Nói thêm về “Vụ Nhã Thuyên”
Học Thế Nào
Sau khi Học Thế Nào đăng bài Kỳ án Nhã Thuyên, một số bạn đọc mà họ là những nhân vật chứng kiến ít nhiều một số sự kiện liên quan gửi thư tới nhóm biên tập với mong muốn nói lại, nói thêm hoặc bổ sung một số chi tiết mà bài viết đề cập. Học Thế Nào tổng hợp các ý kiến này thành bài viết ngắn dưới đây:
Về sự kiện ngày 27/7/2013
Sau loạt bài phê phán trên báo chính thống, lãnh đạo trường chỉ đạo Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn triệu tập họp hội đồng khoa học khoa (mở rộng) chứ không phải hội thảo khoa học như được gọi tên trong bài viết “Kỳ án Nhã Thuyên”. Học Thế Nào xin đính chính lại chi tiết này.
Thành phần mở rộng là các giáo sư đã nghỉ hưu, thêm PGS TS Lê Quang Hưng, Chủ nhiệm Khoa Việt Nam học, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, tham gia với tư cách phản biện. Không ai ở hội đồng chấm luận văn Nhã Thuyên năm 2010 được mời. PGS TS Nguyễn Thị Bình được mời với tư cách là thành viên hội đồng khoa học của khoa. Tất cả bốn vị Ban Giám hiệu Trường ĐH Sư phạm Hà Nội có mặt.
Tại cuộc họp, PGS TS Nguyễn Thị Bình giải trình ngắn gọn một số nội dung, cụ thể:
1/ Nghiên cứu những hiện tượng của đời sống văn học đương đại là nhiệm vụ của Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại.
2/ Luận văn được thực hiện đúng quy trình theo những quy định ở thời điểm đó.
3/ Người hướng dẫn làm việc với học viên theo tinh thần đối thoại chứ không áp đặt.
Sau trình bày của PGS TS Nguyễn Thị Bình là phần nêu ý kiến của ba phản biện (tại cuộc này gọi là ¨đọc sâu¨): GS TS Trần Đăg Xuyền, PGS TS Lê Lưu Oanh, PGS TS Lê Quang Hưng.
Sau phần “đọc sâu”, rất nhiều người đã phát biểu sau đó. Có những va chạm được cho là khá gay gắt xung quanh các tiêu chí thẩm mĩ, và cuối cùng vẫn nhất trí ghi vào biên bản kết luận là: đề tài có thể nghiên cứu được, luận văn không có sai phạm về động cơ chính trị…
Khoảng một tuần sau lại có cuộc họp của hội đồng khoa học cấp trường, gồm các giáo sư đương nhiệm và các trưởng đơn vị. Đại diện Khoa Ngữ Văn chỉ có Chủ nhiệm khoa PGS TS Đỗ Hải Phong. GS TS Trần Đăng Xuyền và PGS TS Lê Quang Hưng vẫn là hai trong số ba vị tham gia với vai trò phản biện. Trong cuộc họp này đã có sự tranh luận gay gắt. Sau khi PGS TS Đỗ Hải Phong đọc kết luận của Hội đồng Khoa học Khoa Ngữ Văn thì có hai luồng ý kiến trái chiều. Một số vị cho rằng chỉ hội đồng chuyên môn mới đủ thẩm quyền phán xét và đề nghị hội đồng khoa học cấp trường tôn trọng các kết luận đã có. Một số vị khác cho rằng luận văn nghiên cứu một đối tượng không xứng đáng và có cái nhìn cực đoan.
Về việc bổ nhiệm Trưởng bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại
Trong cuộc thăm dò ý kiến do Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn thực hiện, TS Chu Văn Sơn đạt 8/9 phiếu đồng thuận. Nhưng trường không lại ra quyết định bổ nhiệm PGS TS Vũ Thanh (chuyên gia phần Văn học Việt Nam Trung đại, lúc đó là Phó Chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn) phụ trách bộ môn dù gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của các cán bộ giảng dạy. Về sau, PGS TS Vũ Thanh cũng từ chối nhiệm vụ này và ngay lập tức xin chuyển cơ quan. Hiện nay PGS TS Vũ Thanh là Phó Viện trưởng Viện Văn học.
Về việc dạy chuyên đề Văn học Việt Nam ở hải ngoại
Xung quanh việc dạy chuyên đề VHVN ở nước ngoài, có những diễn biến khá phức tạp, không hoàn toàn đơn giản như một đôi câu tóm tắt trong bài viết “Kỳ án Nhã Thuyên”.
Cách đây khoảng 5 năm, khi mà GS TS Trần Đăng Xuyền còn là Phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội và thầy Lã Nhâm Thìn còn là trưởng Khoa Ngữ Văn, nhà trường tổ chức xây dựng lại chương trình khung theo học chế tín chỉ. Với sự tham vấn của một số giáo sư, chương trình của Khoa Ngữ Văn có thêm một số chuyên đề, trong đó có chuyên đề Văn học Việt Nam ở nước ngoài. Đến nhiệm kỳ PGS TS Đỗ Việt Hùng làm Chủ nhiệm khoa Ngữ Văn thì chương trình được đưa ra thẩm định ở hội đồng khoa học khoa và hội đồng đã chấp nhận đề xuất này và trình lên Ban Giám hiệu nhà trường. Khoa Ngữ văn giao cho Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại phụ trách chuyên đề này và năm 2010 là năm đầu tiên thực hiện. Vì thuộc hệ thống chuyên đề tự chọn nên nó được quay vòng 2 năm/ lần. Vì thế đến 2012, nó tiếp tục được giảng dạy cho sinh viên. Trưởng Bộ môn là PGS TS Nguyễn Thị Bình đã phân công 3 cán bộ, giảng viên dạy đồng thời ba lớp: TS Nguyễn Phượng, TS Đặng Thu Thuỷ, Th.s Đỗ Thị Thoan. Nội dung và cách thức lên lớp chuyên đề này được thống nhất thực hiện trong nhóm ba cán bộ, giảng viên này. GS TS Trần Đăng Xuyền tuy là Phó Hiệu trưởng nhưng có thể vì bận công tác lãnh đạo, GS không có điều kiện quan tâm tới hoạt động chuyên môn tại khoa nên không hề biết có việc này.
Sau khi đến tuổi nghỉ quản lý, GS TS Trần Đăng Xuyền tiếp tục giảng dạy tại Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, Khoa Ngữ Văn. Khoảng đầu tháng 4/2013, Bộ môn Văn học Việt Nam tổ chức xêmina về chuyên đề Văn học Việt Nam ở hải ngoại. Sau khi TS Nguyễn Phượng đại diện cho nhóm trình bày báo cáo (có sự bổ sung của TS Đặng Thu Thuỷ và Th.s Đỗ Thị Thoan, GS TS Trần Đăng Xuyền bày tỏ sự ngỡ ngàng. GS Trần Đăng Xuyền phản đối, cho rằng không nên quan tâm mảng này. Các cán bộ, giảng viên trong bộ môn giải thích cho GS Trần Đăng Xuyền rằng, học phần này nằm trong chương trình khung do chính Trường ĐH Sư phạm Hà Nội ban hành, nhiệm vụ của Khoa Ngữ Văn hiện giờ là nghiên cứu, giảng dạy tốt học phần đó chứ không còn là lúc bàn bạc chuyện nên hay không nên.
GS Trần Đăng Xuyền cho rằng cho dù chương trình khung là của trường ban hành nhưng việc đề xuất chắc phải là của Bộ môn. Sau đó GS Trần Đăng Xuyền còn chất vấn ai là người đầu tiên nêu ý tưởng? PGS TS Nguyễn Thị Bình khẳng định bản thân bà chưa bao giờ đưa ra đề xuất này, tuy nhiên bà bỏ phiếu ủng hộ khi nó được thảo luận ở hội đồng khoa học của khoa. Và khi được Ban Chủ nhiệm khoa giao nhiệm vụ, bộ môn đã tiến hành tổ chức nghiên cứu và giảng dạy.
Theo lý lẽ của GS Trần Đăng Xuyền, nhiệm vụ cơ bản của Trường ĐH Sư phạm Hà Nội là trường đào tạo nghề nghiệp, theo đó phạm vi nội dung kiến thức được đưa vào giảng dạy ở Khoa Ngữ Văn chỉ nên bó hẹp ở những kiến thức được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông. Tuy nhiên, lý lẽ này không thuyết phục được các cán bộ, giảng viên của bộ môn. Có cán bộ còn dẫn nội dung Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và cho rằng, việc đưa học phần Văn học Việt Nam ở hải ngoại vào giảng dạy tại Khoa Ngữ Văn Trường ĐH Sư phạm Hà Nội là phù hợp chủ trương của Đảng. Do chỉ là một buổi sinh hoạt chuyên môn nên không có kết luận. Nhiều cán bộ, giảng viên chỉ nghĩ rằng những trao đổi trong buổi sinh hoạt chỉ là những va chạm quan điểm có tính học thuật thông thường nên vẫn tiếp tục tổ chức và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy học phần Văn học Việt Nam ở hải ngoại cho sinh viên.
Các ghi chép phía trên của chúng tôi có thể có những sai sót nhỏ ở chi tiết, nhưng đại thể sự việc được chúng tôi ghi lại trung thực theo các thông tin tin cậy có được.
Về các dư luận ngoài lề khác, theo chúng tôi là hơi nặng “thuyết âm mưu”, nhưng cũng xin ghi lại dưới đây.
Theo dư luận ở Khoa Ngữ văn Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, những cán bộ phản đối việc dạy học phần Văn học Việt Nam ở hải ngoại nghi ngờ PGS TS Nguyễn Thị Bình chính là người đầu tiên đề xuất đưa học phần này vào chương trình khung; và động cơ của đề xuất nhằm “kéo” Nhã Thuyên về giảng dạy tại khoa. Thậm chí, một số đồn đoán thỉnh thoảng còn được “tung” ra trong dư luận ở khoa, rằng rằng PGS TS Nguyễn Thị Bình và Nhã Thuyên có “quan hệ mờ ám” với người nước ngoài.
Đường link dẫn tới Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài:
Học Thế Nào
Học Thế Nào
Sau khi Học Thế Nào đăng bài Kỳ án Nhã Thuyên, một số bạn đọc mà họ là những nhân vật chứng kiến ít nhiều một số sự kiện liên quan gửi thư tới nhóm biên tập với mong muốn nói lại, nói thêm hoặc bổ sung một số chi tiết mà bài viết đề cập. Học Thế Nào tổng hợp các ý kiến này thành bài viết ngắn dưới đây:
Về sự kiện ngày 27/7/2013
Sau loạt bài phê phán trên báo chính thống, lãnh đạo trường chỉ đạo Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn triệu tập họp hội đồng khoa học khoa (mở rộng) chứ không phải hội thảo khoa học như được gọi tên trong bài viết “Kỳ án Nhã Thuyên”. Học Thế Nào xin đính chính lại chi tiết này.
Thành phần mở rộng là các giáo sư đã nghỉ hưu, thêm PGS TS Lê Quang Hưng, Chủ nhiệm Khoa Việt Nam học, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, tham gia với tư cách phản biện. Không ai ở hội đồng chấm luận văn Nhã Thuyên năm 2010 được mời. PGS TS Nguyễn Thị Bình được mời với tư cách là thành viên hội đồng khoa học của khoa. Tất cả bốn vị Ban Giám hiệu Trường ĐH Sư phạm Hà Nội có mặt.
Tại cuộc họp, PGS TS Nguyễn Thị Bình giải trình ngắn gọn một số nội dung, cụ thể:
1/ Nghiên cứu những hiện tượng của đời sống văn học đương đại là nhiệm vụ của Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại.
2/ Luận văn được thực hiện đúng quy trình theo những quy định ở thời điểm đó.
3/ Người hướng dẫn làm việc với học viên theo tinh thần đối thoại chứ không áp đặt.
Sau trình bày của PGS TS Nguyễn Thị Bình là phần nêu ý kiến của ba phản biện (tại cuộc này gọi là ¨đọc sâu¨): GS TS Trần Đăg Xuyền, PGS TS Lê Lưu Oanh, PGS TS Lê Quang Hưng.
Sau phần “đọc sâu”, rất nhiều người đã phát biểu sau đó. Có những va chạm được cho là khá gay gắt xung quanh các tiêu chí thẩm mĩ, và cuối cùng vẫn nhất trí ghi vào biên bản kết luận là: đề tài có thể nghiên cứu được, luận văn không có sai phạm về động cơ chính trị…
Khoảng một tuần sau lại có cuộc họp của hội đồng khoa học cấp trường, gồm các giáo sư đương nhiệm và các trưởng đơn vị. Đại diện Khoa Ngữ Văn chỉ có Chủ nhiệm khoa PGS TS Đỗ Hải Phong. GS TS Trần Đăng Xuyền và PGS TS Lê Quang Hưng vẫn là hai trong số ba vị tham gia với vai trò phản biện. Trong cuộc họp này đã có sự tranh luận gay gắt. Sau khi PGS TS Đỗ Hải Phong đọc kết luận của Hội đồng Khoa học Khoa Ngữ Văn thì có hai luồng ý kiến trái chiều. Một số vị cho rằng chỉ hội đồng chuyên môn mới đủ thẩm quyền phán xét và đề nghị hội đồng khoa học cấp trường tôn trọng các kết luận đã có. Một số vị khác cho rằng luận văn nghiên cứu một đối tượng không xứng đáng và có cái nhìn cực đoan.
Về việc bổ nhiệm Trưởng bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại
Trong cuộc thăm dò ý kiến do Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn thực hiện, TS Chu Văn Sơn đạt 8/9 phiếu đồng thuận. Nhưng trường không lại ra quyết định bổ nhiệm PGS TS Vũ Thanh (chuyên gia phần Văn học Việt Nam Trung đại, lúc đó là Phó Chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn) phụ trách bộ môn dù gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của các cán bộ giảng dạy. Về sau, PGS TS Vũ Thanh cũng từ chối nhiệm vụ này và ngay lập tức xin chuyển cơ quan. Hiện nay PGS TS Vũ Thanh là Phó Viện trưởng Viện Văn học.
Về việc dạy chuyên đề Văn học Việt Nam ở hải ngoại
Xung quanh việc dạy chuyên đề VHVN ở nước ngoài, có những diễn biến khá phức tạp, không hoàn toàn đơn giản như một đôi câu tóm tắt trong bài viết “Kỳ án Nhã Thuyên”.
Cách đây khoảng 5 năm, khi mà GS TS Trần Đăng Xuyền còn là Phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội và thầy Lã Nhâm Thìn còn là trưởng Khoa Ngữ Văn, nhà trường tổ chức xây dựng lại chương trình khung theo học chế tín chỉ. Với sự tham vấn của một số giáo sư, chương trình của Khoa Ngữ Văn có thêm một số chuyên đề, trong đó có chuyên đề Văn học Việt Nam ở nước ngoài. Đến nhiệm kỳ PGS TS Đỗ Việt Hùng làm Chủ nhiệm khoa Ngữ Văn thì chương trình được đưa ra thẩm định ở hội đồng khoa học khoa và hội đồng đã chấp nhận đề xuất này và trình lên Ban Giám hiệu nhà trường. Khoa Ngữ văn giao cho Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại phụ trách chuyên đề này và năm 2010 là năm đầu tiên thực hiện. Vì thuộc hệ thống chuyên đề tự chọn nên nó được quay vòng 2 năm/ lần. Vì thế đến 2012, nó tiếp tục được giảng dạy cho sinh viên. Trưởng Bộ môn là PGS TS Nguyễn Thị Bình đã phân công 3 cán bộ, giảng viên dạy đồng thời ba lớp: TS Nguyễn Phượng, TS Đặng Thu Thuỷ, Th.s Đỗ Thị Thoan. Nội dung và cách thức lên lớp chuyên đề này được thống nhất thực hiện trong nhóm ba cán bộ, giảng viên này. GS TS Trần Đăng Xuyền tuy là Phó Hiệu trưởng nhưng có thể vì bận công tác lãnh đạo, GS không có điều kiện quan tâm tới hoạt động chuyên môn tại khoa nên không hề biết có việc này.
Sau khi đến tuổi nghỉ quản lý, GS TS Trần Đăng Xuyền tiếp tục giảng dạy tại Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, Khoa Ngữ Văn. Khoảng đầu tháng 4/2013, Bộ môn Văn học Việt Nam tổ chức xêmina về chuyên đề Văn học Việt Nam ở hải ngoại. Sau khi TS Nguyễn Phượng đại diện cho nhóm trình bày báo cáo (có sự bổ sung của TS Đặng Thu Thuỷ và Th.s Đỗ Thị Thoan, GS TS Trần Đăng Xuyền bày tỏ sự ngỡ ngàng. GS Trần Đăng Xuyền phản đối, cho rằng không nên quan tâm mảng này. Các cán bộ, giảng viên trong bộ môn giải thích cho GS Trần Đăng Xuyền rằng, học phần này nằm trong chương trình khung do chính Trường ĐH Sư phạm Hà Nội ban hành, nhiệm vụ của Khoa Ngữ Văn hiện giờ là nghiên cứu, giảng dạy tốt học phần đó chứ không còn là lúc bàn bạc chuyện nên hay không nên.
GS Trần Đăng Xuyền cho rằng cho dù chương trình khung là của trường ban hành nhưng việc đề xuất chắc phải là của Bộ môn. Sau đó GS Trần Đăng Xuyền còn chất vấn ai là người đầu tiên nêu ý tưởng? PGS TS Nguyễn Thị Bình khẳng định bản thân bà chưa bao giờ đưa ra đề xuất này, tuy nhiên bà bỏ phiếu ủng hộ khi nó được thảo luận ở hội đồng khoa học của khoa. Và khi được Ban Chủ nhiệm khoa giao nhiệm vụ, bộ môn đã tiến hành tổ chức nghiên cứu và giảng dạy.
Theo lý lẽ của GS Trần Đăng Xuyền, nhiệm vụ cơ bản của Trường ĐH Sư phạm Hà Nội là trường đào tạo nghề nghiệp, theo đó phạm vi nội dung kiến thức được đưa vào giảng dạy ở Khoa Ngữ Văn chỉ nên bó hẹp ở những kiến thức được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông. Tuy nhiên, lý lẽ này không thuyết phục được các cán bộ, giảng viên của bộ môn. Có cán bộ còn dẫn nội dung Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và cho rằng, việc đưa học phần Văn học Việt Nam ở hải ngoại vào giảng dạy tại Khoa Ngữ Văn Trường ĐH Sư phạm Hà Nội là phù hợp chủ trương của Đảng. Do chỉ là một buổi sinh hoạt chuyên môn nên không có kết luận. Nhiều cán bộ, giảng viên chỉ nghĩ rằng những trao đổi trong buổi sinh hoạt chỉ là những va chạm quan điểm có tính học thuật thông thường nên vẫn tiếp tục tổ chức và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy học phần Văn học Việt Nam ở hải ngoại cho sinh viên.
Các ghi chép phía trên của chúng tôi có thể có những sai sót nhỏ ở chi tiết, nhưng đại thể sự việc được chúng tôi ghi lại trung thực theo các thông tin tin cậy có được.
Về các dư luận ngoài lề khác, theo chúng tôi là hơi nặng “thuyết âm mưu”, nhưng cũng xin ghi lại dưới đây.
Theo dư luận ở Khoa Ngữ văn Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, những cán bộ phản đối việc dạy học phần Văn học Việt Nam ở hải ngoại nghi ngờ PGS TS Nguyễn Thị Bình chính là người đầu tiên đề xuất đưa học phần này vào chương trình khung; và động cơ của đề xuất nhằm “kéo” Nhã Thuyên về giảng dạy tại khoa. Thậm chí, một số đồn đoán thỉnh thoảng còn được “tung” ra trong dư luận ở khoa, rằng rằng PGS TS Nguyễn Thị Bình và Nhã Thuyên có “quan hệ mờ ám” với người nước ngoài.
Đường link dẫn tới Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài:
Học Thế Nào
Sư phạm Đại học, Ngữ Văn Khoa tạp phú
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió văn chương
Lướt bể chơi trăng thi phú
Sớm tìm hiểu chừ tích truyện người xưa
Chiều lần thăm chừ thơ ca hiện đại
Thơ loạn, thơ Điên, cùng là Sáng tạo
Dạ đài, sánh với cách tân
Nơi có người đi
Đâu mà chẳng biết.
Giương buồm giong gió văn chương
Lướt bể chơi trăng thi phú
Sớm tìm hiểu chừ tích truyện người xưa
Chiều lần thăm chừ thơ ca hiện đại
Thơ loạn, thơ Điên, cùng là Sáng tạo
Dạ đài, sánh với cách tân
Nơi có người đi
Đâu mà chẳng biết.
Thế mà
Nhân bọn lý luận quốc doanh gây nỗi phiền hà
Để trong nước lòng khách thơ oán giận
Chuyện Nhã Thuyên li kì đại học nhà ta
Nhóm Mở Miệng xôn xao làng văn chính thống
Giấc mộng tự do học thuật chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết
bèn giữa dòng chừ ngồi suy nghĩ
học Đỗ Phủ chừ bày đặt đau đời
Nhân bọn lý luận quốc doanh gây nỗi phiền hà
Để trong nước lòng khách thơ oán giận
Chuyện Nhã Thuyên li kì đại học nhà ta
Nhóm Mở Miệng xôn xao làng văn chính thống
Giấc mộng tự do học thuật chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết
bèn giữa dòng chừ ngồi suy nghĩ
học Đỗ Phủ chừ bày đặt đau đời
Mới hay:
Đỗ Thị Thoan thạc sĩ cách ba năm
Bị truất phế âm thầm trong bóng tối
Hội đồng xưa chấm được điểm 10
Hội đồng nay tức thì hủy diệt
Chỉ vì nàng Nhã Thuyên dám nói
Về chuyện mấy cậu nhà thơ đòi mở miệng mở mồm.
Đỗ Thị Thoan thạc sĩ cách ba năm
Bị truất phế âm thầm trong bóng tối
Hội đồng xưa chấm được điểm 10
Hội đồng nay tức thì hủy diệt
Chỉ vì nàng Nhã Thuyên dám nói
Về chuyện mấy cậu nhà thơ đòi mở miệng mở mồm.
Hỡi ôi
Bao năm quen nhờ người khác nghĩ hộ
Bây giờ có đứa nó tự nghĩ tự hành văn
thì ô hô, rằng nó có tội với dân ta
Nó phải nghĩ theo “ông cha”
theo Đảng, theo ước mơ của “nhân dân”
Tội của nó nghìn lần không tha thứ!
Bao năm quen nhờ người khác nghĩ hộ
Bây giờ có đứa nó tự nghĩ tự hành văn
thì ô hô, rằng nó có tội với dân ta
Nó phải nghĩ theo “ông cha”
theo Đảng, theo ước mơ của “nhân dân”
Tội của nó nghìn lần không tha thứ!
Vậy nên
Đặng Thanh Lê[1], Đoàn Đức Phương[2] “lưu danh sử sách”
Phan Trọng Thưởng[3], Lê Quang Hưng[4] “tiếng để ngàn năm”
Hội đồng xét lại luận văn có một không hai
Công học hành cả đời đem đổ vào tro bụi
Qua cửa công danh
Ngóng bờ quyền lực
Lén lút đến ngồi rỉ rả với nhau
Quyết giết cho được bọn tự do suy nghĩ!
Đặng Thanh Lê[1], Đoàn Đức Phương[2] “lưu danh sử sách”
Phan Trọng Thưởng[3], Lê Quang Hưng[4] “tiếng để ngàn năm”
Hội đồng xét lại luận văn có một không hai
Công học hành cả đời đem đổ vào tro bụi
Qua cửa công danh
Ngóng bờ quyền lực
Lén lút đến ngồi rỉ rả với nhau
Quyết giết cho được bọn tự do suy nghĩ!
Trọn hay
Đem đại dốt để thắng hiền tài
Lấy chí ngu để thay đẳng cấp
Trận Nhân Văn vùi chôn biết mấy thi gia
Miền Sư Phạm tận diệt bao nhiêu khí phách
Ám khí đã hăng
Tiếng tai càng mạnh
Người hướng dẫn Nguyễn Thị Bình được cho nghỉ sớm an nhàn
Thạc sĩ Đỗ Thị Thoan bị tước bằng, về nhà thơ thẩn
Bọn văn nhân hẳn đã sức cùng lực kiệt
Ta đây mưu phạt vĩ mô, mới đánh ba mươi mấy bài mà chúng nó đã chịu khuất
Nó chắc sợ chết, im lặng chẳng dám nói gì
Ta muốn toàn quân là hơn, để các giáo sư quốc doanh nghỉ sức
Quả thật mưu kế diệu kì
Cũng là chưa thấy xưa nay!
Giang sơn từ đây không còn bọn mở miệng
Xã tắc từ đây hết kẻ đòi viết lách tự do
Nhật nguyệt sáng rồi lại thôi
Càn khôn thái rồi lại bỉ
Ngàn năm vết nhục nhã in sâu
Muôn thuở muối mặt một nền đại học
Âu cũng nhờ thành quả mấy mươi năm cải cách…
Đem đại dốt để thắng hiền tài
Lấy chí ngu để thay đẳng cấp
Trận Nhân Văn vùi chôn biết mấy thi gia
Miền Sư Phạm tận diệt bao nhiêu khí phách
Ám khí đã hăng
Tiếng tai càng mạnh
Người hướng dẫn Nguyễn Thị Bình được cho nghỉ sớm an nhàn
Thạc sĩ Đỗ Thị Thoan bị tước bằng, về nhà thơ thẩn
Bọn văn nhân hẳn đã sức cùng lực kiệt
Ta đây mưu phạt vĩ mô, mới đánh ba mươi mấy bài mà chúng nó đã chịu khuất
Nó chắc sợ chết, im lặng chẳng dám nói gì
Ta muốn toàn quân là hơn, để các giáo sư quốc doanh nghỉ sức
Quả thật mưu kế diệu kì
Cũng là chưa thấy xưa nay!
Giang sơn từ đây không còn bọn mở miệng
Xã tắc từ đây hết kẻ đòi viết lách tự do
Nhật nguyệt sáng rồi lại thôi
Càn khôn thái rồi lại bỉ
Ngàn năm vết nhục nhã in sâu
Muôn thuở muối mặt một nền đại học
Âu cũng nhờ thành quả mấy mươi năm cải cách…
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, khắp nơi người biết người không biết đều im
Gò đầy xương khô, ai dám nói nhiều kẻo vạ lây như hồi “Nhân văn” thuở trước
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, khắp nơi người biết người không biết đều im
Gò đầy xương khô, ai dám nói nhiều kẻo vạ lây như hồi “Nhân văn” thuở trước
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão hỏi
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
“Đây là chiến địa lý luận phê bình được gầy dựng từ hồi “Mác-xít”
Cũng là bãi đất xưa, thuở Đảng ta kêu gọi phải có thép trong thơ”.
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
“Đây là chiến địa lý luận phê bình được gầy dựng từ hồi “Mác-xít”
Cũng là bãi đất xưa, thuở Đảng ta kêu gọi phải có thép trong thơ”.
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Chém cho được mấy đứa ham tự nghĩ tự sáng tạo nhố nhăng
Lòa cho chúng mờ mắt đi, đừng có đòi tự do xúc động.
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Chém cho được mấy đứa ham tự nghĩ tự sáng tạo nhố nhăng
Lòa cho chúng mờ mắt đi, đừng có đòi tự do xúc động.
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội những người có niềm tin vào lẽ phải, công bằng
Trận nào bằng trận những trí thức vững vàng mặc cho thời cuộc
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Ngẫm giáo dục chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sông hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Chuyện văn chương, chuyện non song
Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội những người có niềm tin vào lẽ phải, công bằng
Trận nào bằng trận những trí thức vững vàng mặc cho thời cuộc
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Ngẫm giáo dục chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sông hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Chuyện văn chương, chuyện non song
Tự do là giấc mộng không thể
thành
© Hà Nhân
Nguồn: Trang Viet-studies ngày 2-4-14
[1] Thành viên Hội đồng mật xoá luận văn ĐTT
[2] Thành viên Hội đồng mật xoá Luận văn ĐTT
[3] Thành viên Hội đồng mật xoá Luận văn ĐTT
[4] Thành viên Hội đồng mật xoá Luận văn ĐTT
[2] Thành viên Hội đồng mật xoá Luận văn ĐTT
[3] Thành viên Hội đồng mật xoá Luận văn ĐTT
[4] Thành viên Hội đồng mật xoá Luận văn ĐTT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét