Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014

BẠN CẦN BIẾT ĐỂ PHÒNG NGỪA BỆNH UNG THƯ

SỰ THẬT BẠN NÊN BIẾT
" Điều làm tôi vô cùng bực tức đó là tại sao y học hiện đại không nói cho chúng ta biết một điều đơn giản là TẾ BÀO UNG THƯ KHÔNG THỂ SỐNG TRONG MỘT CƠ THỂ Ở TRẠNG THÁI ALKALINE (trạng thái ba-zơ với nồng độ pH cao) ? Thay vào đó, họ lại cung cấp cho chúng ta hàng loạt các loại hoá chất độc hại đắt tiền... ??
5 cách kiềm hóa cơ thể mỗi ngày
Theo nhà sinh hóa Otto Heinrich Warburg, người đoạt giải Nobel Y học năm 1931, thì nguyên nhân gốc rễ của một cơ thể bệnh tật, kém khỏe mạnh là do cơ thể đó tích tụ quá nhiều axit. Ông cũng chỉ ra rằng các tế bào ung thư thì mang tính axit trong khi các tế bào khỏe mạnh lại mang tính kiềm. Với vai trò quan trọng như vậy đối với sức khỏe, mong muốn kiềm hóa cơ thể của con người cũng trở nên thiết yếu hơn. Sau đây là một số cách đơn giản có thể giúp bạn kiềm hóa cơ thể mỗi ngày.
1. Bắt đầu một ngày với 1 ly lớn nước chanh
Chanh được xem là loại thực phẩm có tác dụng kiềm hóa nhanh nhất khi đi vào cơ thể, uống nước chanh vào mỗi buổi sáng có thể giúp cơ thể thanh lọc các chất độc và cung cấp rất nhiều viatamin C, vitamin B6, canxi, kali, đồng, thiamin, riboflavin, pantothenic acid, sắt, magiê và calo. Uống nước chanh sau mỗi bữa ăn còn giúp quá trình tiêu hóa diễn ra nhanh hơn và làm thuyên giảm các triệu chứng như ợ chua, ợ nóng, đầy hơi, ăn không tiêu...
2. Bữa ăn nên có 80% thức ăn mang tính kiềm
Tất cả các loại thực phẩm chúng ta tiêu thụ đều làm thay đổi nồng độ pH trong máu, một chế độ ăn uống lành mạnh chỉ nên có 20% các thực phẩm mang tính axit, tức là các thực phẩm có chứa những protein hình thành nên axit như các loại thịt đỏ, cá, trứng, các loại đậu, ngũ cốc… Phần còn lại là thực phẩm mang tính kiềm gồm các loại rau, củ, trái cây. Thói quen ăn nhiều tinh bột và thịt trong mỗi bữa ăn của người Việt Nam chính là một phần nguyên nhân làm cho cơ thể kém khỏe mạnh và nhiều bệnh tật.
3. Uống 2 - 3 lít nước tinh khiết mỗi ngày
Uống nhiều nước là điều luôn được khuyến khích cho sức khỏe và khi muốn kiềm hóa cơ thể cũng vậy, nước không những đào thải được những chất cặn bã, độc hại trong cơ thể mà có thể dung hòa được lượng axit đang tồn tại trong cơ thể bạn. Uống nước mọi lúc và tốt nhất khi bụng đang đói sẽ là phương pháp thanh lọc cơ thể khá hữu hiệu.
4. Thường xuyên bổ sung hạt kê và hạt bí ngô vào thực đơn bữa ăn
Đây là hai loại hạt được nghiên cứu có tính kiềm mạnh nhất trong tất cả các loại hạt, trong hai loại hạt này chỉ có 15% lượng protein, một lượng lớn chất xơ và rất giàu chất phytochemical có thể giúp giảm cholesterol và làm giảm nguy cơ ung thư. Ngoài ra, hạt kê và hạt bí ngô còn các tác dụng hiệu quả trong việc hỗ trợ tiêu hóa và cung cấp một lượng dưỡng chất khác như: vitamin E, sắt, magiê, phốt pho, canxi, kẽm, kali…
5. Hít thở sâu
Hít thở sâu cũng là một trong những cách giúp kiềm hóa cơ thể, bằng cách đẩy những độc tố trong cơ thể ra ngoài bằng hơi thở. Hãy tập cách hít vào chậm rãi và thật sâu bằng mũi vào bụng cho đến khi cảm thấy phổi đã đầy. Dừng lại khoảng vài giây, sau đó thở ra từ từ bằng miệng. Khi hít thở sâu, lượng oxy cung cấp cho não cũng nhiều hơn, đẩy nhanh quá trình trao đổi khí và giúp tinh thần phấn chấn. Thở ra với lượng hơi dài đồng nghĩa với việc bạn đưa được nhiều hơn các khí độc tích tụ trong cơ thể như N2, CO2 ra ngoài. Tốt nhất bạn nên chọn địa điểm và thời gian buổi sáng hoặc chiều tối, khi không khí trong lành nhất để tập hít thở, như vậy hiệu quả thanh lọc cơ thể sẽ tốt hơn. Lưu ý đối với những người dễ bị dị ứng không nên tập hít thở những nơi có nhiều mùi hương và phấn hoa.
Sự tích lũy những chất độc có tính axit trong cơ thể là một đặc điểm của quá trình lão hóa. Chúng ta cũng có thể điều chỉnh axit cơ thể (độc chất nội tế bào và ngoại tế bào) bằng cách ăn uống những loại thực phẩm có tính kiềm, và quan trọng là có những hoạt động tạo nên kiềm tính như tập thể dục, thở sâu, thư giãn, thiền... 
Tính acid hoặc kiềm của một số thực phẩm
Rất kiềm: Gồm những loại rau non, tươi; trái cây mọc hoang được hái chín cây. Dưa tây (melon) được xem là có tính kiềm mạnh, kế đó là chà là, xoài, đu đủ, những loại dịch ép trái cây tươi, nước ép dược liệu, rau cải ăn sống, xà lách xoong, rong biển...
Kiềm nhẹ: Đậu, giá, hạt... Đậu khô có tính acid nhẹ nhưng khi thành giá, chúng trở nên có tính kiềm trung bình. Đậu tươi có tính kiềm nhẹ, đặc biệt khi chúng còn xanh.
Dược liệu khô, trà dược, rau cải, các loại hạt, gia vị tươi (đặc biệt là gừng, gừng càng tươi thì kiềm tính càng cao), mật... là những thực phẩm thể hiện tính kiềm nhẹ.
Trung tính: Dầu thực vật, sản phẩm từ đậu nành, đậu luộc, hạt rang...
Axit nhẹ: Trà, cà phê, gà vịt, rượu nguyên chất, bơ, phó mát (cheese), bánh nướng, khoai tây, muối tinh luyện, dấm trắng, sốt cà chua....
Axit mạnh: Thịt đỏ, chất làm ngọt nhân tạo, dược phẩm, thức uống có ga, nước ngọt. Đường thẻ trắng là một loại thực phẩm có tính axit mạnh. Thức uống đóng hộp là “hại” nhất vì chúng chứa đường, chất làm ngọt nhân tạo với hàm lượng cao axit phosphoric.... Các loại thức uống này sau khi tiêu hóa sẽ để lại một “kho” axit trong cơ thể chúng ta.
Các loại dịch ép trái cây nếu được uống ngay sau khi ép thì có tính kiềm, nhưng nếu đã đóng hộp hoặc lưu trữ lâu thì lại có tính axit.
Trong đời sống, chúng ta vẫn thường phải ăn những loại thực phẩm có tính axit. Với những trường hợp này, tính axit có thể được trung hòa nếu bạn ăn thêm một ít rau cải tươi. Tuy nhiên, để trung hòa tính axit, ta không cần phải dùng những thực phẩm có tính axit và kiềm trong cùng một bữa ăn. Chẳng hạn, ta có thể bù đắp kiềm tính cho khẩu phần ăn có tính axit sau vài giờ (sau khi thức ăn có tính axit đã được tiêu hóa) bằng một ít dưa tây. Nếu một bữa ăn đảm bảo được 10% protein và 90% rau cải thì nó sẽ có tính chất từ trung tính đến kiềm nhẹ.
Các thực phẩm có nhiều tính kiềm là những loại giàu enzyme và ở trạng thái tự nhiên. Chúng sẽ trở nên axit hơn nếu được nấu nướng (đặc biệt là thực phẩm rán, cháy). Các loại thực phẩm để lâu, đóng hộp, xông khói hoặc làm khô, thức ăn chứa những hóa chất dùng trong chế biến cũng giàu axit.

VÀ BẠN NÊN BIẾT THÊM MỘT SỰ THẬT
Khi mà các bác sĩ tiến hành đình công ở Israel vào năm 1983, và thêm một lần nữa vào năm 2000, con số ca tử vong đã giảm xuống còn 50%. Năm 1976, số lượng các ca tử vong ở Los Angeles giảm 18%, khi các bác sĩ L.A. tiến hành đình công trong vòng 1 tháng. Kiểu hình các bác sĩ đình công như thế này đã được nhân rộng gấp 5 lần trên toàn thế giới.
Con số tử vong bởi thuốc và các phương pháp điều trị ung thư hàng năm vượt ra ngoài con số tử vong bởi chiến tranh trong lịch sử nước Mỹ.
Theo lần ghi nhận gần đây nhất trong dữ liệu điều tra dân số Hoa Kỳ (2005), ung thư là 2 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Mỹ, chỉ trước các tác dụng phụ của thuốc một chút.
Tiền công nghiệp hóa và tỷ lệ ung thư ở thời điểm hiện tại: cứ 25 người thì có 1 người chết vì ung thư vào năm 1900. Hiện nay, cứ 4 người thì có 1 người chết vì ung thư, phần lớn các ca tử vong là do thuốc. 41% người mỹ sớm muộn gì cũng sẽ bị chẩn đoán là mắc bệnh ung thư. Hầu hết những người Mỹ đang vào giai đoạn tiền ung thư, đều được chẩn đoán là bị nhiễm toan.
Liệu pháp hóa trị và xạ trị được cho là phương pháp điều trị ung thư khoa học nhất. Tuy nhiên, những con số khoa học đó chẳng ăn khớp gì với nhau.
Tính trung bình, Liệu pháp hóa trị và xạ trị chỉ có hiệu quả 4-5% trong cả một quá trình phục hồi dai dẳng. 100% quá trình điều trị đều độc hại.
Cụm từ ‘điều trị thành công’ được các bác sĩ chuyên khoa ung thư và y văn định nghĩa, tức là không có các khối u (chẳng có tí dính dáng gì đến ung thư) trong vòng 5 năm, và họ tiếp tục đếm con số bệnh nhân ‘sống sót’, dù cho 6 năm sau là những người này có chết đi chăng nữa, những con số này tiếp tục được họ xào nấu thành tỷ lệ chữa bệnh của mình. Đây là một trong những cách mà khoa học điều chế cho ra đúng thuốc khớp với những con số của mình.
“ Những nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng, những bệnh nhận ung thư không điều trị sống lâu hơn gấp 4 lần những bệnh nhân điều trị. Đối với các loại ung thư điển hình, thì người từ chối điều trị có thể sống giao động trong vòng từ 12 đến nửa năm. Còn những ai chấp nhận phẫu thuật, hay các phương pháp trị liệu khác [ hóa trị, xạ trị, cobalt] chỉ có một mức trung bình là 3 năm.” -Tiến sĩ Hardin Jones, bộ môn sinh lý học, đại học California, Berkeley. Số ca trẻ em được chữa khỏi chứng Hodgkin thì cứ hơn 18 ca là có khả năng phát triển các hậu chứng thứ cấp của khối u ác tính. Các rũi ro về bệnh bạch cầu tăng đáng kể tử sau 4 năm phương pháp điều trị thành công kết thúc, và đạt sự ổn định sau 14 năm, nhưng nguy cơ tái phát triển các dạng u đặc vẫn giữ nguyên ở mức cao và đạt ở mức 30% trong vòng 30 năm. - Tạp chí y học New England
Ung thư bùng phát dạng thứ cấp bị gây ra bởi phương pháp điều trị chết người và kinh hoàng hơn nhiều so với loại ung thư ban đầu.
Tất cả những phương pháp điều trị hạt nhân và hóa trị được biết là căn nguyên gây ra và di căn ung thư. Những phương pháp vô lý này được gọi là “biết được mặt trái của hiệu quả”. Động thái sàng lọc để phân loại ung thư cũng cùng một kiểu với phương pháp điều trị, đưa ra càng nhiều trường hợp bệnh nhân nhiễm phóng xạ và các độc chất công nghiệp càng tốt. Đây là lý do mà con số mắc bệnh ung thư vú bùng phát cùng với sư gia tăng những thử nghiệm chụp nhũ ảnh.
Trường hợp tử vong do điều trị (tử vong do bác sĩ điều trị) đứng thứ 3 trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Mỹ trích từ thống kê riêng của các tổ chức y tế. Cái chết bởi thầy thuốc bình thường tới nỗi người ta đã gói gọn nó trong một từ ‘iatrogenic’-do thầy thuốc.
Các cô gái phải trải qua hóa và xạ trị phải đối diện với nguy cơ 35% nguy cơ mắc bệnh ung thư vú vào độ tuổi 40, 75% là điều này sẽ xảy ra cao hơn cái mức trung bình 35% kia. Bức xạ quang tuyến vú cũng sản sinh ra các loại ung thư, đặc biệt là ở vùng ngực.
“Một nghiên cứu với hơn 10.000 bệnh nhân cho thấy rõ ràng rằng chỉ định hóa trị mạnh cho chứng Hodgkin (u hạch bạch huyết) được ghi nhận trong hồ sơ bệnh án thực là trò lừa bịp. Những bệnh nhân trải qua hóa trị, có hơn 14% phát triển các bện bạch cầu và hơn 6% phát triển ung thư các cơ xương khớp gấp hiều lần những bệnh nhân không phải trải qua hóa trị liệu - Tiến sĩ-Bác Sĩ y khoa John Diamond
“chemo-brain” hóa trị gây suy giảm chức năng nhận thức của não, sử dụng loại liệu pháp hóa trị liên quan đến hệ thần kinh vĩnh viễn là một thách thức tinh thần to lớn cho bệnh nhân. Có vô số các loại thuốc mà bác sĩ có thể kê toa để bạn mua (nhằm duy trì nữa phần đời còn lại của bạn), để ‘điều trị’ và ‘quản lý’ tâm trí của bạn.
“Nếu một bệnh nhân bị u não đang được chỉ định điều trị bằng xạ trị hay hóa trị liệu pháp, chỉ có mỗi một câu hỏi duy nhất được đặt ra, “Làm cách nào mà khối u có thể hoạt động được?” Không một ai đặt câu hỏi đó với bệnh nhân. Trong quá trình đào tạo y khoa của mình, tôi đã nhớ rất rõ những bệnh nhân đang trải qua quá trình xạ trị hay hóa trị. Khối u sẽ càng ngày càng nhỏ, tình hình sức khỏe bệnh nhân sẽ càng ngày càng tệ hơn. Khi khám nghiệm tử thi các bác sĩ sẽ reo lên, ‘ Thật là thần kỳ! khối u đã biến mất! Vâng, đúng thế, nhưng làm ơn đi, đây là bệnh nhân.” - Tiến sĩ Philip Binzel
TIến sĩ Ewan Cameran, đã 2 lần đoạt giải Nobel, chiến thắng một nghiên cứu của Linus Pauling ở Scotland (mà nghiên cứu của Linus sau này đã được nhân rộng trên các nghiên cứu tại Canada và Nhật Bản), bằng so sánh giữa việc điều trị vitamin C với hóa trị liệu.
Đoán thử xem, nhóm bệnh nhân này sẽ sống dai hơn thời gian trung bình của các bệnh nhân ung thư là bao lâu? Và số bệnh nhân trong nhóm này là bao nhiêu?
Vitamin C giúp kéo dài tuổi thọ trung bình của các bệnh nhân ung thư lên gấp 6 lần, và đương nhiên cũng làm chất lượng đời sống của họ tốt hơn. Có một sự khác biệt so với thực tế là Vitamin C tăng cường hệ thống miễn dịch, thay vì làm suy yếu nó hơn như hóa trị đã làm.
“Là một nhà hóa học được đào tạo để giải thích dữ liệu, thông tin này khiến tôi khó mà chấp nhận rằng các bác sĩ đã bác bỏ bằng chứng rõ ràng rằng càng hóa trị bao nhiêu, càng hại nhiều hơn là lợi.” -- TIến sĩ Alan Nixon, cựu chủ tịch của hiệp hội hóa học Hoa Kỳ.
Hóa trị liệu cho ung thư da ( ung thư da còn được biết như “viêm da do bức xạ”) “Những người [mắc ung thư hạch bạch huyết] còn sống sót thường là 11% trên tổng các số ca tử vong, mặc dù con số này đã giảm trong những năm qua, nó vẫn còn cao gấp 3 lần dự kiến con số chẩn đoán ban đầu của họ trong vòng 45 năm trở lại đây.” - Reuters New Service
Bệnh nhân ung thư đều có nguy cơ tử vong do nhiễm trùng máu bất kỳ lúc nào, điều đó là hiển nhiên vì hóa trị liệu đã phá hủy hoàn toàn hệ thống miễn dịch của bệnh nhân, và do đó vi khuẩn đã từ đó dễ dàng xâm nhập và giết chết bệnh nhân. Thông thường thì những trường hợp như thế này lại được tính là “tử vong do nhiễm trùng máu” thay vì là tử vong do ung thư. Đó là một phương cách khác để hội đồng y tế thao túng các số liệu thống kê về sự an toàn và hiệu quả của hóa trị và xạ trị liệu pháp.
Sự biện minh tương tự cũng được áp dụng thành những ca tử vong do viêm phổi, loạn nhịp tim, và tiểu đường để thay cho nguyên nhân thực sự được gây ra bởi các tia phóng xạ và thuốc chống ung thư.
Ngành công nghiệp hóa dầu và ngành y tế công cộng đã cùng hợp tác với nhau để trở thành cơ quan ngôn luận của chính phủ, ra sức thuyết phục chúng ta rằng ánh sáng mặt trời là một loại tiền tố ung thư.
Ánh sáng mặt trời sản sinh ra vitamin D nhờ có cholesterol có trong da, nó bỏ bớt sự dư thừa cholesterol. Quan trọng hơn nữa là vitamin D (được tạo ra từ ánh sáng mặt trời) làm giàm đi 70% các bệnh ung thư, trong đó có cả ung thư da.
Người ta có tỷ lệ hấp thụ ánh nắng mặt trời cao hơn khi họ sử dụng kem chống nắng. Đôi khi các thành phần trong kem chống nắng còn tự sinh ra các đồng phân có độc tính, gây ung thư khi có xúc tác ánh sáng. Nếu không, chúng sẽ bao gồm những thành phần có khả năng tích tụ gây ung thư như Oxide Kẽm, Titan Dioxide, và nhôm hydroxide.
Các công ty hóa chất đã tạo ra vấn đề, để họ có thể kinh doanh trên chúng ta bằng giải pháp của riêng họ. Các giải pháp phòng tránh mà họ nói chỉ đơn giản là không để lộ ra thứ chất độc mà họ đang kinh doanh.Tiếng nói của họ vô cùng mạnh mẽ trên các kênh truyền thông đại chúng, cho nên họ mặc nhiên có thể đổ lỗi những bệnh tật đã gây ra cho chúng ta là do mặt trời. Chứng thiếu hụt vitamin D rất là phổ biến hiện nay, chứng minh rằng mọi người đã không nhận được đủ ánh sáng mặt trời.
Chỉ có ung thư da là trở thành vấn đề lớn vào giữa thế kỷ 20, sau khi kem chống nắng ra đời, cũng như cái cách mà ung thư vú bùng phát khi phương pháp chụp nhũ ảnh ra đời. Nuôi con bằng sữa mẹ chẳng hạn, đâu phải chỉ có mỗi chụp quang tuyến vú là cách chắn chắn nhất để phòng ngừa ung thư. Trong khi thực tế, ung thư chỉ được biết như là “căn bệnh của nữ tu”.
Điều đó ước tính rằng chỉ có 10-20% các chẩn đoán và điều trị lâm sàng là được chứng minh rằng nó có hiệu quả bằng những thử nghiệm đã được kiểm soát.
- Văn phòng của chương trình đánh giá và báo cáo về công nghệ y tế lên hội đồng thượng nghị viện Mỹ, năm 1978.
Thời gian trung bình đã dự kiến để chữa bệnh thường được kéo dài thêm 4% trên tổng số quá trình (đó là chưa tính trong vòng 5 năm trở lại đây họ đã dung những tinh đồn để gian lận các thông số chữa trị) Vì vậy, với lượng độc tố trong các “phương pháp điều trị quy chuẩn”, thì có khoảng 96% khả năng là phương pháp điều trị sẽ giết bạn, nhiều hơn là căn bệnh ung thư sẽ giết chết bạn.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét