Miền Nam kể từ sông Bến Hải với Huế, Quang Trị, Quảng Ngãi vào đến miền Nam chạy dài xuống đến mũi Cà Mâu thuộc chính phủ VNCH.
Từ nay là hai lãnh thổ, hai thể chế với hai nền văn hóa, văn học.
Miền Trung bị cắt ra làm hai mảnh chẳng những về mặt địa lý mà còn về mặt chính trị và cả một di sản văn hóa, văn học cuốn trôi theo nó.
Người dân miền Trung bỗng chốc có thể trở thành người của bên này hay bên kia tùy theo sự phân chia địa lý ấy. Sự chọn lựa đôi khi không dễ dàng gì nhất là những đồng bào Thanh, Nghệ Tĩnh- nạn nhân trực tiếp của cộng sản-  phải liều thân vượt thoát ra Bắc để vào miền Nam, hoặc trực tiếp vào miền Nam bằng  đường biển.
Sau này còn cho thấy rõ là đồng bào miền Trung thuộc phía cộng giản chiếm giữ trước đây như Bình Long, Phú Bổn, Quảng Trị không phải chỉ trốn cộng sản một lần mà nhiều lần. Thật vậy cứ mỗi lần cộng sản tới tới nơi nào thì nơi đó đồng bào miền Trung bỏ nhà, bỏ cửa trốn chạy tới đó.
Trong tập Bút ký: Quảng Trị đất đợi về, Dương Nghiễm Mậu kể lại rằng đồng bào Quận Gio Linh dân số 30 chục ngàn người mà đến 28 ngàn người chạy tản cư về phía Đà Nẵng.
Điều này cho thấy rõ là khi những điều kiện Địa-chính trị-nhân văn không còn thì khó có thể định hình mộtVăn Học hay Văn Hóa miền. Khi triều đình Huế còn trên ngai vị, các khoa thi, nhất là tiến sĩ đều mở ra tại Huế, thiên tài tứ phương đổ về. Huế quả thực là trung tâm văn hóa gần như của cả nước.. Nay thì hiển nhiên không  còn những điều kiện khách quan để nói về một dòng chảy văn hóa. Mặc dầu danh sách liệt kê dưới đây cho thấy có nhiều người tài giỏi phát xuất từ miền Trung.
Chẳng hạn, những người như Thanh Lãng, linh mục, tên thật  Đinh Xuân Nguyên, vốn gốc gác miền Trung nay được coi như người từ miền Bắc di cư vào miền Nam. Ông đã hòa nhập vào dòng chảy những người di cư từ miền Bắc vào miền Nam và đã đóng góp không nhỏ vào sinh hoạt văn học miền Nam với các tác phẩm như Văn chương bình dân, Hà Nội, 1954, Biểu Nhất Lãm Văn học cận đại, 1957, Sài gòn và 13 năm tranh luận văn học.
Trường hợp ông Hoàng Văn Chí, bút hiệu Mạc Định người Thanh Hóa, thuộc khu tư trước đây dưới quyền kiểm soát của cộng sản nay được kể là những người di cư, nạn nhân của cộng sản, di cư từ Bắc vào Nam. Với tính cách nhân chứng và sự trưng dẫn bằng tài liệu, ông đã có những đóng góp lớn chẳng những về mặt văn hóa mà nhất là về mặt chính trị như Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc, Sài Gòn 1959, Từ thực dân đến cộng sản, viết bằng anh ngữ và tác phẩm cuối  đời Duy Văn Sử quan, do con trai là Hoàng Việt Dũng san định và xuất bản.(Tôi có cuốn sách này được in dưới dạng photocopy).
Thanh tâm Tuyền gốc Nghệ An, về Hà Nội rồi di cư vào Nam năm 1954, được kể là người di cư miền Bắc và ông là một trong những thành viên sáng giá của nhóm Sáng Tạo với tập thơ Tôi không còn cô độc, 1955, Bếp lửa, truyện 1966.
Chỉ cần tạm kể ba người vốn gốc gác người miền Trung, nay trở thành những  người di cư từ phía Bắc góp công sức khá lớn vào sự  hội nhập Văn Hóa miền Nam.
Bên cạnh đó, người ta thấy những nhà văn, nhà thơ có tên tuối, gốc miền Trung, nhưng lại sinh sống ở Huế, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Nha Trang không được kể là người di cư và được coi như người miền Nam.
Không thuộc dòng di cư cũng không hẳn chính thức là dòng văn học miền Nam bản địa. Họ là những người như linh mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích, giám đốc viện Hán học, cụ Nguyễn Huy Nhu, nhà nho cuối cùng, cụ Võ Như Nguyện, giám đốc viện Hán học, Thái Văn Kiểm, Cung Giữ Nguyên.
Và một số nhà văn có tên tuổi như Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Bùi Giáng,  Quách Thoại, Quách Tấn, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, nhạc sĩ Châu Kỳ, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, thi sĩ Tô Kiều Ngân, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, Phùng Khánh, tên thật Công Tằng Tôn nữ Phùng Khánh, Hoàng Trọng Miên (theo cộng sản lọt vào miền Nam), nhà biên khảo Phan Khoang, Phan Du (em ruột Phan Khoang), nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương, nhà biên khảo Nguyễn Văn Xuân, nhà văn Lưu Nghi, họa sĩ Khánh Trường, các nhà biên khảo như Bửu Cầm, Bửu Kế, Linh mục Bữu Dưỡng, Bửu Lịch, Tạ Ký, Hoàng Xuân Sơn, Lữ Hồ, Đặng Tiến, Đào Trinh Nhất. Nguyễn Ngu Í, tên thật Nguyễn Hữu Ngư viết cho tờ Bách Khoa, Cung Tích Biền, Đào Hiếu, Diên Nghị, nhạc sĩ Duy Khánh, Trần Thiện Thanh, luật sư Dương Kiền, Đào Đăng Vỹ, Đỗ Tấn chủ tương tờ báo Mùa Lúa Mới, giáo sư Hà Như Chi, Nguyễn Văn Xuân, Trần Doãn Nho, Trần Hoài Thư, Nhã Ca, Đoàn Kế Tường, Nguyễn Kinh Châu, Thục Viên, Ngy Thanh, Nguyên Hương Nguyễn Cúc, Lệ Khánh, tên thật Dương Thị Khánh, Hà Thúc Sinh, tác giả Đại Học Máu, Nguyễn Liệu, Trần Lê Nguyễn, Huỳnh Hữu Ủy, Hoàng Văn Giàu và nhiều bút hiệu khác, Nguyễn Đức Sơn, Tuệ Sỹ, Luân Hoán, Thái Tú Hạp, Trương Thìnvv..
Họ nhiều lắm kể sao cho hết. Tài năng và sự ngiệp văn chương nào thua kém ai.  Nhưng lại là nơi không có đất dung dưỡng người tài.
Cụ Nghè Ngô Đức Kế ra báo báo Tiếng Dân được bao lâu rồi cũng phải đóng cửa? Những dự định của nhóm nhà văn, gốc miền Trung, tập họp chung quanh Tờ Mùa lúa mới  với Đỗ Tấn và Võ Phiến,  rồi tờ Văn Nghệ Mới với Nguyễn Văn Xuân cũng vậy. Sau này Võ Phiến vào Sài Gòn và chỉ nổi tiếng khi viết trên tờ Bách Khoa.
Nếu miền Bắc đầu thế kỷ 20 có 4 người tài là: Vĩnh, Quỳnh, Tố, Tốn(Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố) thì phần đất khô cằn sỏi đá cũng có bốn đại diện ngang tầm. Đó là Anh, Hãn, Huy, Mai. (Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Cao Xuân Huy, Đặng Thái Mai).
Ở bên Pháp họ có thói quen nêu ba người  tài giỏi nhất, gọi là Les trois H. Đó là Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Hà, Tạ Trọng Hiệp. Phía cộng sản thì đề cao các ông họ Trần là Trần Đức Thảo, Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng..
Ông Hoàng Xuân Hãn (1908–1996)
Ông Hoàng Xuân Hãn (1908–1996)
Tất cả bốn nhân tài đất miền Trung đều lần lượt ra Bắc cả. Hoàng Xuân Hãn, gốc Vinh nếu cứ luẩn quẩn ở quê nhà thì cùng lắm chỉ là một nhà thâm Hán Học!! Miền Trung quả thật là miền đất không có đất dụng võ.
Phần đông họ bỏ xứ mà đi tìm một chân trời mới để thi thố tài năng của họ mà phần lớn họ bị cuốn hút theo một dòng chảy ra đất Bắc.  Đất Bắc vốn được coi là dất văn học. Một nhà văn dù ở miền Bắc, muốn nổi đình đám thì phải về Hà Nội mới viết văn được.
Các nhân tài ấy có thể chia ra làm hai loại người: Hoặc họ là thi sĩ, văn sĩ, trí thức. Hoặc họ là những nhà chính trị mà phần đông như đã nói là thứ chính trị khuynh đảo.
Về loại một, có những người như Tố Hữu, Hoàng Xuân Hãn, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Hoàng Trung Thông, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, Hải Triều, Đặng Thái Mai, Đào Duy Anh, dòng họ Nguyễn Tường với Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam và hàng trăm người  khác đã ra đi như thế.
Về loại hai là những nhà chính trị phần đông là cánh tả, phần đông theo cộng sản trước 1954 và sau 1954. Họ là những người như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Tố Hữu, Võ Nguyên Giáp rồi đến những đám lau nhau, ruồi muỗi  sau này như Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, bác sĩ Trương Thìn, Hoàng Văn Giàuvv..
Trong số những nhà văn, nhà thơ có tên tuổi trên. Nhiều người có tư tưởng đối kháng, thiên tả, thiên cộng sản. Thật khó mà đánh giá Họ là ai?
Cho đến nay nhìn lại, tôi nhận thấy sở dĩ thiếu một dòng chảy văn học miền Trung  đúng nghĩa với cá tính miền riêng biệt, với một phương ngữ riêng, với một đội ngũ nhà văn có thế giá và tiêu biểu tính miền có thể vì nhiều lý do:
- Điều thứ nhất, triều Đình nhà Nguyễn với nhiều dấu hiệu khởi sắc với cái nhìn tương lai đầy triển vọng thời kỳ Nguyễn Ánh Gia Long càng ngày cho thấy những biểu hiệu những người kế nghiệp không đủ khả năng gánh vác trọng trách đế nghiệp, nhất là khi phải tiếp xúc với Tây Phương. Nhiều kế sách thụ động, bảo thủ thiếu bén nhạy và không nghe những tấu chương của những kẻ có tài như một Nguyễn Trường Tộ[1]
Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước.
Triều đình Huế tỏ ra bất lực và thụ động càng làm cho tình thế thêm sa lầy. Nhiều nhà cách mạng như Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, hoàng thân Cường Để đã phải bỏ nước ra đi đi tìm một giải pháp chính trị lâu dài cho đất nước và không mấy ai còn tin tưởng vào một triều đình phong kiến nữa. Phan Châu Trinh đã không ngần ngại hài tấu tội của Khải Định vào năm 1922, gọi là: Thư Thất điều trong dip nhà vua sang dự đấu xảo ở Marseille-.
Đến Bảo Đại là một sản phẩm tồi tệ của người Pháp tạo dựng nên như một thứ bù nhìn cho nhiều thế lực lợi dụng. Triều đình Huế sau 100 năm trị vị  trên đà suy vi mà chỉ cần một cơn bão nhỏ đủ làm lung lay sụp đổ.[2].
Thật vậy, chỉ cần nhận được bức điện tín của Nguyễn Ái Quốc ngày 31-8-1945 mà nội dung vỏn vẹn có mấy câu như sau- một điện tín vắn gọn- không theo bất cứ thủ tục nào lại vừa tỏ ra xấc xược:
Chính phủ Lâm thời mời ông Vĩnh Thụy ra làm Tối cao Cố vấn cho chính phủ và sắp xếp đưa Cố vấn ra Hà Nội càng sớm càng tốt. Ngày 2-9, Bảo Đại đã vội vã lên đường ra Hà Nội.
Đó là một cái lệnh hơn là một lời mời. Vậy mà Bảo Đại vội vã riu ríu tuân theo, không bàn bạc với bất cứ ai về một quyết định lớn lao liên quan đến vận mệnh triều đình như vậy.
Cảnh đó có khác gì thân phận của Louis XVI trong Cách mạng Pháp và Nga Hoàng Nicolas II trong cách mạng tháng 10 Nga?
Kể đến Bảo Đại là mười ba đời vua nhà Nguyễn. Và chấm dứt ở đó.
- Điều thứ hai là dân số miền Trung vốn ít, lại nghèo nàn. Quanh năm bữa no, bữa đói cộng thêm thiên tai bão táp, lụt lội gây mất mùa đói kém. Có những trận mưa dầm liiên tu bất tận. Mưa đến thối đất. Lụt lội xảy ra hằng năm. Khí hậu cực kỳ ẩm thấp. Khi nóng thì nóng chảy mồ hôi với gió nồm, gió Lào. Khi lạnh, lạnh thấu da thịt. Lạ gì phần đông những nhân tài hiếm hoi đều bỏ xứ ra đi vào Nam hoặc ra Bắc tìm sự nghiệp. Những o ép chính trị, những biện pháp hà khắc trong phạm vi tín ngưỡng thời triều Nguyễn cũng đã làm cho dân chúng miền Trung bỏ làng mà đi vào lập nghiệp ở miền Nam.
Sự nghèo nàn nói chung so với các vùng phía Bắc và phía Nam càng làm cho khát vọng ra đi là một đòi hỏi thúc bách. Chất xám trở thành hiếm hoi do hiện tượng xuất huyết nhân tài..
Không lạ gì khó kiếm người về Huế mà cũng khó cầm chân kẻ ở lại.
Những kẻ ở lại đôi khi không có khả năng- chỉ dùng để lấp đầy những chỗ trống bỏ đi ấy..
Dễ gì để có một Hoàng Xuân Hãn. Vạn người vị tất đã có một người. Làm sao những người ở lại có thể vực dạy một thể chế chính trị và văn hóa đã suy vi chỉ còn vớt vát giữ được cái vỏ bên ngoài..
-  Điều thứ ba, miền Trung trong đó có Huế còn là sân khấu cho nhiểu biến cố chính trị long trời lở đất. Hầu như những biến động lịch sử chính trị  quan trọng nào thường cũng khởi đầu từ miền Trung và từ đó lan rộng đi các nơi khác.  Như Giai đoạn Trịnh-Nguyễn rồi giai đoạnTây Sơn-Nguyễn Ánh. Gần đây nhất là biến động miền Trung từ 1963 đến 1966. Không có sự khởi động từ Huế- có thể không có biến cố chính trị  1963 và cũng có thể không có một  Huế tết Mậu Thân 1968 bi thảm. Rồi kết thúc bằng Quảng Trị 1972 và di tản Huế- Đà Nẵng 1975. Một phần những biến động này đã được Nguyễn Mộng Giác viết lại trong Sông Côn Mùa Lũ và Mùa Biển điộng.
Ta dễ không lạ gì nhiều người miền Trung, nhất là Huế có điều kiện đã bỏ đi. Mỗi biến động chính trị, Huế hao hụt và mất đi một số người.
Trong một bài viết nhan đề: Nhớ lại Đại Học Huế, giáo sư Lê Thanh Minh Châu đã viết như thế này:
Từ giã hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng ngoài Trung, tâm trí còn xao động với những hình ảnh của cảnh loạn ly, tôi vào thủ đô thấy dân chúng thảnh thơi rảo bộ trên đường phố, các tiệm ăn đầy khách, không khí tưng bừng như ngày hội. Tôi lúc ấy đã thấm thía thấy rõ sự cách biệt giữa Sài gòn và Huế trong điều kiện sinh sống và làm việc[3]
Trích Tiếng Sông Hương, Nhớ lại Đại Học Huế, Lê Thanh Minh Châu, trang 72.
- Điều thứ tư, sống trong những điều kiện thiếu thốn và thiệt thòi về mọi mặt,  không lạ gì tâm lý người miền Trung nói chung thường có những mặc cảm miền. Mặc cảm miền có thể ở đâu cũng có ít nhiều. Nhưng ở Huế, mặc cảm ấy vừa tự ty, vừa tự tôn ở một tầng cao. Từ đó nó sẽ tạo ra những phản ứng dị ứng hoặc phản ứng thừa. Do mặc cảm miền, có nhiều người tránh nói tiếng địa phương để khỏi lộ dấu tích miền. Tôi có bạn bè người Huế, gặp thì họ nói tiếng Nam, có khi pha giọng Bắc. Nhiều khi quen chưa đủ thân tình tưởng họ là người Bắc. Nhưng khi hai người miền Trung mà găp nhau thì họ đổi ra nói toàn tiếng Huế, giọng Huế.
Tâm trạng ấy tưởng chỉ xảy ra trong đám trí thức hay thành phần có ăn học. mà ít xảy ra đối với người dân thường. Nhưng thật là ngạc nhiên, ngay những người tồn cổ, trọng gốc gác như ông Ngô Đình Diệm, khi về làm thủ tướng, ông cũng tập luyện để nói giọng miền Nam khi diễn thuyết.
Chúng ta nhớ lại giọng của ông Diệm trong các bài diễn văn có phải là giọng Quảng Bình không? Không, ông nói một giọng Nam pha chế. Điều này đã được ông Huỳnh Văn Lang, một trong 6 vị trí thức bỏ học ở Mỹ trở về giúp ông Diệm tiết lộ trong cuốn Hồi ký của ông, phần một.[4]
Nhưng Huế có một cái may mắn hơn các tỉnh miền Tây là ngay từ đầu của thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Ông Diệm đã có một chủ đích và một cái nhìn ưu ái dành riêng cho miền Trung bằng cách thành lập Viện Đại Học Huế-.
Viện Đại học Huế chẳng những có tác dụng đào tạo nhân tài tại chỗ và nhất là tác dụng Cầm Chân sự xuất não nhân tài đi nơi khác. Những Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Mộng Giác, Đông Trình đều từ lò đào tạo này và trở thành những tên tuổi sau này. Nhưng thất vọng thay, chính những sinh viên, trí thức Huế trong biến động 1963 đã phủ  nhận những thành quả này. Họ đã truất phế người sáng lập- viện trưởng  Cao Văn Luận-cũng như gán ghép những ý đồ xấu cho ông Ngô Đình Diệm. Sau này, tệ hại hơn nữa năm Mậu Thân 1968, những thành phần thiên tả nằm vùng đã giết đi những vị giáo sư ân nhân của đại học Huế.  Quả là Huế giết Huế.
Họ đã quên rằng sau 18 năm Đại học Huế được thành lập đã đào tạo được hàng ngàn cử nhân văn khoa và khoa học, giáo sư trung học, luật sư và bác sĩ. Chỉ riêng 15 khóa đầu của trường Y khoa Huế đã cung cấp cho miền Nam 400 bác sĩ!
Người ta còn đòi hỏi và muốn gì hơn nữa. Một lần nữa cho thấy Huế phản bội Huế!!
Đến nay, Huế là một trong những tỉnh thành tụt hậu nhất về mức sống. Nhưng lại tỏ ra ngoan ngoãn về mặt chính trị và nhất là mặt tôn giáo.  Họ im thin thít trước bạo lực cộng sản. Bởi vì giả dụ có đến cửa Thượng Tứ từ đầu bên này sang đầu bên kia đi đâu ta cũng chỉ đụng đầu với các nhà văn hoặc nhà thơ.
Có điều gì đáng tội nghiệp nhất cho Huế thì vẫn là những người con gái Huế- Đã một thời là nữ sinh Đồng Khánh-!!
Dòng chảy của cuộc di cư từ miền Bắc
Cuộc di cư của một triệu người miền Bắc vào miền Nam là một bài toán nan giải, đầy thử thách về mọi mặt mà nghĩ lại không khỏi giật mình. Trước tiên, nó đặt ra bài toán di cư, tiếp cư, rồi định cư. Sau đó đến vấn đề đời sống, công ăn việc làm và hội nhập. Vấn đề di cư, tiếp cư, chúng ta có thể trông cậy vào quốc tế, nhất là Mỹ..
Nhưng vấn đề  định cư, hội nhập, thích ứng với môi trường xã hội bản địa là vấn đề của người Việt Nam với Việt Nam- vấn đề của chính chúng ta.
Mà trong đó chủ yếu là vấn đề nhân sự. Vấn đề con người. Nếu không nhấn mạnh đến yếu tố con người thì thật là một thiếu xót khi nói về dòng du nhập của dân Bắc Kỳ di cư.
Chính do con người và chỉ vì tính chất và cá tính con người đã tạo nên diện mạo văn hóa miền Nam- một sự hòa nhập tuyệt vời- mặc dù có những yếu tố dị biệt-. Trong suốt 20 năm miền Nam, người ta đã không thấy, không nghe- dù chỉ một lần- sự kỳ thị Nam-Bắc đã đưa đến sự đổ máu, chém giết nhau vì khác biệt, vì đất đai hay vì quyền lợi.
Trong khi đó, ngày nay, chỉ vì bắt trộm một con chó, kẻ đi bắt trộm phải trả giá bằng sự trừng phạt là chính sự sống của mình.
Điều gì đã làm cho chúng ta – người miền Nam nói chung- tránh được một tai họa như thế? Xin hãy nghe một người dân chính gốc Nam Bộ, từng đi kháng chiến Việt Minh, tác giả bộ sách: Lớn lên với đất nướcbày tỏ về vấn đề này:
Người dân hai miền Nam-Bắc gặp nhau ở vùng đất phù sa màu mỡ của sông Hậu. Cùng là nạn nhân của chế độ cộng sản, dễ thông cảm, họ trao đổi với nhau những gì đã nghe, thấy cộng sản nói và làm trong 9 năm sống với chúng.
Đời sống của đồng bào di cư được ổn định trong những vùng dinh điền. Cụ thể và điển hình là Trng tâm Dinh điền Cái Sắn, trù phú, sung túc, trường học khang trang, thầy cô giỏi chăm sóc thế hệ mai sau. Cầy tơ và rượu đế là cặp bài trùng của những người Nam-Bắc hằng ngày vật lộn với đất bùn ngoài ruộng miền Tây Nam Bộ.![5]
Phần tôi, thôi  thì chỉ biết tạ ơn Trời!!
Có gần một triệu người bỏ đất Bắc vào miền Nam, trong đó phân nửa số đó sinh sống ở Sài Gòn và vùng phụ cận, nâng tổng số dân Sài Gòn lên trên hai triệu người. Làm sao ổn định đời sống có công ăn việc làm cho họ? Vậy mà chỉ hơn một năm sau, những lớp người di cư ấy tỏ ra đứng vững trên đôi chân của mình trên mảnh đất mới. Nhà cửa san sát, từ lợp tôn, vách gỗ chuyển sang nhà gạch, xây thhêm tầng. Khu Trương Minh Giảng so với khu Khánh Hội, quận tư cho thấy một sự thay đổi, phát triển của hai tầng lớp thị dân mới và cũ.
Sức vươn lên của người miền Bắc di cư là đòn bảy cho đà phát triển của toàn miền Nam. Có một văn hóa Hội nhập- một văn hóa tiếp thu và một sức mạnh vươn lên của cả một thời kỳ. Một thời kỳ mang đầy triển vọng và hứa hẹn cho một tương lai dân tộc.
Sự chịu khó là nhân tố tích cực và quyết định cho sự ổn định này..Dân Bắc Kỳ đã làm đủ thứ nghề, đủ công việc để tồn tại như dệt chiếu, dệt vải, thêu thùa, đào ruộng rau muống, may đan đến giã giò, mở cửa hàng thịt chó và ngay cả làm pháo tết.. Khu Xóm Mới, Gò Vấp, tiếng chuông nhà thờ rộn rã hòa nhịp với tiếng giã giò liên hồi như trống ngũ liên..
Miếng ăn, miếng uống như rau muống, giò lụa, nem chiên(chả giò), bún chả, bánh cuốn Thanh Trì, đậu rán chấm mắm tôm nhất là phở,- linh hồn của Hà Nội- chẳng mấy chốc chinh phục được khẩu vị dân miền Nam và trở thành những món ẩm thực văn hóa. Gánh phở Hà Nội nghi ngút khỏi tại khu Cửa Bắc, Bờ Hồ Hà Nội, phở Tàu Bay – 5 đồng một tô cũng có, ba đồng cũng có- giá bèo ở Hà Nội-chẳng mấy chốc trở thành phở Hiền Vương, phở Công Lý, phở Tàu Bay Lý Thái Tổ với  vè, sụn, mỡ gầu, mỡ lật, vừa nạm vừa sụn, nước đã kéo dài và nối liền Hà Nội- Sàigon…
Vũ Bằng (1913 – 1984)
Vũ Bằng (1913 – 1984)
Vũ Bằng khi vào trong Nam, nhớ Hà Nội da diết không quên đã viết một thiên phóng sự “Miếng ngon Hà Nội” đọc muốn chảy nước miếng- Với trích dẫn: miếng ngon nhớ lâu, cơ cầu nhớ dai-. Ông cũng đặt phở bò là món ngon hàng đầu của Hà Nội.
Chỉ tiếc một điều, ông đã không nhận ra được và khai triển tính cách Hội nhập của văn hóa ẩm thực miền Bắc tại miền Nam..
Đó là niềm hãnh diện cho Hà Nội, cho miền Nam và nay cho tất cả người dân miền Nam ở hải ngoại hiện nay. Chúng ta đã chinh phục thế giới bằng thứ văn hóa ẩm thực- không phải bằng tuyên truyền, bằng bạo lực, bằng áp bức như cộng sản Hà Nội.
Bởi vì, cái văn hóa ẩm thực ấy nay đã thành cái Identité, cái căn cước Việt khắp nơi nào có bóng dáng người Việt Nam.
Sự hội nhập có thể đã bắt đầu từ những món ẩm thực này của người dân di cư trước khi nói đến sự hội nhập ở tầng cao về văn hóa văn chương chữ nghĩa của nhóm Sáng Tạo, của những bài thơ tình của Nguyên Sa..
Nhân tố thứ hai phải nhìn nhận là họ được các cha xứ hướng dẫn, tổ chức, chủ trì mọi việc với tinh thần tổ chức và kỷ luật nghiêm chỉnh.Tại các xứ đạo, việc trước tiên là xây nhà thờ, rồi trường tiểu học và sau cùng là nghĩa địa trong một quy trình khép kín với niềm tin tôn giáo, thứ đến phát triển và cuối cùng kết thúc cuộc đời..tại nghĩa địa an nghỉ đời đời..
Hãy tạm quên cái sức mạnh tôn giáo ấy trong cái thời bình an, thịnh trị thời  VNCH. Ít nhất thì hiện nay cái “nếp sống đạo quê mùa” ấy đang là một thử thách và một thách thức sống còn trước một sức mạnh toàn trị của một chủ nghĩa không có con người và vắng bóng con người.
Chỗ nào còn có tôn giáo còn có hy vọng giải thoát gông cùm cộng sản..Sức mạnh tôn giáo trong chiều sâu tâm linh giúp con người ít nhất vượt qua được thử thách và bình an trong tâm hồn..Nó là nguồn an ủi trong đêm tối mịt mù của cuộc đời ô trọc này..
Nhưng người công giáo chỉ chiếm tỉ lệ  người di cư chưa tới một phân nửa, nghĩa là vào khoảng trên 350.000 người. trong tổng số 900.000 người di cư. và phần lớn ở các khu định cư.  Số người còn lại là những quân nhân, công chức, giới trí thức và giới tiểu tư sản thành thị và học sinh, sinh viên.
Đây là những thành phần giai tầng xã hội có tác dụng làm thay đổi diện mạo văn hóa, văn học miền Nam về mọi mặt một cách khẳng định.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam thì đây là cuộc di dân lớn nhất của một khối dân chúng mà sau này lịch sử phải ghi nhận đây là một cuộc Nam tiến lần thứ hai vô tiền khoáng hậu.
Cuộc di cư đúng là một bi kịch lịch sử của con người- của nhân loại nói chung- chống lại một ý thức hệ dã man, nhưng đồng thời là một bi kịch hùng tráng.
Cuộc di cư đã diễn ra trong một tình huống chính trị cực đoan hoàn toàn bất ổn bất lợi cho vị thủ tướng mới.
Ngày mồng một tháng sáu, năm 1954, một người Mỹ tên Edward Landsdale với chức vụ Phụ tá tùy viên không lực của tòa đại sứ Mỹ- thực ra là Giám đốc C.I.A của Mỹ- đến Sài gòn chuẩn bị  cho việc ông Ngô Đình Diệm về làm thủ tướng- thủ tướng thứ sáu của Quốc trưởng Bảo Đại trong vòng bảy năm.
Ba tuần sau, ngày 26 tháng sáu, ông Diệm bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất và có khoảng 500 người đón tiếp ông. Một con số vô nghĩa so với số dân gần 15 triệu người.
Một tương lai chính trị với những đám mây mù đang chờ đợi ông thủ tướng.
Đầu tháng bảy, ông đã có mặt ở Hà Nội để tiếp xúc với Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí và quân đội Pháp về số phận những người di cư.
Rõ ràng mối lo toan đầu tiên và  trên tất cả mọi truyện của ông Thủ tướng là bằng  mọi cách, mọi phương tiện vận động là đưa được khối lượng người di cư vào được miền Nam. Đồng thời cũng là mối lo toan chính trị để có thể đương đầu với thế trận cộng sản.
Người di cư- bất kể tôn giáo- xin nhắc lại như thế- đã biết ơn Người đã cứu vớt họ.
Về lại Sài Gòn, người làm việc không có.. Người tại chỗ đều là người của ông Thủ tướng cũ, hoặc người của ông tướng Hinh hoặc tay chân của Bảy Viễn hay tay chân của Pháp làm sao tin dùng? Ngân sách trống rỗng. Thủ Hiến Nguyễn Hữu Trí từng than:
Từ 1948 đến nay, chúng ta ngày đêm nhức đầu với việc quê hương. Nào cải tổ, nào tổ chức, nào thúc đẩy, nào phá đi làm lại, một kẻ làm ba kẻ chơi, năm kẻ gây hại, thiên hạ vẫn trách móc và bôi nhọ[6]
Đoàn Thêm, Những ngày chưa quên, ký sự,  trang 235
Cho nên không lạ gì, ông thủ tướng phải điều động, ký sắc lệnh triệu ông Đoàn Thêm- một viên chức hành chánh của thủ hiến Nguyễn Hữu Trí từ ngoài Bắc phải vào trình diện gấp thủ tướng Diệm ở Sài Gòn.
Mồng 8 tháng 7, nhận được lệnh, 11 tháng bảy, ông Đoàn Thêm đã có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Có lẽ ông Đoàn Thêm là viên chức lãnh đạo chính quyền đầu tiên- từ ngoài Bắc- được bổ nhiệm vào làm việc dưới quyền thủ tướng Diệm cùng với Lansdale – người Mỹ.
Đại tá Lansdale trong hồi ký của ông nhắc lại lần đầu tiên đến dinh thủ tướng thì không có cả đến một người lính gác và ông một mình tự động lên lầu hai, tự giới thiệu và gặp thủ tướng…[7]
The small governmental palace where the prime minister held office(The French occupied the main governmental palace) was in a disorganised state when Helleyer and I arrived. There were no guards to challenge our entry, no civil servants to receive visitors.[8]
In the midst of wars, Edward Geary Lansdale, trang 158
Trong số khoảng một triệu người di cư-phần đông là dân quê nghèo nàn và ít học- còn lại là một số nhà văn, nhà báo và giới trí thức sinh viên, học sinh tính chung được khoảng 100.000 người..
Nhưng con số nhỏ ấy sau này đã làm nên chuyện ngoài sự mong đợi của mọi người.
Cuộc di cư năm 1954 cũng đã chỉ ra rằng nó không phải chỉ là một cuộc di cư người.
Nó còn là một cuộc di cư chữ nghĩa và văn hóa. Một triệu người di cư chuyên chở theo như một thứ hành lý mang theo về phong tục, tôn giáo, tập quán, nếp sống, nếp nghĩ, tiếng nói từ miền Bắc vào miền Nam.
Và mỗi một người trí thức trẻ từ Hà Nôi đã mang thêm theo họ một mảnh Hà Nội qua hội họa, thi ca, âm nhạc và nhất là văn hóa Hà Nội.
Trong sự giao thoa, tiếp xúc với dòng văn hóa bản địa hẳn là có sự cọ sát, sự so sánh, sự phân biệt hơn kém và mỗi bên cố tạo cho mình một thế giới riêng, một nhân cách., một cách sống.
Và nếu họ cầm bút thì tự tạo cho mình-một thứ ngôn ngữ văn chương- một bút pháp- một kỹ thuật viết, kỹ thuật xây dựng chuyện. Cũng từ đó dặt ra vấn đề viết cái gì, viết thế nào, viết cho ai, viết để làm gì ?Và chính ở thứ ngôn ngữ văn chương của mỗi tác giả hai miền định hình cho tính chất sáng tạo của dòng văn học.
Bút pháp Mai Thảo không có điểm tương đồng nào, không có một mẫu số chung để so sánh với Bình Nguyên Lộc hay Sơn Nam. Những ý tưởng gợi ý này sẽ mở đầu cho cuộc giao lưu chữ nghĩa của miền Nam trong suốt hơn 20 năm chung sống sau này.
Cuộc di cư khởi đầu dứt khoát là một chọn lựa chính trị.
Đi hay ở bày tỏ một thái độ, một quan điểm chính trị, một lập trường. Nhưng không ngờ sự chọn lựa chính trị lúc bấy giờ còn là một chọn lựa mang tính văn hóa, chấp nhận gia nhập vào một xã hội mới với nhiều công đoạn như hội nhập, thích ứng và đồng hóa.
Sự hội nhập ấy như thế nào- từng giai đoạn cọ xát- cho thấy nó vượt khỏi tầm nhìn và tiên đoán của mọi người!!
Đó cũng là nét tiêu biểu nhất cũng là nét đẹp nhất trong suốt hơn hai mươi năm miền Nam. Và nay xin đi lại từ đầu.
Tuy nhiên, xin ghi nhận là có một số nhà văn, nghệ sĩ đã vào miền Nam trước 1954 cần được nêu ra ở đây. Xa Xôi nhất có thể là Nguyễn Hiến Lê, là công chức nên được đổi vào Sài gòn từ 1934. Sau đó đến nhạc sĩ  Lê Thương, thi sĩ Cung Trầm Tưởng, nhà văn Nhất Linh, nhà văn Thanh Nam và nhất là ca sĩ Anh Ngọc và Phạm Duy.. Một số những tên tuổi trên như những kẻ di mở đường đóng góp một cách không chối cãi được vào dòng chảy Văn hóa, văn học miền Nam.
Đó là những tài năng cá biệt và vượt bậc.
Nguyễn Hiến Lê- hầu hết kiến thức của ông đều do tự học- ông chuyên về biên khảo với rất nhiều đầu sách về lịch sử và triết học Trung Hoa, ông là thầy dạy của nhiều thế hệ thanh niên miền Nam với tủ sách nhan đề: Học làm người.. Nhiều người đã không biết Nguyễn Hiến Lê là nhà biên khảo gốc Bắc nữa. Chỉ hơi tiếc một điều, ăn cơm gạo miền Nam, nhưng ông vẫn hướng về miền Bắc XHCN xa xôi. Và cũng như nhiều người khác, chỉ đến sau 1975, sống với  ma quỷ, ông mới vỡ lẽ ra và không khỏi thất vọng.
Ca sĩ  Anh Ngọc, nhân viên của sở thông tin Hoa Kỳ, vào Sài Gòn từ năm 1949. Nhưng ông nổi danh khi có cuộc di cư. Ông hát thường xuyên trên đài phát thanh Sài Gòn. Đây là giọng ca đầy nam tính, mạnh, trầm ấm.- một thứ tiếng hát của giọng ca Hà Ô Lôi trong Lĩnh Nam trích quái- Tiếng hát của cả một thời bên cạnh nhạc sĩ Phạm Duy. Sau này có thêm giọng ca của Sĩ Phú  và Duy Trác. Cả hai ở ngoài đời một là sĩ quan không quân và một là luật sư. Cả hai đều có giọng sang, bài hát được chọn lọc kỹ càng.
Miền Nam nắng ấm lên về những giọng ca vàng này. Tiếng hát của Anh Ngọc, Thái Thanh và sau này Khánh Ly- Tiếng hát của cả một thời- của cả một đời người- trong dòng giao lưu văn hóa giữa hai miền. Bên này là Út Trà Ôn, Thành Được, bên kia là Anh Ngọc..
Đến Phạm Duy thì khỏi phải nói. Ông là nhạc sĩ hàng đầu của miền Nam và chỉ có Văn Cao và Trịnh Công Sơn là có thể so sánh được với ông. Ông đã để lại cả ngàn bài ca cho đời với nhiều bài bất hủ. Tiếng tăm ông cũng có mà dư luận xấu xa cũng không thiếu. Nhưng trên tất cả, ông là nhạc sĩ tài danh của cả hai miền mà phân biệt Bắc Nam ngày nay trở thành điều không cần thiết.
Tiếp theo là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, sinh ở Hà Đông, nhưng phục vụ Đài phát thanh Quốc Gia, tại Sài Gòn từ 1951.
Nhạc sĩ Lê Thương, sinh tại Hà Nội, nhưng đã vào Nam sinh sống từ 1941 đến nay.
Đến nhạc sĩ Hùng Lân.. tên thật Hoàng Văn Hưởng, tại Hà Nội. Vào Nam từ năm 1945, giáo sư trường Quốc Gia âm nhạc.
Ngoài ra, còn một nhân vật chính trị hàng đầu thời đệ nhất cộng hòa là ông luật sư Trần Chánh Thành..mà nhiều người đã vô tình quên ông. Ông  theo Việt Minh trong thời kháng chiến, rồi bỏ Việt Minh, trốn về Hà Nội và vào Nam năm 1952. Ông cùng với nhóm anh em gồm 36 người từng theo kháng chiến như Cao Xuân Vỹ, Trần Hữu Dương, Hồ Đắc Điềm, Phan Thành Vinh, Nguyễn Duy Quang, Phan Huy Xương, Phan Quang Đán, Tôn Thất Trạch như nhiều người rời bỏ kháng chiến về thành.
Ông làm tập sự luật sư trong văn phòng của luật sư Trương Đình Du. Khi ông Nhu ở Đàlạt  chủ trương tạp chí Xã Hội, ông Trần Chánh Thành đã hợp tác và họ trở thành chỗ thân tình của ông Ngô Đình Nhu. Ông Trần Chánh Thành là người được ông Ngô Đình Nhu gửi sang Pháp vận động cho việc ông Ngô Đình Diệm về nước. Sau đó, ông Thành được cử làm bộ trưởng Phủ thủ tướng, rồi bộ trưỡng bộ thông tin.
Ông Trần Chánh Thành và các ôngTrần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu, cả ba là những vị công thần của nền đệ nhất công Hòa…
1975, buổi sáng khi cộng sản vào tiếp thu Sài Gòn, ông quyết định tuẫn tiết tại nhà.
Đây là một cái chết bi thương và thầm lặng, hầu như trong sự quên lãng của mọi người.
Sự tuẫn tiết của một số tướng tá sau 1975 được nhắc tới nhiều. Người ta đã quên hoặc không biết đến việc tuẫn tiết của ông Trần Chánh Thành. Ghi lại nơi đây như một nén hương tưởng nhớ đến một chính trị gia lỗi lạc của miền Nam VN.
Những vị trên đây là ưu phẩm của miền Bắc,  là những đại sứ văn hóa, văn học của miền Bắc- làm tăng thêm tính đa dạng và phong phú của diện mạo văn hóa miền Nam.
Sau đó là hàng loạt giới trí thức khoa bảng hàng đầu của đất Bắc vô Nam:
Trước hết là những người trí thức đã có danh phận:
Nói chung, đại đa số các giáo sư đại học các ngành đều chọn di cư vào miền Nam. Trong số những người di cư thuộc đủ thành phần, tôi tạm chia ra một số thành phần như sau.  Trước hết là loại trí thức đã thành danh, đã có danh phận. Số trí thức này không nhiều, nhưng nhờ sự có mặt của họ ở miền Nam những ngày đầu gíúp chính quyền Ngô Đình Diệm giải quyết ngay được việc điều hành chính phủ trong giai đoạn chuyển tiếp.
Chẳng hạn, giáo sư Y Khoa thạc sĩ Trần Quang Đệ đã có công di chuyển viện Đại học Hà Nội vào miền Nam. Sau này ông được đề cử làm Viện trưởng Viện Đại Học mới ở Sài Gòn. Bên cạnh bác sĩ Trần Quang Đệ là đông dảo các bác sĩ khác như Nguyễn Đình Cát, Nguyễn Hữu(từ Pháp về), Trần Vỹ và những vị bác sĩ trẻ hơn như Hoàng Tiến Bảo, Nguyễn Văn Thọ vv Những người này vào Sài gòn cộng tác với trường Y Khoa có sẵn ở Sài gòn, tại số 28 đường Testard (Trần Quý Cáp)  với các bác sĩ gốc miền Nam như Nguyễn Lưu Viên( cũng một thời theo kháng chiến, học tiếp Y khoa ở miển Bắc), Đặng Văn Chiếu, Nguyễn Văn Út..
Giới dược sĩ có Bùi Đình Nam, Tô Đồng.
Ngay từ đầu, các vị bác sĩ gốc Bắc đã có ưu thế vượt trội về số lượng và có thể cả trình độ học vấn và được trao phó hoàn toàn việc điều khiển bệnh viện Bình Dân cũng như bệnh viện Nhi Đồng vào năm 1956..
Ở trường luật thì đa số giáo sư luật khoa đều vào Nam tiếp tục giảng dạy.Trưởng hợp giáo sư Vũ Văn Mẫu, thạc sĩ tư Pháp, đảm nhận ngay chức Khoa Trưởng, trường Luật. Ông Khoa trưởng người Pháp cũ là Gregoire Khérian, rút lui và chờ đợi để về Pháp. Công của giáo sư Vũ Văn Mẫu là chuyển chương trình vốn dạy từ tiếng Pháp sang tiếng Việt một cách rất nhẹ nhàng và hoàn hảo ..Ông cũng là bộ trưởng bộ ngoại giao của VNCH từ năm 1955-1963.[9]
Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, trang 323
Điều mà trường Y Khoa phải mất nhiều năm mới có chuyển ngữ sang tiếng Việt vì những lấn cấn, tranh chấp giữa những vị được giảng huấn do Pháp đào ta và sau này do Mỹ đào tạo..Những vị giáo sư trường Y Khoa có trách nhiệm tinh thần trong việc này là các giáo sư Nguyễn Hữu, Phạm Biểu Tâm và Trần Ngọc Ninh.
GS Trần Ngọc Ninh
GS Trần Ngọc Ninh
Riêng giáo sư Trần Ngọc Ninh cho rằng đây là kế hoạch gây chia rẽ của cộng sản. Ông viết:
“Trước hết là một kế hoạch gây chia rẽ. Có một mâu thuẫn bên trong của trường bắt đầu chớm nở: mâu thuẫn giữa những nhóm giáo chức được huấn luyện trong hệ thống Pháp và những giáo chức được hun đúc bởi những lò Hoa Kỳ.
Đồng thời giáo sư Trần Ngọc Ninh đổ cái trách nhiệm cho các cố vấn Mỹ. Ông viết tiếp:

 Các cố vấn Mỹ phạm vào cái lỗi đại kị về chính trị, là tỏ ra một thái độ bảo hộ đối với những người đi học ở Mỹ. Đồng thời có một áp lực để cải tổ chương trình, cải tổ để sự học y khoa Việt Nam sát với sự học y khoa Kỳ hơn nữa”.

[10]  Trần Ngọc Ninh, Một chút lịch sử Y khoa, đại học đường Sài Gòn,  trang 32-3Kết quả của sự chia rẽ đưa đến cái chết oan uổng của giáo sư Trần Anh và giáo sư Lê Minh Trí được biết là do cộng sản chủ mưu..

Nhưng nếu chúng ta tự hỏi, tại sao cộng sản lại chỉ gây chia rẽ ở trường Y Khoa mà không phải ở trường dược hoặc trường luật?Tự câu hỏi đã có câu trả lời.
Việc chuyển từ tiếng Pháp sang tiếng Việt gặp phải khó khăn là danh từ.. Công việc khó khăn vất vả nảy đã được hai giáo sư Nguyễn Cao Hách, thạc sĩ kinh tế cùng với Vũ Quốc Thúc tìm kiếm danh từ thích hợp, minh bạch cho sinh viên hiểu được. Và cho đến đầu niên khóa 1955-1956, chương trình ở luật khoa đã được chuyển hóa hoàn toàn.
Ngoài ra xin được nêu danh tính một số nhân vật có tiếng tăm từ đất Bắc đã di cư vào miền Nam như Á Nam Trần Tuấn Khải, Vy Huyền Đắc, nhà văn Lê Văn Trương, Tchya Đái  Đức Tuấn,  nhà biên khảo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề( thứ nam nhà biên khảo Đỗ Bằng Đoàn). Nhà thơ Hà Thượng Nhân, tên thật là Hoàng Xuân Trinh, có tên gọi là Phạm Xuân Ninh, nguyên Giám đốc đài phát thanh Sài Gon, chủ bút nhật báo Tiền Tuyến. Cụ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, tác giả Giai thoại Làng Nho, Chuyện Cà Kê,  Trước Đèn. Giám đốc Kim Lai ấn quán ở Sài Gòn và chủ nhân nhà xuất bản Nam Chi Tùng Thư. Họa sĩ Nguyễn Gia Trí, một trong những họa sĩ hàng đầu của Việt Nam với Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn.
Thanh niên trí thức, văn nghệ sĩ, tu sĩ ra đi từ miền Bắc
Đây là những thành phần thanh niên trí thức mà tôi muốn đặc biệt nhắc tới họ. Họ trẻ, họ đông đảo, họ đầy nhiệt huyết, họ tài ba tiềm năng, họ còn ít vốn nhưng hoài bão lớn.  Họ là tinh hoa của Hà Nội, của đất Bắc. Họ thuộc đủ thành phần. Nói chung họ là tất cả.
Phần lớn tôi chỉ có thể nêu tên tuổi và chức danh của họ ở miền Nam mà không tìm cách đánh giá công việc làm của họ. Và người viết cũng không đủ điều kiện để nêu đủ, nêu hết tên tuổi của họ. Một thiếu xót không thể nào tránh được
Công việc nêu danh này đạt được kết quả một phần là nhờ vào các tài liệu quý báu của tác giả Lê Bảo Hoàng, Hồ Nam Vũ Văn Giang và Nguyễn Ngọc Linh. Xin ghi ơn các vị trên.
Trước hết  xin được nêu danh tánh một số tu sĩ Phật giáo cũng như công giáo mà sau này tác nghiệp của họ  có ảnh hưởng trực tiếp tới những sinh hoạt tôn giáo của họ tại miền Nam cũng như  sách vở của họ trong phạm vi tôn giáo.
-  Phía Phật giáo có:
Người  thứ nhất là thượng tọa Thích Tâm Châu, đã di cư vào miền Nam năm 1954. Ông có thể là người đại diện uy tín nhất cho giới Phật giáo miền Bắc di cư vào miền Nam. Ông là người quốc gia chân chính không bao giờ chấp nhận chế độ cộng sản. Ông cũng là vị lãnh đạo tinh thần có  vai trò quyết định trong biến cố Phật giáo 1963 cùng với TT Thích Trí Quang..Một vài tác phẩm của ông như Đường vào cửa Phật, 1952. Đạo Phật với con người. Bước đầu học Phật vv.. Hiện ông định cư tại Montreal, Canada
Ngưởi quan trọng thứ hai là Hòa thượng Thích Quảng Độ.  Ông cũng di cư từ miền Bắc vào miền Nam năm 1954..Ông là người tranh đấu chống lại việc thống nhất Phật giáo năm 1981, đồng thời làm thơ văn tố cáo tội ác cộng sản. Ông đã bị bắt giam nhiều lần vì tội chống đối lại chế độ cộng sãn VN và cũng là người lãnh đạo tinh thần cao nhất của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam thống nhất hiện nay.  Ông là biểu tượng sáng giá của sự đấu tranh bảo vệ tôn giáo chống lại bạo quyền. Một số tác phẩm của ông như ới mái chùa hoang, Thoát vòng tục lụy, Đại từ Phật giáo tư tưởng luận.. Đặc biệt, ông có tập thơ tù gởi gắm toàn vẹn tâm tư của ông.
Người thứ ba là Thích Đức Nhuận, chủ nhiệm nguyệt san Vạn Hạnh, giáo sư Phật học đại học Vạn  Hạnh.
-  Phía các vị linh mục và giám mục có:
Quan trọng nhất là các giám mục Hoàng Văn Đoàn, Phạm  Ngọc Chi và Lê Hữu Từ thuộc các địa phận Bắc Ninh, Bùi Chu và Phát Diệm.  Giám mục Phạm Ngọc Chi lúc ban đầu phụ trách Ủy Ban Hỗ trợ định cư. Ông cũng là người cổ súy giáo dân biểu tình hỗ trợ thủ tướng Ngô Đình Diệm, chống tướng Nguyễn Văn Hinh cùng với bà Ngô Đình Nhu. Tuy nhiên, sau này vai trò trực tiếp lãnh đạo tập thể các xứ đạo tại miền Bắc của cả ba vị trên không còn nữa theo nhu cầu phân bổ của tổ chức công giáo.
Cạnh đó là một số linh mục trí thức, hầu hết du học ở ngoại quốc về và đóng vai trỏ giảng dạy ở các đại học miền Nam lúc ban đầu.
-  Linh mục Lê Văn Lý, tiến sĩ văn chương ở Sorbonne với luận án: Le Parler Vietnamien. Viện trưởng Viện đại học Đàlạt.
- Linh mục Kim Định, tốt nghiệp triết học tại Institut Catholique de Paris, tốt nghiệp Hán học tại Institut des hautes études Chinoises.., dạy triết đông tại các đại học Văn Khoa, Vạn Hạnh, Minh Đức.. Có nhiều tác phẩm có tính khai minh một nền triết học mang tính chất Việt Nam như Cửa Khổng, Chữ Thời, Việt lý Tố Nguyênvv.. Ngày nay có nhiều môn sinh của ông trên thế giới tiếp tục con đường của ông..
-  Linh mục Trần Cao Tường, tốt nghiệp triết học, thần học tại Rôma
- Linh mục Trần Thái Đĩnh, bút hiệu Trần Hương Tử, sau hồi tục giáo sư đại học, người trình bày và giới thiệu một cách có hệ thống, mạch lạc và rõ ràng Triết học Hiện sinh. Cuốn sách quan trọng nhất của ông là: Triết học Hiện sinh, 1967.
- Linh muc Trần Văn Hiến Minh, tốt nghiệt tiến sĩ triết, thần học tại Roma, được coi là người đầu tiên dạy triết học tại các trường trung học Chu Văn An, Trưng Vươngvv.. Tác phẩm quan trọng nhất là: Tự  điển và Danh từ triết học và khoảng 10 cuốn sách triết giáo khoa, dùng cho bậc trung học.
-  Linh mục Ngô Duy Linh, tốt nghiệp nhạc viện César Frannck ở Pháp.. Về nước năm 1956, sau làm phó viện trưởng viện Đại học Đà Lạt. Cùng với nhạc sư Hải Linh, hai người soạn nhiều các bản nhạc hòa âm.
- Linh mục Chu Văn Chi, khi di cư còn là một thanh niên sống ỡ Gia Kiệm, sau chuyên về sáng tác rất nhiều ca khúc nhạc đạo như: Nay con xin đến,  Đời cầu nguyện, Chúc tụng Chúavvv..
- Linh mục Lê Tôn Nghiêm, sau hồi tục, dạy triết học ở các đại học. Chuyên ngành về triết học Hiện tượng luận, về triêt gia Heidegger..Ông là tác giả nhiều bộ sách triết học không mấy dễ đọc như Triết học nhập môn của Karl Jaspers. Đâu là căn nguyên tư tưởng, hay con đường triết lý từ Kant tới Heidegger.
-  Linh Mục Đỗ Minh Vọng, thuộc dòng Đa Minh, chi Lyon, pháp tịch, dạy triết học tại các đại học Văn Khoa, Sài Gòn, Đà Lạt.. Ông là thầy dạy triết của nhiều thế hệ thanh niên từ Bắc và miền Nam. Có lần ông diễn thuyết về đề tài: Nhân vị trong Hồn bướm mơ tiên. Nói chung các vị linh mục trên đã có ảnh hưởng nhất định  trong việc truyền bá triết lý Tây Phương ở miền Nam.
-  Linh mục Hoàng Quốc Chương, giáo sư đại học khoa học
Sau đây là những thành phần trí thức văn nghệ sĩ thuộc đủ ngành nghề đã quyết tâm di cư vào Nam và nhận nơi đây làm quê hương và họ đã có cơ hội phục vụ và phát triển tài năng của họ.
Họ sẽ là những nét đột phá của tiến trình Hội Nhập đầy hứa hẹn, bước lên đường và bước vào đời. Phần đông họ có nghề chính thức như sĩ quan trong quân đội, giáo chức hay công chức tại các bộ ngành.  Nhất là làm cho các cơ quan truyền thông như đài phát thanh, đài truyền hình và bộ thông tin hoặc trong ngành giáo dục.. Ít có ai có thể sống và hành nghề một cách chuyên nghiệp, trừ một số nhỏ nhà báo, nhà văn.
Họ phần lớn là một tay cầm phấn, tay kia cầm bút hay một tay cầm súng tay kia cầm bút!! Đó cũng là một hoàn cảnh đặc biệt, duy nhất xảy ra ở miền Nam trong hoàn cảnh có chiến tranh.
Trong số đó có người đã có chút danh phận, nhưng phần đông họ chỉ nổi tiếng, chỉ có mặt sau khi vào miền Nam và một số nhỏ tiếp tục được nổi tiếng ở hải ngoại.
Họ là những Duy Thanh, Tạ Tỵ, Bé Ký, Hồ Thành Đức, Cao Bá Minh. Anh Bằng, tên thật Trần An Bường. Bàng Bá Lân, Bắc Phong, tên thật Kiều Duy Phong. Minh Võ, Trần Phong Vũ,  Uyên Thao, Cao Mỵ Nhân, Cao Tiêu, tên thật Hoàng Ngọc Cao Tiêu.  Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng, Bùi Diễm, con trai cụ Bùi Kỷ, cháu cụ Trần Trọng Kim, Thái Lân, Ông Mai Ngọc Liệu, Mai Văn Hàm.
Tiếp theo là những Vũ Khắc Khoan, Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Trần Phong Giao Mai Thảo, Quách Đàm, Tạ Ty, Lưu Trung Khảo, Trịnh Hưng, Lý Quốc Sỉnh, Nguyễn Khắc Ngữ, Đoàn Thêm,  Dương Đức Nhự, Trần Kim Tuyến, Phạm Việt Tuyền, Nhật Tiến, Đỗ Đức Thu, Nguyễn Hoạt, Mặc Thu,Trương Văn Chình,  Hiếu Chân, Nguyễn Đình Toàn, Huy Quang Đỗ Đức Vinh, Thế Phong, tức Mạnh Tường. Duy Trác, Sĩ Phú,  Hồ Nam, bút hiệu khác là Vương Tân,  Vũ Uyên Giang, Hoàng Song Liêm, Hà Thúc Sinh( gốc Thanh Hóa), Hoàng Thư, Ma Xuân Đạo, Kiêm Minh, Tạ Quang Khôi, Huy Quang, Đoàn Tường, Phan Lạc Phúc, Phan Lạc Tiếp, Hải Triều, Cao Xuân Huy, Vũ Quang Ninh, Vũ Ngọc Các, Ngô Quân, Chu Vương Miện, Từ Chung, Chu Tử, Lý Trung Dung, Đặng Van Sung, chủ nhiệm báo Chính Luận, Nguyễn Đức Quang, sáng lập Phong trào Du Ca Việt Nam.  Hoàng Cơ Thụy,  Đỗ Thúc Vịnh, Đặng Trần Huân, Du Tử Lê, Thảo Trường, tên thật Trần Duy Hinh, Thanh Nam, tên thật Trần Đại Việt, Thái Lãng, Tạ Quang Khôi, Tạ Tỵ, Song Thao, Phan Lạc Giang Đông, Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Nguyễn Nam Châu, Nguyễn Bạt Tụy, Nguyên Vũ, tên thật Vũ Ngự Chiêu,  Lê tất Điều, bút hiệu Kiều Phong, Cao Tần, Hoàng Hải Thủy.
Đặc biệt, xin được nhắc tới hai tài tử điện ảnh nổi tiếng nhất của miền Nam.. Tài tử Lê Quỳnh, sĩ quan không quân VNCH năm 1952, di cư vào miền Nam. Ông là tài tử chính trong phim: Chúng tôi muốn sống.
Người thứ hai là nữ tài tử điện ảnh Kiều Chinh, tên thật Nguyễn Thị Chinh. Trước ngày di cư vào miền Nam, người anh trai ở lại đi theo Việt Minh. Bố Kiều Chinh, ông Nguyễn Cửu chờ đợi trong hai ngày rồi quyết định ở lại chờ con trai và ông đã gửi Kiều Chinh vào Sài Gòn qua một gia đình người bạn là ông Nguyễn Đại Độ..Từ đấy cha con cách biệt. Được biết sau này ông Nguyễn Cửu bị đi tù và chêt trong nghèo nàn, khốn khổ. Phần Kiều Chinh, lúc 20 tuổi, năm 1957, Kiều Chinh đã đóng cuốn phim đầu tiên làHồi chuông Thiên Mụ. Bà nổi tiếng từ đó và sau này đóng phim chung với các tài tử Mỹ. Tuổi trời cũng không ít, nhưng tôi vẫn thấy một một lối nói từ tốn, lịch lãm của người có ăn học con nhà, còn đọng lại nơi một cô gái Bắc Kỳ và dấu vết thời gian chưa kịp xóa đi nét đẹp ẩn kín.
Xin tiếp tục danh sách những sứ giả văn hóa của miền Bắc như:
Đỗ Quý Toàn, Duyên Anh, Nhật Tiến, Duy Lam, Thế Uyên, Thế Nguyên, Lê Đình Điểu, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Hà Huyền Chi, Dương Hùng Cường, Cung Tiến, Cao Thế Dung, Lê Tất Điều, Nguyễn Hiền, Nguyễn Hoàng Đoan.
Tiếp nữa là Phạm Cao Dương, Phạm Đình Chương, Trần Dạ Từ, Phạm Quốc Bảo, Phạm Thiên Thư, Toan Ánh, Trà Lũ,Trần Cao Lĩnh, Trần Mộng Tú, Trùng Dương Nguyễn Thị Thái, Lê Thiệp-tác giả sáng nghĩ ra danh xưng Đại lộ kinh hoàng-  Nguyễn Ngọc Ngạn, Vương Đức Lệ, Mai Trung Tĩnh, Nguyễn Thụy Long, Duyên Anh, thêm bút hiệu Thương Sinh, Hoàng Khởi Phong, họa sĩ Đằng Giao.
Phía quân đội có những sĩ quan trẻ như Lê Nuyên Khang, Nguyễn Cao Kỳ, Phó Quốc Trụ, Phạm Văn Phú, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Cơ Minhv.Cả một lớp người trẻ trên dưới 30 tuỗi sau này góp công xây dựng một miền Nam đa dạng và phong phú mọi mặt vè báo chí, tiểu thuyết, y khoa, dược khoa và nhất là mặt giáo dục đào tạo.
Thiếu họ, không có một diện mạo văn học và giới trẻ được đào tạo sau này.. Họ làm nên sự nghiệp từ những bước chân bước xuống tầu há mồm còn khập khễnh ngỡ ngàng khi vào miền Nam. Niền Nam với: Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi.
Từ nay Sài Gòn sẽ thay thế Hà Nội.
Thủ đô văn hóa Hà Nội đã một thời, nay nhường bước cho một Sài Gòn hoa lệ- Hòn ngọc của Viễn Đông- của tình người, của tự do, của sáng tạo.
Đặc biệt, nhóm TLVĐ do Nhất Linh khởi xướng. ông đã có mặt tại miền Nam từ năm 1951. Ông đã muốn dựng lại một bước thứ hai  củaTLVĐ tại miền Nam với sự bổ xung các nhà văn Nguyễn Thị Vinh, Duy Lam và Tường Hùng vào chỗ trống của những người vắng mặt  như Thế Lữ, Xuân Diệu và Tú Mỡ ở lại miền Bắc. Nhưng sự thay thế này đã không đem lại kết quả như mong muốn. TLVĐ chỉ còn là cái bóng của nó thời tiền chiến.
Giới giáo chức – những viên gạch xây dựng miền Nam-.
Khi những thanh niên trẻ học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường theo dòng người di cư vào miền Nam, họ đã đến tạm trú tại các lều trại được gọi là khu Phú Thọ lều. Những nữ sinh thì được ở tạm trụ trong các trường học như trường Gia Long,  trường Trương Vĩnh Ký vv..Và chẳng bao lâu sau, họ lại có cơ hội cắp sách đến trường.
Đây là một điều kỳ diệu. Họ đã không bỏ học một ngày sau cuộc di cư thế kỷ nhân loại.Họ chen vai với giới trẻ học sinh miền Nam, cặm cụi đến trường học xen kẽ vào các buổi trưa nắng của các trường Trung, tiểu học miền Nam.
Tôi không nhớ bằng lúc nào, bằng cách nào các trường tư thục mọc lên như nầm ở Sài Gòn, bổ khuyết cho sự thiếu xót các trường công lập.
Nhìn lại Sáu năm hoạt động của chánh phủ VNCH, tài liệu do ông Hồ Đắc Huân sưu tầm và cho in lại cho thấy chỉ trong 6 năm từ con số 29 trường Công Lập với 20.999 học sinh nhảy lên 69 trường với 62.130 học sinh.
Đó là những con số biết nói ấn tượng nhất. Đó là tương lai miền Nam đặt vào giới trẻ này.
Nghĩa là tối thiểu mỗi tỉnh đều có một trường trung học. các quận lỵ thì có trường tiểu học, các bệnh xá.
Và năm 1958 đánh dấu sự cải tổ toàn diện chương trình và phương pháp gíao dục. Theo giáo sư Lưu Trung Khảo, một trong những thành viên được mời tham dự đại hội giáo dục cho tôi hay là những quyết định cơ bản về nền giáo dục miền Nam đều do Đại hội giáo dục này đề ra và Tổng thống Diệm chỉ là người duyệt ký.
Nền giáo dục ấy dựa trên ba nguyên tắc: giáo dục nhân bản, giáo dục dân tộc và tính cách khai phóng.
Nghĩ lại, tôi luôn luôn nghĩ rằng phải biết ơn miền Nam  đã nuôi dạy chúng tôi- những người trẻ Khu Phú Thọ lều- trở thành những con người hữu dụng cho quê hương miền Nam.
Xin được nói với các bạn trẻ ngày hôm nay bằng những con số…dễ thương
Về trường công lập bản địa như Gia Long, do bà Huỳnh Hữu Hội làm hiệu trưởng thu nhận 4233 nữ sinh.. Trường Trưng Vương di cư từ Bắc vào do bà Tăng Xuân An làm hiệu trưởng thu nhận 1977 nữ sinh. Trường Trương Vĩnh Ký( Pe1trus Ký), do ông Nguyễn Văn Trường làm hiệu trưởng với 3183 nam sinh. Võ Trường Toản, hiệu trưởng  Đinh Căng Nguyên với  1877 học sinh. Trường Chu Văn di cư do ông Trần Văn Việt làm hiệu trưởng thu nhận 2455 nam sinh và nữ sinh ở các lớp đệ nhất. Cạnh đó là các trường Hồ Ngọc Cẩn, hiệu trưởng Lê Ngọc Toản với 1863 nam sinh. Trần Lục, hiệu trưởng là ông Hoàng Khôi với 782 nam sinh. Nguyễn Trãi, hiệu trưởng Vũ Đức Thận với 912.
Nếu xét về tổng số học sinh thì cho thấy rõ, học sinh di cư vượt trội con số học sinh miền Nam..
Ngoài Huế, trường Đồng Khánh, hiệu trưởng bà Văn Đình Hy với 1994 nữ sinh..Trường Quốc Học, Đinh Quy làm hiệu trưởng với 2291 nam sinh..
Đã bao nhiêu nhân tài đất Bắc và miền Nam sau này xuất thân từ các trường Chu Văn An, Petrus Ký, Trưng Vương, Gia Long?
Thật đếm không xuể. Không cách nào đếm hết và đếm để làm gì vì sự thực nó là như thế!!
Tuy nhiên một điều hết sức ngạc nhiên là ngay từ những ngày đầu của cuộc hội nhập này, một số giáo sư đến từ miền Bắc đã mở trường dạy học ở Sài Gòn..
Người đầu tiên tôi muốn nhắc đến là giáo sư Ngô Duy Cầu, giáo sư toán và hiệu trưởng trường Văn Lang với 2592 học sinh.. Bên cạnh ông Cầu là những giáo sư như Nghiêm Toản, Vũ Hoàng Chương..So với trường Nguyễn Văn Khuê, dân bản địa thì về số lượng chưa ăn thua gì. Vì trường Nguyễn Văn Khuê có tổng số 4255 học sinh..
Sự cạnh tranh hẳn là ráo riết.
Tiếp đến là trường Anh văn  Ziên Hồng, hiệu trưởng là ông Lê Bá Khanh và người dạy anh văn nổi tiêng là ông Lê Bá Không với 220 học sinh chuyên về anh văn.
Bên cạnh trường Ziên Hồng sau này có các lớp Anh Văn Nguyễn Ngọc Linh, tại số 129-131 Lê Văn Duyệt, (cơ sở trường Tao Đàn), có luyện thi tú tài 1 và luyện thi Cambridge lower certificate, anh văn thương mại và thông dịch…
Đã có bao nhiêu thanh niên sau này đi làm cho Mỹ, đi du học đã xuất thân từ trường này?
Ngôi trường tư thứ ba là trường Nguyễn Khuyến, do anh em ông Bùi Hữu Sủng, Bùi Hữu Đột với 717 học sinh trung học đệ nhất cấp. Đã bao nhiêu học trò “dốt” học lớp luyện thi và xuất thân từ ngôi trường này..? Ông Bùi Hữu Sủng sau này cũng là một trong những chứng nhân nhìn thấy cảnh tự thiêu của Hòa thượng  Thích Quảng Đức từ đầu tới cuối.
Nhưng sau này, một số trường tư nổi tiếng vượt mọi kích thước là: Nguyễn Bá Tòng, cha Vũ Khành Tường hiệu trưởng với 2811 nam nữ sinh.. Trường Hưng Đạo, do ông Nguyễn Văn Phú vừa mới quá vãng với con số vượt trội với 3991 học sinh.
Uy tín của những trường này nay không nhất thiết dựa vào uy tín cá nhân của người hiệu trưởng mà dựa vào uy tín trường- về tổ chức- về kỷ luật- về ban giảng huấn và kết quả thi cử![11]
Ngồi nhìn lại, tôi chịu khó ngồi đếm cả thẩy có khoảng 500 trường đủ loại như thế trên toàn miền Nam…
Còn có sự nghiệp hội nhập nào  đồ sộ và lớn lao nào hơn được trong việc đầu tư tương lai của miền Nam VN..
Ấy là chưa kể đến các thầy cô giáo ở bậc tiểu học. Xin một lần được vinh danh các nhà giáo dục, các giíao sư, giáo viên trên toàn miền Nam- Nhất là giai đoạn 1965-1975, họ vẫn giữ gìn được phẩm chất nhà giáo, sống nghèo lo toan cho việc đào tạo thế hệ trẻ miền Nam bất kể nguồn gốc địa phương!![12]
Trích “Niên Lich Công đàn”, phần hai 
Nhận định chung về dòng chảy hội nhập từ phía Bắc
Việc nêu tên danh tánh từng nhà văn, nhà báo, trí thức trẻ miền Bắc di cư và hội nhập vào xã hội  miền Nam là một chủ đích của người viết bài này. Một sự mất công không phải là vô ích.
Nhìn chung có một sự di cư tập thể trí thức miền Bắc vào miền Nam.
Trong một bài viết nhan đề: Nhìn li quá kh, tác giả y sĩ đại tá Hoàng Cơ Lân nhận định là sau Hiệp định Geneve, giáo sư người Pháp Lassus đã trao trả đại học Hà Nội cho Việt Nam trước khi đại học này di chuyển vào Sài Gòn. Ông cũng viết là giáo sư Huard cũng trao đại học Y Khoa cho giáo sư Trần Quang Đệ và trường quân y cũng di cư vào  miền Nam.
Nhưng điều quan trọng hơn cả, cũng theo y sĩ đại tá Hoàng Cơ Lân, toàn b sinh viên quân y đu di cưvào miNam, ch tr mt vài người vì lý do gia đình ph li.[13].
Được biết, chỉ có bác sĩ  Đinh Văn Thắng, giám đốc trường quân y ở Hà Nội đã quyết định ở lại- vì lý do riêng-, không di cư vào Nam.
Trích: Quân y Quân lực VNCH, 2000, Nhìn l;ại quá khứ, y sĩ Hoàng Cơ Lân, trang 81
Trong cuốn Hồi ký của Kỹ sư Võ Long Triều, ông cho hay toàn bộ số sinh viên ở bên Pháp đã quyết định chọn về miền Nam, sau 1954 như chúng ta sẽ trình bày ở phần thứ ba của bài viết. Trừ một nữ sinh viên có bố làm Thị trưởng thành phố Hà Nội nên quyết định về Bắc. Đó là con gái dược sĩ Thẩm Hoàng Tín.
Bấy nhiêu nhân tài đất Bắc, không hẹn mà cùng nhau quyết định lên đường vào miền Nam.
Hai chứng từ trên cho thấy, dòng chảy các thanh niên trí thức chọn miền Nam là một chọn lựa một lý tưởng tự do, nhân bản mà chỉ có miền Nam mới có được..
Sự đóng góp của dòng chảy người Bắc di cư vào miền Nam chẳng những về mặt  chính trị mà ở đây chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến các phạm vi văn hóa như báo chi, tiểu thuyết- những mặt mạnh nhất của dòng chảy di cư từ miền Bắc-.
(Còn nữa)
© Đàn Chim Việt
————————————————-
Ghi chú: 
[2]  Đọc Nguyễn Trường Tộ với vấn  đề canh tân  đất nước.
Ký ức Huỳnh Văn Lang,  tấp, trang  472
[5] Vy Thanh, Lớn lên với đất nước, trang 327
[10]  Trần Ngọc Ninh, Một chút lịch sử Y khoa, đại học đường Sài Gòn,  trang 32-33

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét