“Ngày 27-1-2013 sắp đến sẽ đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp Định Paris 1973, một biến cố lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam vì những hậu quả của nó áp đặt trên mảnh đất này trong gần bốn thập niên cho tới ngày nay,” ông Nguyễn Quốc Khải viết vào ngày 17/12 vừa qua cho RFA trong một bài mang tên “Sự thật phũ phàng về Hiệp định Paris 1973.”
Việc Ban Việt ngữ Đài ACTD cho đăng bài này để chuẩn bị đánh dấu kỷ niệm 40 năm Hiệp định Hoà bình Paris 1973 là một điều đáng khen bởi trong quá khứ, đã có những lần Ban Việt ngữ quên không có bài đánh dấu những mốc lớn trong lịch sử đất nước. Như Hội-nghị Genève chia đôi đất nước (1954) hay thậm chí cả Hội nghị Hoà bình Paris 1973 (tên chính thức của Hiệp-định kết thúc hội nghị này là “Paris PEACE Accords of 1973”). Trong khi đó, chúng ta có cách xa Đài không tới một tiếng đồng hồ những nhân chứng như Ông Bùi Diễm, một nhà ngoại giao lão thành của Việt Nam, người đã có dự cả Hội nghị Genève 1954 lẫn Hoà đàm Ba lê năm 1968-1973, chưa kể đến những nhân chứng người Mỹ nữa.
Bài viết của ông Nguyễn Quốc Khải, như vậy, tôi mong chỉ là một bài viết đầu tiên về vấn đề này. Rất mong là Ban Việt ngữ cố gắng đi tìm hiểu sự thật qua những nhân chứng lịch sử có thật thay vì chỉ đi dựa vào một vài học giả mà chưa chắc đã nắm hết sự thật.
Những sai sót có thể trông thấy ngay trong bài của Ông Khải
Có lẽ vì viết vội nên bài của Ông Khải đã có một số sai sót rất dễ nhìn ra.
Thứ nhất, khi nói về Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước, ông mở ngoặc và ghi “mà chính VNCH đã xé bỏ,” tôi thấy thật là tội nghiệp cho Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ lúc bấy giờ đại diện cho chính phủ “Quốc gia Việt-nam.”
Ngày 21/7/1954, ngay sau khi chính phủ Pháp của Thủ tướng Pierre Mendès-France thoả thuận được về nội dung của Hiệp định sau 12 giờ đêm ngày 20/7 (tức sang sáng sớm ngày 21/7), cả nước Mỹ qua lời tuyên bố của trưởng phái đoàn, tướng Bedell Smith, và Quốc gia Việt Nam qua lời tuyên bố của Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã tố cáo (“denounced”) sự chia đôi đất nước và không ký vào hiệp định “đình chiến” giữa Pháp và Việt Minh. Vậy thì làm sao có thể nói khơi khơi là “mà chính VNCH đã xé bỏ”?
Rồi cũng trong cùng một cảm-hứng, ông Nguyễn Quốc Khải viết:
“Vào buổi trưa ngày 29-4-1973, Đài Phát Thanh Saigon truyền đi bản nhạc “I’m Dreaming of a White Christmas” qua dọng ca của Bing Crosby, báo hiệu cuộc di tản cuối cùng của Hoa Kỳ bắt đầu.”
Đây là một sự bịa đặt hoàn-toàn. Trước hết, ngày tháng của ông Khải sai: Ông cho chuyện này xảy ra hai năm trước khi mất miền Nam. Thứ nữa, Đài Phát Thanh Saigon, cho đến tận hôm nay (tức năm 2012, 37 năm sau), cũng chưa hề cho chơi bài “I’m Dreaming of a White Christmas” qua giọng (không phải “dọng”) hát Bing Crosby. Vậy thì ta thấy bài viết của ông Khải đáng tin đến đâu?
Đó là chưa kể đến những lỗi chính-tả không ít trong bài của ông Khải. Tỷ như “xác suất” (dịch chữ “probability”) mà ông Khải viết thành “sắc xuất,” thật là khó hiểu.
Tôi có thể lôi ra thêm những lỗi sơ đẳng khác nữa, nhưng đó không phải là mục đích bài viết của tôi.
Về phương pháp sử học
Về phương pháp sử học
Khi viết sử, người ta phải biết dựa vào những dữ kiện có thật, không thể chỉ dựa vào cảm quan của mình. Bài của ông Khải, trái lại, thì đầy cảm quan. Như cách ông dịch chữ “decent interval” của Mỹ thành “khoảng cách chạy tội.”
Có thể dịch như ông nếu ta nghĩ, như tác giả Nguyễn Tiến Hưng, là “đồng-minh” Mỹ có ý “tháo chạy” ngay từ đầu. Đằng này, nếu ta nghiên cứu kỹ hai con người then chốt về phía Mỹ trong cuộc thảm bại ở Việt Nam, ta sẽ thấy hai người đó rất khác nhau. Ông Kissinger là một người Đức gốc Do thái, rất lo về an ninh vùng Trung đông, trong đó có nước Do thái, nên động cơ của ông là phải mau mau chấm dứt chiến tranh VN để còn đổ dồn chiến phí ở VN sang ủng hộ cho Do thái lúc bấy giờ đang lâm nguy (nhất là sau khi OPEC, tổ chức các quốc gia sản-xuất dầu lửa, thân các nước Ả-rập, quyết định tăng giá dầu lên gấp đôi vào tháng 10/1972 để làm khó Mỹ và Do-thái).
Trái lại, ông Nixon là tổng thống Mỹ. Ông không gốc Do thái nên cũng không có những động cơ tương tự như của ông Kissinger. Nếu đọc kỹ hồi ký của ông Nixon thì ta có thể tin rằng, tuy ông hiển nhiên rồi quan tâm đến vận mệnh chính trị của ông, ông cũng không có nhu cầu phải ở thêm một nhiệm kỳ nữa vì đến năm 1973, ông đã được bầu lại vào nhiệm kỳ 2 tức nhiệm kỳ cuối của ông rồi. Vì vậy nên ông có thể thành thật tin tưởng rằng “Việt-Nam-hoá” (“Vietnamization”) là con đường có thể cứu vãn được miền Nam. Hay ít nhất cũng mua được thời gian cho miền Nam đứng vững để có thể có dược một thời cơ khác.
Chính-sách của ông Nixon rất là bài bản. Để ra tranh cử với ông Hubert Humphrey sau khi Tổng-thống Lyndon B. Johnson khước từ, không nhận ra ứng cử cho nhiệm kỳ 1969-1973 để toàn tâm lo chuyện chấm dứt chiến-tranh VN, ông Nixon đã hứa là sẽ có kế hoạch để chấm dứt cuộc chiến ấy (hiểu là chấm dứt sự tham chiến của quân đội Mỹ ở chiến-trường VN, nghĩa là sẽ hết thương vong Mỹ tuy vẫn có thể ủng-hộ, yểm trợ miền Nam trong nhiều nghĩa). Có hiểu thế ta mới hiểu được chính sách của Mỹ (tức của ông Nixon) sau khi ông lên làm Tổng thống vào tháng 1/1969. Ông lập tức đưa ra chính sách “Việt-nam-hoá chiến-tranh ,” nghĩa là không đợi kết-quả của hoà đàm Paris mà tiến hành ngay với các vụ rút quân (= giữ lời hứa với cử-tri và dân-chúng Mỹ). Sau vụ gặp gỡ với ông Thiệu và ông Kỳ ở Midway, ông cho tăng cường quân viện cho VNCH. Ông khuyến khích Tổng thống Thiệu tiến hành với chương trình kinh tế và xã hội “Người Cày Có Ruộng.” Sau khi Quân lực VNCH tung quân sang Cao miên (1970) như vũ như bão, đánh bật hết các mật khu của CS ở bên đó, và với chiến dịch Phụng Hoàng ở nông thôn thành công lớn, ông đồng ý để cho Quân lực VNCH sang lâm trận ở Hạ Lào (tháng 2/1971). Tuy trận Hạ Lào đã không mang lại được kết quả mong muốn, ta cũng khám phá được ra sức mạnh của đối phương, nhất là về hoả lực phòng không và lực lượng chiến xa của họ. Nhờ vậy mà cuộc đọ sức sau đó, tuy Hà nội dốc hết lực lượng vào Nam trong mùa Hè đỏ lửa (tháng 4 đến tháng 9/1972) , Quân-lực VNCH đã can trường đánh bật được ra toàn-quân của họ ở ba địa-điểm tập-chú: Kontum, An Lộc (một trận đánh đã được gọi là Stalingrad của VN) và sau một thời gian lấy lại được Cổ thành Quảng trị (Quân sử Hà nội sau này đã phải gian lận và cho rằng Quân đội Nhân dân miền Bắc đã đánh chiếm lại được Cổ thành Quảng trị sau tháng 9 năm đó, trong khi chính Võ Nguyên Giáp đã cho là Lê Duẩn “ngu xuẩn” khi ra lệnh chiếm lại Cổ thành bằng mọi giá để cho quân chết như rạ, mất khoảng 1 đại đội mỗi đêm trong gần hai tháng trời).
Dựa vào những kết quả và chiến tích như vậy nên Mỹ mới dồn quân viện cho VNCH trong năm sau đó, chắc chắn là không phải với dụng ý là để sau này cúng (8 tỷ đô-la quân dụng) cho quân Bắc Việt. VNCH thua không phải vì Mỹ muốn phản bội, mà vì ông Nixon bị bó tay, do Quốc-hội Mỹ bó tay chính quyền của ông với luật “War Powers Act,” rồi cắt viện-trợ cho VNCH (như chính ông Khải cũng đã ghi lại: từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1973 [xuống] 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài khóa 1975).
Trong khi đó thì quân viện của Liên Xô và Trung Cộng cho Hà Nội thì tăng lên ngược chiều. Rồi ông bị mắc vào vụ Watergate, một chuyện hoàn toàn không may đối với VNCH (VNCH không có lỗi gì trong vụ này) vì nó buộc ông Nixon phải từ chức. Hiển nhiên, tới đó rồi thì bao nhiêu lời hứa hẹn của ông với ông Thiệu trở thành nước đổ xuống sông xuống biển.
Hiển nhiên, ông Thiệu cũng có lỗi trong một số quyết định vào những ngày chót của miền Nam. Mỹ thua ở Việt nam song cũng có người cho rằng vì Mỹ thua ở VN mà bộ mặt thật của Cộng sản mới lộ ra: chỉ trong một thời-gian rất ngắn, VNCS phải đương đầu với hai trận chiến với những đồng-minh của ngày hôm qua (Pol Pot và Trung-Cộng) để những vấn đề đó có vang vọng cho đến tận ngày hôm nay. Chưa kể là sau VN thì cũng cả khối CS Đông Âu và Liên Xô cũng sụp đổ theo.
Để kết
Rõ ràng là ông Nguyễn Quốc Khải đã không tôn trọng đến những nguyên tắc căn bản nhất của việc viết sử. Chưa kể ông còn lợi dụng một đề tài quan trọng của lịch sử VN để lái sang đả -kích cá-nhân tôi. Ông có thể không đồng ý với tôi (hay người khác) nhưng dùng những chữ nặng lời như “ý tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là hoang tưởng nếu không muốn nói là bệnh hoạn” thì thật là không nên. Vì sao?
Vì trước nhất, ông giải thích sai hết cả về “giải-pháp VNCH” mà chúng tôi đã có dịp lên trình bầy ở trên Quốc hội Hoa kỳ từ tháng 6 năm 2010. Bài của chúng tôi viết về cuộc vận động này sau đó đã được nhiều báo đăng lại (trong đó có Website Việt Vùng Vịnh là chỗ dễ truy cập bài của tôi nhất, “Người Việt hải-ngoại và vấn-đề Biển Đông: Chúng ta đã góp được gì cho một giải-pháp?”). Sau đó, Khối 8406 trong nước cũng đã xin phép để đăng lại bài này trong phần tài-liệu của Khối. Cuối cùng, đến tạp chí “Quan hệ quốc tế hiện đại” của Trung quốc, số ra tháng 6/2011 cũng phải nhắc đến giải pháp này (Xem bài “Vận động chính trị của người Việt ở Mỹ và ảnh hưởng đối với tranh chấp Biển Đông”). Thiết tưởng ngần ấy chỗ, từ Quốc hội Hoa kỳ (kể cả Uỷ ban Ngoại giao Thượng viện) đến tình báo Trung Cộng, không ai xem đó là chuyện không tưởng cả thì ông Nguyễn Quốc Khải dựa vào đâu mà có thể xem đó là “hoang tưởng” hay “bệnh hoạn”?
Ta hãy cứ nghe ông Nguyễn Quốc Khải giải thích về Hiệp định Hoà bình Paris 1973. Ông viết: “Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam, UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh cử với Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (chính thức bị giải tán vào ngày 25-4-1976). Nhưng trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán ngoại trừ 150,000 quân CSBV được Ông Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho phép ở lại miền Nam từ 1973 đến nay.” Chỉ trong một đoạn này là đã có hai ba chỗ sai căn-bản:
“Hiệp định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam,” đúng. Vậy Hà nội đã bao giờ để cho dân chúng miền Nam có tổng tuyển cử tự do ở miền Nam chưa?
Còn chuyện “Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam chính thức bị giải tán vào ngày 25-4-1976” bởi bàn tay của Hà Nội thì tại sao chuyện đó lại có thể là trách-nhiệm của VNCH được? Họ giết người của họ thì tội tình gì đến Hiệp-định Paris?
Vả lại, “giải-pháp VNCH” chủ-yếu dựa vào Điều 7b của Định-ước Quốc-tế về Hiệp-định Hoà-bình Paris” (“International Act on the Paris Peace Agreement”) trong khi bài của ông Khải không nhắc gì đến hiệp-ước quốc-tế có 12 quốc gia ký vào với sự chứng-kiến của ông Tổng-thư-ký Liên-hiệp-quốc hồi đó (tháng 3/1973). Vậy thì ta có thể coi bài của ông Nguyễn Quốc Khải là nghiêm chỉnh được không?
Đó là chưa kể ông Khải dựng đứng: “Nhưng trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán.” Cần gì? Chỉ cần họ chứng minh được là trước năm 1975, chính họ hay cha mẹ họ đã có ở miền Nam là họ đủ điều kiện được đi bầu. Chứ 150.000 bộ-đội miền Bắc cũng không có lý do gì được xem là cử tri của miền Nam. Vì sao? Rất dễ hiểu, vì họ đã sẵn là cử tri của các địa phương ở miền Bắc.
© Nguyễn Ngọc Bích
© Đàn Chim Việt
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
- Khoảng cách chạy tội – Sự thật phũ phàng về Hiệp Định Paris 1973
- Đòn dằn mặt sự thật và những ai có ý định công bố sự thật-
- Lược lại 39 năm Hiệp định Hòa Bình Paris dưới mắt người Mỹ
- Hiệp định Paris 1973
- Tranh chấp biển Đông, một sự thật phũ phàng
- Hiệp Định Paris, một bản án tử hình?
“Hiệp Định Geneva 1954 là một hiệp định đình chiến quân sự. Do đó chỉ có hai phe quân sự ký (Thiếu Tướng Henri Delteil của Pháp và Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu của Bắc Việt). QGVN không ký và cũng không được phép ký dù muốn trong thời điểm đó, vào Hiệp Định Geneva 1954. Nhưng QGVN vẫn bị buộc phải tuân theo hiệp định này, kể cả việc rút quân và tổ chức cho dân di cư vào nam vĩ tuyến 17, ngoại trừ sau này từ chối cuộc tổng tuyển cử 1956. Sự thật là sợ thua nên Ông Ngô Đình Diệm đã không bằng lòng cuộc tổng tuyển cử. Miền Nam không ký nhưng tuân theo điều kiện của Hiệp Định Geneva 1954 trong 2 năm đầu. Nghĩa là trong giai đoạn này miền Nam chưa xé Hiệp Định Geneva. Đến năm thứ ba không đồng ý tổng tuyển cử, lúc đó miền Nam mới xé rào. Xé hiệp định hay xé rào hậu quả chỉ là một. Vấn đề đặt ra là tại sao không trở lại những hiệp định trước đó mà chỉ muốn phục hồi Hiệp Định Paris 1973. ”
Không những QGVN & VNCH không ký vào hiệp định Giơ ne vơ 1954, mà bản thân Hiệp dịnh Giơ ne vơ 1954 cũng không có diều khoản nào buộc QGVN & VNCH phải tiến hành tổng tuyển cử.
“xé bỏ & xé rào & vi phạm hiệp định” chính là nhà cầm quyền cộng sản VNDCCH & Hồ chí Minh của ông Nguyễn Quốc khải.
Với một hợp đồng, dù là hợp đồng gì chăng nữa, mà một bên vi phạm, thì bên còn lại có toàn quyền bất tuân hợp đồng & có toàn quyền xé bỏ hợp đồng mà không bị một chê trách nào.
Như ông KQN đã nói ở trên, mãi 2 năm sau, sau biết bao hành động của bọn cộng sản VNDCCH & Hồ chí Minh & nhà cầm quyền cộng sản VDCCH ở miền bắc, ngay từ 1954, vi pham hiệp định, xé bỏ hiẹp định, lúc ấy, 1956, VNCH mới không khe đến bản hiệp định đã bị cộng sản xé bỏ”, mà ông vẫn còn kết án VNCH & ổng thống Ngô Đình Diệm là “xé bỏ” hệp định đụơc sao?
Cái đầu, cái óc, sự phán đoán khách quan công bằng kiểu gì vẩy
Nhưng vì đâu mà có cái “hiệp định giơ ne vơ 1954″ để mà ông NGuyễn Quốc khải lên tiếng vu cáo VNCH “vi phạm hiệp định”?
Trước khi mở mồm vu cáo kết án VNCH năm 1956 “vi phạm hiệp định & chia cắt VN” hãy két án bọn cộng sản VNDCCH & Hồ chí Minh đã đang tay chia cắt VN ngay từ 1954
Ông NQK nói ông không viết sử, “Tôi không phải là một sử gia mà chỉ muốn bình luận về một biến cố lịch sử”
À mà này, ông KQN có quen biết gì với cái nick “kami” không?
‘Tại liên khu V (đèo Hải Vân đến Bình Thuận) và tại các vùng tự do ở Nam bộ, các nơi tập kết từ 80 đến 300 ngày, Đảng gây ra phong trào dân địa phương gả con gái cho bộ đội càng nhiều cuộc hôn nhân càng tốt, để các gia đình và các cô vợ mới cưới nhớ đến những anh chồng bộ đội và khi cần có thể nhờ các gia đình này tiếp tế hay làm nơi liên lạc. Tại Nam bộ, Đảng sắp xếp và tổ chức được nhiều đám cưới tập thể nữa…..
….. Còn cao cấp như Lê Duẩn- bí thư xứ ủy- giả vờ xuống tàu đi tập kết, nhưng ban đêm xuống xuồng đi vào bờ trở lại. Đảng mai phục và chuẩn bị cho trận chiến sắp đến’.
- Việt Nam chia làm hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải (Tỉnh Quảng Trị). Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía Bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía Nam.
- Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên,
để làm ‘’khu đệm’’, có hiệu lực từ ngày 14.8.1954.
- Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày Hiệp Định có
hiệu lực.
- Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27.7 ở Bắc Việt, 1.8 ở Trung
Việt và 11.8 ở Nam Việt.
- Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành
chánh riêng.
- Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu
thuộc phía bên kia.
Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam chỉ là một Hiệp Định có tính cách
thuần túy quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Panmunjon (Bàn Môn
Điếm) ngày 27.7.1953, Hiệp Định đình chiến Genève không phải là một hòa ước, và
không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
họp tiếp ngày 21.7.1954 và ‘’thông qua’’ bản ‘’Tuyên Bố Cuối Cùng Của Hội Nghị
Genève 1954 Về Vấn Đề Lập Lại Hòa Bình Ở Đông Dương’’. Đây chỉ là lời tuyên bố
(Déclaration) của bảy phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam, và đặc
biệt không có phái đoàn nào ký tên vào Bản Tuyên Bố nầy, nghĩa là Bản Tuyên Bố
không có chữ ký.
Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (Ngoại Trưởng Anh) hỏi từng phái
đoàn, thì 7 phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng ‘’đồng
ý’’. Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không đồng ý, và tự đưa
ra tuyên bố riêng của mình.
Bản ‘’Tuyên Bố Cuối Cùng Của Hội Nghị Genève 1954 Về Vấn Đề Lập Lại Hòa Bình Ở Đông Dương’’
gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7. Điều nầy ghi rằng:
‘’Hội Nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị
thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm
bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau Tổng Tuyển Cử tự do và bỏ phiếu kín. Để
cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể
tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ tổ chức vào tháng 7.1956 dưới sự
kiểm soát của một Ban Quốc Tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám
Sát và Kiểm Soát Quốc Tế đã nói trong Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự. Kể từ ngày
20.7.1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc
6 gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó’’. (Bản dịch của Thế Nguyên, Diễm Châu,
Đoàn Tường)
Điều 7 của Bản Tuyên Bố được xem là dự kiến về một giải pháp chính trị
trong tương lai, theo đó một cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ có thể được tổ chức để thống
nhất đất nước, mà sau nầy Bắc Việt dựa vào điều nầy để đòi hỏi Nam Việt tổ chức
Tổng Tuyển Cử trên toàn quốc.
Bắc Việt thường nói và viết rằng việc tổ chức Tổng Tuyển Cử giữa hai miền
Bắc và Nam Việt Nam là theo quyết định của Hiệp Định Genève. Thật ra Hiệp Định
Genève chỉ là một Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự (đình chiến) mà không đưa ra một
giải pháp chính trị nào. Giải pháp chính trị về một cuộc Tổng Tuyển Cử giữa hai
miền Bắc và Nam Việt Nam dự tính tổ chức vào năm 1956 nằm trong điều 7 của bàn
‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
Dương’’.
Trong Bản Tuyên Bố riêng của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, Bác Sĩ Trần
Văn Đỗ, Trưởng Phái Đoàn, giải thích vì sao phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký
kết Hiệp Định Genève. Sau khi phản đối việc chia cắt đất nước và việc đại diện quân
đội Pháp tự ý ký kết Hiệp Định mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi của quân đội
Quốc Gia và nhân dân Việt Nam, Bản Tuyên Bố của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam
viết:
‘’Vì thế cho nên chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận một cách
chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp Định cùng những
điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam
yêu cầu Hội Nghị ghi nhận rằng chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do
hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực
hiện Thống Nhất, Độc Lập, và Tự Do cho xứ sở’’.
Vì phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký vào Bản Hiệp Định đình chỉ chiến
sự ở Việt Nam (Hiệp Định Genève) và nhất là không tham dự vào bản ‘’Tuyên bố
cuối cùng’’, nên chính phủ Quốc Gia Việt Nam tự cho rằng không bị ràng buộc vào
điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy.
Hơn nữa, đây là một Bản Tuyên Bố chứ không phải là một bản hiệp ước. Môt
Bản Tuyên Bố lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nước nào, kể các các chính
phủ liên hệ đến cuộc chiến ở Đông Dương, có được xem là một văn kiện có giá trị
pháp lý để thi hành hay không ?
Vì những lý do căn bản nầy, bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève
1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’, trong đó đặc biệt điều 7 của Bản
Tuyên Bố nầy về dự kiến một cuộc Tổng Tuyển Cử trong năm 1956, không có tính
cách pháp lý để bắt buộc bất cứ nước nào thi hành.
Đồng, Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức Bắc Việt gởi thư ngày
19.7.1955 cho Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam tức Nam Việt là Ngô Đình Diệm, yêu
cầu mở Hội Nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20.7.1955, để bàn về việc Tổng
Tuyển Cử thống nhất đất nước theo quy định của Hiệp Định Genève.