Thụy Khuê
Đời chữ của Lê Đạt chia hai thời kỳ, dưới hai ngòi bút: Nhà thơ cách tân, theo truyền thống Mallarmé, mở một kỷ nguyên mới cho đường chữ. Nhà thơ thời thế, theo truyền thống Đỗ Phủ, ghi lại bộ mặt của xã hội toàn trị trên đất nước Việt Nam, xác định tính chất cơ bản của lịch sử :
Trong ba người bạn thân cùng hoạt động NVGP, Trần Dần viết nhật ký, Hoàng Cầm thuật lại dĩ vãng trong các bài ký, hồi ký. Duy có Lê Đạt là không có tiểu sử rõ ràng. Tại sao? Một phần, dường như ông không coi tiểu sử nhà văn là vấn đề quan trọng, nhưng có lẽ còn một lý do nữa, vì tiểu sử của ông, nếu viết rõ ra, chỉ "có hại" cho gia đình. Ông không muốn các con biết về hoạt động của cha để đỡ bị liên lụy. Đào Phương Liên, con gái ông, hỏi: Bố là ai? Các con không biết cha đã từng làm thơ, vì trong nhà "không có một quyển truyện một quyển thơ nào".
Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt, sinh ngày 10/09/1929 tại xã Âu Lâu, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội. Cha là Đào Công Đệ (mất năm 1975), quê phường Á Lữ, xã Mỹ lộc, Phủ Lạng Giang (Bắc Giang), làm việc trong sở hoả xa Vân Nam tại Yên Bái, gặp mẹ ông là Nguyễn Thị Sen (mất năm 1982), người làng Đình Bảng, Bắc Ninh, theo gia đình lên Yên Bái buôn bán. Lê Đạt học tiểu học ở Yên Bái, năm 1941, 12 tuổi lên Hà Nội, học trường Bưởi. Kháng chiến bùng nổ, trở về quê cha, tiếp tục trung học tại Á Lữ. Rồi đi theo kháng chiến. Về thời kỳ này, Lê Đạt chỉ ghi vài hàng sơ lược:
"Năm 45 khi cách mạng tháng 8 bùng nổ, tôi theo cách mạng, rồi đi kháng chiến, chủ yếu hoạt động trong ngành tuyên huấn. Năm 49, tôi về công tác tại ban tuyên huấn của TU đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm 1952, tôi chuyển hẳn về Hội văn nghệ TU và bắt đầu cuộc đời sáng tác của nhà văn chuyên nghiệp" (trích tiểu sử viết tay, Đường Chữ, nxb Hội Nhà Văn, 2009).
Trong Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi ghi:"Đầu kháng chiến, học tiếp trung học ở vùng kháng chiến rồi về công tác tại Ban tuyên huấn tỉnh Vĩnh phúc và tiếp tục theo học trường đại học Pháp lý cho đến khi trường giải thể. 1949, chuyển lên ban Tuyên Huấn trung ương đảng lao động VN. 1952 về Hội văn nghệ. Sau 1954, về Hà Nội, tiếp tục công tác ở Hội văn nghệ".
Nhưng Hoàng Cầm cho biết: Năm 1948, [mười chín tuổi] Lê Đạt đã là bí thư văn nghệ của Trường Chinh. Điều này dường như Lê Đạt không muốn nhắc đến.
Hoàng Cầm viết: "Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn nghệ làm trợ lý cho ông Tố Hữu." (Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi trong tôi - Nguyễn Đình Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas).
Nhưng trong bản "thú tội" của Lê Đạt, lại có câu: "Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh tụ" (Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80).
Như vậy, chúng ta có thể tạm sắp xếp lại tiểu sử của Lê Đạt, giai đoạn kháng chiến như sau:
Năm 1945, 16 tuổi, học trường Bưởi, Lê Đạt chưa theo Việt Minh, lúc đó ông đang chịu ảnh hưởng Tự Lực văn đoàn, như phần đông các thanh niên "tiểu tư sản" thời ấy, mẫu người cách mạng lý tưởng đương nhiên là Dũng (trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn) của Nhất Linh, dù ở Hà Nội hay Yên Bái, tâm cảm của họ còn rất lãng mạn :
Yên Bái/ dăm cô gái / lỡ thì / thổn thức / Nhất Linh / tay / Loan Dũng / lên ô kính bụi
Sau này, Lê Đạt hết sức chống lại cái lãng mạn của Tự Lực văn đoàn, có lẽ cũng chỉ là một cách sống lại những "lỗi lầm của tuổi trẻ".
Lê Đạt theo Quốc dân đảng trong bao lâu? Có thể từ 1945 đến 1948 (16 đến 19 tuổi), rồi được "giác ngộ" theo Việt Minh. Nhờ tài năng, người thanh niên này được đưa vào Tuyên Huấn Trung Ương, làm bí thư của Trường Chinh. Tiểu sử chính thức của Lê Đạt bắt đầu từ 1948.
Vẫn theo Hoàng Cầm, năm 1949, khi Tố Hữu phụ trách toàn bộ văn nghệ kháng chiến, Trường Chinh cử Lê Đạt làm trợ lý cho Tố Hữu. Sự bổ nhiệm này cho thấy: lãnh đạo đã nhìn thấy ở Lê Đạt khả năng chiến lược và chính trị cao hơn Tố Hữu.
Ngoài ra, những dữ kiện trên đây còn giải thích:
- Tại sao Lê Đạt thấy mình "vững" hơn Nguyễn Hữu Đang trong việc tổ chức báo Nhân Văn.
- Việc ông thân thiết, kính trọng Thụy An và Phan Khôi, bởi cả ba đều đã từng hoạt động cho Việt Nam Quốc Dân Đảng.
- Và sự tranh đấu của Lê Đạt, khác với các bạn văn nghệ sĩ, thể hiện trên hai mặt : Về chính trị, chống chính sách đảng trị, đòi hỏi tự do dân chủ và về văn nghệ, chủ trương đổi mới thơ ca.
Sự nghiệp đổi mới thi ca
Lê Đạt thất bại trong đấu tranh chính trị, nhưng ông đã thành công trong việc đổi mới thi ca. Sau hơn 30 năm cấm in, Lê Đạt được "phục hồi" năm 1988. Tập Bóng chữ (nxb Hội nhà văn, 1994), tác phẩm đầu tiên xác định ông như một nhà thơ lớn, cùng với Thanh Tâm Tuyền, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, đã xây dựng nên nền thơ Việt nam hiện đại.
Tiếp đến những tập Hèn đại nhân, (truyện ngắn, nxb Phụ nữ, 1994), Ngó lời (thơ, nxb Văn Học, 1997), Từ tình Epphen (Tạp chí thơ, Cali, 1998). Mi là người bình thường, (truyện ngắn, nxb Phụ nữ, 2007), U75 từ tình (thơ và đoản ngôn, nxb Phụ nữ, 2007); và sau khi ông mất, Đường chữ (tuyển tập, nxb Hội Nhà Văn, Bách Việt 2009).
Chủ trương đổi mới thi ca của Lê Đạt bắt đầu từ năm nào ? Nguyễn Huệ Chi viết trong Từ điển văn học "Bài thơ đầu tiên in trên Văn Nghệ năm 1951", nhưng đó chỉ là bài thơ đầu tiên được in ra, còn thực sự Lê Đạt đã làm thơ từ trước, từ nhiều năm trước và tập Tình mẹ (Đường chữ, phần di cảo) đã chứng minh điều đó.
Trong một đoạn hồi ký, Hoàng Cầm viết:
"Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn nghệ làm trợ lý cho ông Tố Hữu. Vốn là một anh sinh viên rất trẻ, rất sôi nổi, vừa đặt chân đến Hội, Lê Đạt đã làm thân với các bậc cha chú như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Xuân Khoát. (...) Lê Đạt khởi xướng ra cuộc tranh luận về một đề tài mới mẻ và có vẻ hấp dẫn lắm: Vấn đề thơ không vần của Nguyễn Đình Thi (...) Anh Nhị Ca sôi nổi cho tôi biết về cuộc tranh luận thơ không vần từ tháng trước, giọng Nhị Ca rất vui, anh nói:
- Tiếc quá! Cậu không dự hôm ấy, giá có cậu thì có lẽ cũng góp được nhiều ý kiến bênh vực cho cái gọi là thơ không vần. Đằng này chỉ có tớ với Lê Đạt thêm một thằng Lưu Quang Thuận. Và anh Bửu Tiến. Cũng may có thêm bác Phan Khôi. Ông già này lại bênh rất hùng hồn, mày ạ. Còn một tá những ông già khác không chịu nói gì, hoặc có nói lại về hùa với ông Lành. Anh Thi đâm ra yếu thế, sau cứ đành giơ sườn ra cho các ông ấy thụi. Thành thử, cái loại thơ tự do không vần bị ăn một trận đòn đếch cãi vào đâu được." (Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi trong tôi - Nguyễn Đình Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas)
Như vậy, theo Hoàng Cầm, Lê Đạt đã xướng lên cuộc tranh luận về thơ không vần từ năm 1949 và Lê Đạt cùng với Lưu Quang Thuận, Bửu Tiến, Phan Khôi, ủng hộ thơ Nguyễn Đình Thi. Người đánh Nguyễn Đình Thi là Tố Hữu (ông Lành).
Lê Đạt cũng nói: "Thời kháng chiến, tôi và Nguyễn Đình Thi mới đầu chịu ảnh hưởng Eluard và tôi cũng làm thơ không vần như anh Thi. Tôi trọ ở nhà Eluard không lâu. Một thời gian dài tôi và Trần Dần chịu ảnh hưởng của Maïakovski rất đậm" (Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm Tường Vân phỏng vấn tháng 1/2003, đăng trên BBC Việt Ngữ 6/5/2008).
Như vậy chúng ta có thể xác nhận: Lê Đạt làm thơ không vần, ít nhất từ 1948, và tập Tình mẹ, có thể là những sáng tác đầu tiên của Lê Đạt.
Gia cảnh Nhân Văn
Bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử, gây sóng gió suốt thời kỳ Nhân Văn, và ghi lại trong ký ức người đọc sự phản kháng sâu sắc của nhà thơ đối với một thể chế độc tài, khống chế tự do tình cảm, tự do luyến ái, can thiệp vào đời tư của con người, khởi đi từ những sự kiện có thật trong đời Lê Đạt.
Lê Đạt kết duyên với cô Nguyện, cán bộ cốt cán, nhưng không hợp, chỉ sống chung một thời gian ngắn, rồi chia tay (khoảng 1955).
Một thời gian sau, Lê Đạt yêu Thúy Thúy (Nguyễn Thị Thúy), nghệ sĩ đang lên của đoàn Kịch Trung Ương. Năm 1956, hai người sống chung. Việc "bỏ người vợ cốt cán", để lấy vợ nghệ sĩ, đã gây cho Lê Đạt và Thúy Thúy, không ít khó khăn, cả hai đều bị kiểm thảo, Trần Dần ghi lại sự việc này trong nhật ký những ngày từ 23 đến 27/9/1955 như sau:
"Phê phán Lê Đạt:
Đồng chí định bỏ vợ lấy Thúy là bỏ cục vàng lấy cục đất. Còn gì qúy hơn là người làm việc cho Đảng? Đi CCRĐ [cải cách ruộng đất] bao nhiêu đợt rồi. Thành phần nông dân cốt cán. Đồng chí còn muốn gì? Không yêu nhân dân thì yêu ai? Chỉ có kẻ thù mới không yêu nhân dân thôi chứ!
Kể xấu Thuý. Con lính đế quốc. Nhăng nhít nọ kia bao nhiêu vụ rồi.
Tôi không thể đồng ý đề nghị của đồng chí. Không bao giờ Đảng đồng ý những cái sai.
Đồng chí lắm lý luận lắm, đao to búa lớn, vợ đồng chí hiền lành, đồng chí có đem lý luận đàn áp, dù vợ đồng chí có bằng lòng ly dị, Đảng cũng không đồng ý vì biết chắc chắn rằng đó chỉ là vì bị đồng chí đàn áp, bằng lòng mồm chứ không bằng lòng thực" (trích Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài biên soạn, td mémoire, Văn Nghệ, 2001, trang 87).
Những hàng nhật ký trên đây của Trần Dần cung cấp một số thông tin chính xác:
- Cô Nguyện bằng lòng ly dị (trên thực tế cô Nguyện đứng đơn xin ly dị).
- Nhưng Đảng răn đe: "dù vợ đồng chí có bằng lòng ly dị, Đảng cũng không đồng ý"
- Tình cảnh này đã được Lê Đạt thuật lại trong bài "Nhân câu chuyện mấy người tự tử" với hai câu thơ "để dời":
Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người.
Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước
Lời thơ phát xuất từ chuyện cá nhân, nhưng đã nói lên bi kịch của tất cả những người muốn sống tự do trong tình yêu, nhưng bị đảng trực tiếp ngăn cản.
Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt đều chung cảnh ngộ bị đảng can thiệp vào đời sống tình cảm riêng tư, và mỗi người vợ Nhân Văn đều phải gánh chịu hậu quả hoạt động của chồng trong suốt cuộc đời còn lại.
Lê Đạt kể lại: "Khi ấy, Thúy mới 18 tuổi. Ngày nào cũng có những cán bộ tốt bụng đến vạch rõ "bộ mặt phản động của Lê Đạt và khuyên cô cắt đứt với tôi (...) Cô không được làm diễn viên nữa, bị đẩy xuống làm phục trang và bị đối xử như một con chiên ghẻ. Có một điều chắc chắn là không có vợ tôi, thì tôi đã thân tàn ma dại rồi. Tôi đã làm lỡ cuộc đời nghệ thuật của cô và cô vì tôi mà mắc bệnh suy nhược thần kinh cho đến bây giờ. (...) Được phục hồi, tôi còn nhúc nhắc sáng tác được, nhưng Thúy thì được gì ngoài chứng bệnh suy nhược thần kinh, tê buốt khắp mặt đến mức nhiều khi không thể hé miệng được" (Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm Tường Vân, bài dã dẫn).
Bi kịch gia đình Nhân Văn, được Lê Đạt ghi lại thành thơ, như một lời tạ lỗi vợ con, như một ân hận, suốt đời, nhưng bài thơ cũng lại vượt khỏi khuôn khổ gia đình để nói lên nghịch cảnh chung của tất cả những người vợ Nhân Văn, Lê Đạt đã khắc chân dung họ vào văn học sử:
Vợ
Nhân Văn
Lịch
sử quýt làm cam chịu
Xin
lỗi em / những đêm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1) trằn trọc
Anh
Thái Hà (2) chưa về / và em khóc
Xin
lỗi em / những lời khuyên "cắt đứt"
Vạ
gì đeo hai tiếng "liên quan"
Những
buổi sớm / muốn chui đầu xuống đất
Mặt
trời soi ngày kiểm thảo bắt đầu
Xin
lỗi em / tiếng oan vợ thằng phản động
Lý
lịch ba đời mấy đứa con thơ
Xin
lỗi em / tuổi ước mơ không được sống
Những
giấc ngủ / chưa một lần tròn mộng
Chung
thân tâm thần / trọng tội đa mang
Đời
sau ơi! / May còn đoái đến tôi
Hãy
trả dùm tôi món nợ
Người
vợ nhỏ / vừa thoát tuổi khăn quàng đỏ
Đã
chụp mũ chồng / lưng thập tự Sói ăn
Và
Đức Phật / duyệt xuất biên vào Tĩnh thổ
Xin
độ trì / những Thị Kính-vợ- Nhân Văn.
Chú thích (của tác giả):
1- Vợ tác giả là diễn viên
Kịch nói ở nhà tập thể đoàn Kịch phố Nguyễn Bỉnh Khiêm
2- Thái Hà ấp: nơi tổ chức
cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm
Con Nhân Văn
Đào Phương Liên, con gái
Lê Đạt, đã ghi lại bối cảnh gia đình, nhân ngày giỗ đầu của cha. Bài văn khơi
động một cảnh sống mà người ngoại cuộc không thể hình dung nổi, chúng tôi xin
trích lại ở đây:
"... Suốt tuổi thơ,
con luôn trăn trở mãi trong lòng câu hỏi Bố là ai? (...)
Nhưng con không dám hỏi Bố
vì sao sau những buổi vui vẻ ấy, Mẹ lại lo lắng nhắc Bố: “Ông đừng có nói
to, cười lớn như thế!”. Bố thế nào cũng nổi cáu, quặc lại: “Tôi có làm gì khuất
tất đâu mà không được cười to, nói to?” Con đã bênh Bố vì nghĩ đó không phải là
một tội nhưng lại thầm thắc mắc: “Vì sao nhỉ? Hay cười nói to thế là không lịch
sự ?”
Rồi một hôm Mẹ đi làm về,
nhỏ to thì thầm: “Bà vợ ông Văn Cao dặn tôi nhắc ông vẫn có người theo dõi đấy.
Ông phải cẩn thận. Đừng có cười to, nói to. Người ta để ý đấy!’’Con đã quá quen
với lời nhắc nhở đó, giờ chỉ còn mỗi bận tâm: “ Văn Cao nào nhỉ? Làm sao mà Bố
quen được với tác giả TIẾN QUÂN
CA cơ chứ?”
Trên chiếc thùng gỗ tạp mà
bề mặt xù xì dăm gỗ, chỉ rộng bằng tờ báo, kê dưới chiếc cửa sổ có chấn song
nhỏ xíu của căn gác 3 như chuồng chim cu nhà ta, bố úp đáy làm bàn ngổn ngang
giấy tờ, sách báo, Bố ngồi bệt dưới sàn, hý hoáy viết rồi gạch xóa. Bố là nhà
thơ, nhà văn ư? Con thoáng nghĩ đến cái nghề cao siêu đó. Con lén tìm đọc. Con
chỉ thấy vài chữ nguệch ngoạc bên lề những mẩu báo, bên lề những bài kiểm tra
của con hay ở mặt sau những tờ giấy đen xì nổi gai: "chi chi…chành chành,
rồng rắn lên mây, cái đanh thổi lửa"…( Mà mỗi khi con hỏi bố tìm gì vì
thấy bố hoảng hốt, cáu gắt loạn lên thì bố chỉ im im rồi thở dài. Bố đâu biết
mẹ con con khi lau dọn tưởng là rác vứt đi rồi!). Con vội gạt đi ngay vì nhà
mình không có một quyển truyện, một quyển thơ nào. (...)
Và con lại trăn trở với
câu hỏi: Bố là ai? Làm nghề gì? (...)
Cho đến tận năm 1975, năm
lớp 10 cuối cấp, một cậu bạn cùng phố, học từ thời vỡ lòng với con, con một cán
bộ miền Nam
tập kết cấp cỡ, đến lớp bô bô: “Bố cái Liên là phản động chúng mày ạ”. Con nghe
máu nóng bốc rát mặt nhưng cúi mặt vờ không nghe thấy. Một cậu bạn kế bên đế
thêm: “Bố nó sỏ nhầm giầy à?” Lúc đó, con chỉ muốn độn thổ vì sợ.
Về nhà, con len lén để ý
xem Bố có đúng là “phản động” không? Con không dám hỏi vì sợ… đúng ???. Vì sợ…
đụng phải nỗi đau cần phải che dấu của Bố dù con không hề tin!
Con đã tự trấn an mình
bằng những kiến thức thu nạp được qua biết bao chuyện công an bắt gián điệp
những tối thứ bẩy, qua những câu chuyện trong các tạp chí QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN,
qua những nhân vật phản diện xấu xa trong các tác phẩm văn học. Con vừa là công
an theo dõi Bố, vừa là luật sư phản biện, bảo vệ Bố. Con chịu khó lục tìm mọi
chứng cớ có lợi cho Bố. (...) Con tự lý giải : Nếu Bố là “phản động” thì Bố đã
không khóc ngày Bác Hồ mất! Nếu Bố “phản động” thì đã không có thẻ thương binh!
(Lúc đó con không biết đó là thẻ Bố được tặng?) (...)
Rồi con không được xét vào
Đoàn dù lần kết nạp nào con cũng được giới thiệu, (....) Rồi con làm hồ sơ thi
đại học, anh con bác hàng xóm cười khẩy: “Rồi em cũng như tụi anh thôi. Có giỏi
mấy cũng chẳng vào được đại học. Cùng lắm là Sư phạm. Mà mày chưa Đoàn viên thì
đừng mơ!” Đem thắc mắc đó về hỏi, Bố cười gạt đi: “Làm gì có chuyện đó. Con cứ
thi đi. Mà Bố thấy Sư phạm cũng tốt”. Bố chợt trầm ngâm: “Chắc không có chuyện
gì đâu. Bút danh của Bố là Lê Đạt cơ mà. Có phải Đào Công Đạt đâu mà lo?”. Rồi
Bố lo lắng hỏi lại: “Thế có thật không phải Đoàn viên thì không được vào Sư
phạm không con?”. Và bố lại tất tả dắt xe đi…
Cho đến lúc ấy con mới
được nghe từ Bố cái bút danh Lê Đạt nhưng quả thật không gây ấn tượng gì với
con vì con chưa bao giờ nghe tới phong trào NVGP.
Và Bố không biết đâu, ngay
những ngày đầu của năm thứ nhất Sư phạm ngoại ngữ, trong một giờ văn học sử
Pháp, thầy giáo không biết sao lại nhắc đến “bọn Nhân văn Trần Dần, Lê Đạt” với
những câu “bôi xấu chế độ”.
"Ta
đi không thấy phố thấy phường
Chỉ
thấy mưa sa trên nền cờ đỏ"
Của bác Trần Dần
Và của Bố:
"Đặt
bục công an giữa trái tim người
Bắt
tình cảm ngược xuôi theo chế độ".
Con đã cúi gằm mặt, người
nổi gai vì ngỡ cả hội trường dồn mắt nhìn mình. Dẫu trong lòng con vang lên
“nếu thế thì sai quá còn gì” dù con không biết những câu sau.
Cho tới ngày Bố đi xa, cô
chủ nhiệm của con mới móm mém: “tao đến khổ vì chuyện vào Đoàn của mày”. Con
thật thà: “vì em chưa xứng đáng”. Cô vỗ vai: “vì cái lý lịch”
(trích Bố ơi, những
câu chuyện của con... của Đào Phương Liên, in trên Tuổi trẻ cuối tuần,
12/4/2009)
Và đây là câu trả lời của
Đào Công Uẩn trước linh cữu Lê Đạt, có đại diện của chính quyền: cha chúng tôi
là một người luôn sống và trả giá "cho một đất nước độc lập, tự do,
một nền văn học nghệ thuật độc lập, tự do".
Lê Đạt và Hồ Chí Minh
Trái với Nguyễn Hữu Đang,
dứt khoát xác định trách nhiệm của Hồ Chí Minh trong việc đàn áp NVGP, Lê Đạt
có một thái độ gần như băn khoăn, khó hiểu.
Ngày 13/4/1999 tại Paris , nhà thơ Lê Đạt đã
nói chuyện với RFI về Nhân Văn Giai Phẩm
Trong buổi nói chuyện với
ông (ghi âm ngày 13-04-1999), ở đoạn cuối, tôi có hỏi ông về Hồ Chí Minh. Khi
phát thanh trên RFI, năm 2004, Lê Đạt đồng ý là nên cắt bỏ. Nay đã có khoảng
cách thời gian, xin ghi lại hai câu đã bị cắt bỏ này, như một tư liệu, giải
thích thái độ của Lê Đạt đối với vị lãnh tụ đương thời.
T. K: Chính ở trong
mouvement của các anh cũng có điều khó hiểu: Ngay từ ban đầu, các anh đã phê
bình tập thơ Tố Hữu, chỉ trích tập thơ đó là thần tượng hóa cụ Hồ, và toàn bộ
tinh thần NVGP đều chống lại sự thần tượng lãnh tụ. Nhưng trong thâm tâm các
anh, ít nhất ba người Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm, đều thấm nhuần Tây học, mà
vẫn có sự thần tượng hóa cụ Hồ, có phải như thế không? Điều này làm cho người
ta khó hiểu.
L. Đ: Dĩ nhiên chị ạ. Mình
có thể phê phán người khác [nhưng mình vẫn phạm sự] thần tượng hóa, là tất
nhiên. Nhưng khi tôi viết tôi không thần tượng hóa nữa. Tôi rất chú ý
đến việc ấy, nhưng chắc là trong ngóc ngách tâm hồn tôi, chắc còn có nhiều chỗ
vẫn thần tượng hóa.
T. K.: Trong thâm tâm
các anh vẫn coi cụ Hồ là "thần tượng". Nhưng cụ Hồ lại chủ
trương điều mà các anh chống lại, đó là sự toàn trị, và cấm đoán cái mà
các anh đòi hỏi, đó là tự do tư tưởng. Mình không thể nào tranh đấu với một
thần tượng mà mình tôn thờ và đòi lật đổ sự độc tôn thần tượng đó. Đấy là cái
điểm mâu thuẫn, không thể giải thích được trong lập luận của các anh?
L. Đ.: "Tôi
không bao giờ coi cụ Hồ là đại diện tự do và dân chủ cho đất nước Việt Nam . Tôi
thần tượng là thần tượng ở những khía cạnh khác. Chị nên thông cảm với tôi.
Thần tượng trên mọi phương diện thì tôi không bao giờ có, không bao giờ tôi
nghĩ cụ Hồ là thần tượng của tự do dân chủ trên đất nước Việt Nam . Không
có. Trong khi tôi đấu tranh thì có nghĩa là tôi đấu tranh cả với cụ
Hồ. Nhưng một góc của tâm hồn tôi... Đó là bi kịch của tôi. Điều đó chị
thông cảm cho tôi".
Ngoài micro, tôi nói
đùa: "Cụ Hồ đã làm các anh điêu đứng suốt đời mà anh vẫn còn bênh
được thì lạ quá!". Lê Đạt cười: "Thì mình cũng phải tin là
còn có một người tử tế, chứ nếu cả nước đều một bọn vứt đi thì làm sao sống
nổi!"
Lê Đạt có viết một bài
trường ca Bác (một phần trích in trong Văn học VN sau cách mạng tháng
Tám, nxb Văn Học Hà Nội 1992). Đây là bài thơ ca tụng, với những tình cảm chung
chung, không bộc lộ được cái cảm xúc chân thực (nếu có) phát xuất tự đáy
lòng:
"Trong
lặng im trắng /mênh mông / mỗi tấc lòng
Ta
càng nghe rất rõ / cái thủa Ba Đình
Di
chúc / bác mở tay / mở bay / trang rộng"
(sđd,
trang 132)
Thơ ca tụng bác Hồ, thời
kỳ đầu kháng chiến, hầu như ai cũng làm, kể cả Vũ Hoàng Chương. Nhưng không
hiểu sao, Lê Đạt lại làm bài Bác ở thời điểm khá trễ này? Đào Phương
Liên cho biết, khi "Ông" mất, bố mẹ để tang "Ông". Phong Lê
trong bài "Có một trường ca về Hồ Chí Minh..." cho biết
trường ca này viết năm 1970 để kỷ niệm ngày giỗ đầu của HCM, nhưng cũng phải 20
năm sau, mới được in (Nhà xuất bản Thanh Niên, 1990) nhân ngày kỷ niệm 100 năm
sinh HCM.
Như vậy bài
thơ Bác có thể đã làm sau khi Hồ Chí Minh mất, như một lời tạ ơn
chăng?
Kết thúc lớp Thái Hà, Tố
Hữu đã có lời đe Lê Đạt: "Tội của anh cũng nặng như tội Nguyễn Hữu
Ðang. Lẽ ra anh cũng bị đi tù. Nhưng mà Ðảng vì nghĩ đến anh, chiếu cố đến anh
còn trẻ, có khả năng và còn có thể giúp ích được cho đời nữa nên Ðảng khoan
hồng với anh thôi chứanh-đừng-nên-nghĩ-rằng-anh-tội-nhẹ!" Ðó là lời
dặn dò của Tố Hữu với tôi trước khi tôi về".(Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI)
Đảng, trong lời Tố Hữu, là
Bác? "Tội" của Lê Đạt nếu truy kỹ, nặng hơn "tội"
Nguyễn Hữu Đang, vì những câu thơ của Lê Đạt viết về chế độ cộng sản sẽ không
bao giờ xóa được trong lòng ký ức dân tộc. Nhưng Lê Đạt không bị đi tù. Phải
chăng Lê Đạt đã cảm nhận được sự "khoan hồng" ở bác, đối với một nhà
thơ có tài? Và đó chính là bi kịch của ông? Tạm hiểu bài thơ Bác và
tình cảm "khoan hồng" của Lê Đạt đối với bác, nằm trong bối cảnh như
thế.
Hoặc cũng có thể, ở những
nghệ sĩ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, luôn luôn có một con người
ngây thơ, lãng mạn, trữ tình, khi nhìn vị lãnh tụ. Trong khi ở những nhà trí
thức như Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang... Sự phán
xét lãnh tụ sáng suốt, rạch ròi hơn, vì họ không lãng mạn mà nghiêng về lý trí,
tinh thần.
Tham gia Quốc dân Đảng
Trong bản bản "thú
tội" của Lê Đạt, có một câu quan trọng: "Đảng đối với tôi có rất
nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi
công tác gần các đồng chí lãnh tụ, cho tôi đi thực tế để cải tạo, nâng đỡ những
sáng tác của tôi, đến khi va chạm vào quyền lợi cá nhân, tôi trở mặt tấn công
vào Đảng, nhẩy sang trận địa của giai cấp tư sản phản động và làm người phát
ngôn của chúng" (Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80).
Và khi trả lời phỏng vấn
của Phạm Tường Vân, Lê Đạt cho biết:
"Nhà mẹ vợ tôi là cơ
sở cách mạng, hai anh của Thúy một người là bí thư chi bộ xã, một người đi bộ
dội. Hồi cải cách mẹ vợ tôi bị quy là gián điệp và anh cả bị quy là Quốc Dân
Đảng chờ đem ra xử bắn. Thúy đương được ở đoàn kịch trung ương, lúc nào cũng
nơm nớp sợ bị đưa về xã đấu tố. Thì vừa lúc sửa sai bắt đầu, cả nhà
may mắn thoát nạn" (Lê Đạt trả lời Phạm Tường Vân, bđd)
"Trong truyện
ngắn "Thế là… chị ơi!" (Talawas, tháng 6/2007) của Vũ
Ngọc Tiến, có nhiều chi tiết gần gụi với đời sống của bà Bùi Thị Ngọc Khuê, vợ
nhà thơ Trần Dần, đặc biệt có một đoạn viết về cái chết của ông Phán Hậu (ân
nhân của bà K) như sau:
"Cuối cùng thì
thơ anh cũng được tôn vinh. Sau ngày anh mất, tập trường ca cuối cùng của anh
được trao giải và hôm nay tôi lại nhìn thấy chị trên màn ảnh nhỏ, trong lễ trao
Giải thưởng Nhà nước cho anh và những người bạn của anh. Song cái án oan kết
tội ông Phán Hậu, nhà chí sĩ yêu nước giầu có, danh giá bậc nhất tỉnh Nam Định
bị bôi nhọ là tên phản động Quốc dân Đảng, tay sai đế quốc Pháp ai rửa cho ông?
Đêm trước ngày bị các Ông Đội sai cán bộ chuỗi, rễ đến nhà bắt trói ông đem đi
đấu tố, ông lập bàn thờ giữa sân nhà, có bài vị Nguyễn Thái Học bằng chữ Nho,
rồi ông đội khăn xếp, mặc áo the đen, lầm rầm khấn vái: “Tiên sinh năm nào lên
máy chém vẫn để lại lời bất hủ rằng “không thành công cũng thành nhân”. Giờ độc
lập thành công rồi, mai tôi lên đoạn đầu đài sẽ thành gì đây? Tiên sinh hỡi,
tiên sinh!...” Cái án oan ấy khiến anh đang đi công tác cải cách ruộng đất ở
Thái Bình bị triệu hồi về giam lỏng ở đơn vị. Ngày ấy, nếu lần anh tự tử bằng
dao lam trót lọt thì còn đâu những tác phẩm sau này anh viết cho người đời
chiêm ngưỡng, hậu thế tôn vinh?"
Hai câu chuyện trên đây về
người thân của hai bà vợ Nhân Văn, cho ta thấy rõ không khí thời đó đối với
những người có "quan hệ" với Quốc Dân Đảng và hiểu tại sao Lê Đạt đã
phải cất giấu quá khứ của mình.
Trong những người chủ chốt
của phong trào, ba người có "liên hệ" với Quốc dân đảng: Phan Khôi,
Thụy An, Lê Đạt. Do đó, một mối thâm tình liên kết họ với nhau:
-
Trả lời phỏng
vấn RFI, Lê Đạt nhắc đến Thụy An và Phan Khôi, với những lời đầy ý
nghiã: - "Phan Khôi với tôi vốn có những quan hệ đặc
biệt"."Trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là người lãnh đạo
tờ Nhân Văn".
Việc công nhận Phan Khôi
là người lãnh đạo tờ Nhân Văn, chứng tỏ Lê Đạt chỉ coi Nguyễn Hữu Đang như
người bạn đồng hành, Phan Khôi mới là người thủ lãnh. Ngoài uy tín của Phan
Khôi trong văn học, còn có lý do nào khác, nếu không phải vì Phan Khôi là người
theo Quốc dân đảng, lý tưởng đầu đời của Lê Đạt?
"Tôi
có thể bảo đảm 100% chị Thụy An không phải gián điệp", "Chị Thụy
An rất thân với anh em trong NVGP và đặc biệt là thân với
tôi". "Riêng tôi thì không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An
đối với tôi".
-
Tại sao Lê Đạt dám bảo đảm
100% là Thụy An không phải gián điệp, nếu ông không biết rõ hành động của
Thụy An? Nếu không cùng một lý tưởng?
Câu "Tôi không
bao giờ quên công của chị Thụy An đối với tôi", có nhiều ý nghiã.
Công gì? Thụy An có công với nhiều người, công dạy Phùng Quán tiếng Pháp tiếng
Anh, công giúp đỡ vợ con Lê Đạt... Nhưng từ khi Thụy An bị nạn cho đến bây giờ,
những bạn đồng hành không ai nói một lời biện hộ công khai cho bà, trừ Lê Đạt.
Vậy có thể hiểu chữ "công" này là một công lớn: Ngoài sự kính phục
người chị văn nghệ can trường, còn có sự hàm ơn Thụy An, đã không
"khai" những điều bà biết về Lê Đạt, như một thành viên cũ của VNQĐ.
Khu lăng mộ Nguyễn Thái
Học tại Yên Bái với câu nói nổi tiếng ''Không thành công cũng thành
nhân"(Ảnh : DR)
Câu châm ngôn mà Lê Đạt
cho ghi lại trong bộ Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại (nxb Hội Nhà Văn, 2007), là
: "Một nhà văn tự trọng nên bận tâm đến việc thành nhân hơn là thành
danh" có gì rất gần với lời Nguyễn Thái Học:"Không thành công
thì thành nhân".
Tinh thần yêu nước phát
sinh từ Yên Bái
Đất Yên Thế và đất Yên Bái
đối với Lê Đạt có những gắn bó sâu xa: Yên thế, quê nội là đất của Đề Thám,
thuộc phân Phủ lạng giang, triều Nguyễn (nay thuộc tỉnh Bắc giang), có 2 mảnh
đất lịch sử: Nhã nam và Yên thế:
-Tổng Nhã Nam, là nơi
Hoàng Hoa Thám làm lễ tế cờ khởi nghiã (1889), và cũng là nơi Lương Tam Kỳ
đem thủ cấp Đề Thám nộp cho Pháp lãnh thưởng (1913).
- Tổng Yên Thế, là nơi Đề
Thám đặt đại bản doanh chiến đấu trong hơn 20 năm, vị trí hiểm trở, "rừng
thiêng nước độc", nằm giữa rặng Cai Kinh (Lạng Sơn) và núi đồi Thái
Nguyên.
Yên Thế, như một địa hình,
một bối cảnh đất nước lâm nguy, một can trường chống Pháp nhưng thất bại.
Đất
quê cha tôi /đất quê Đề Thám
Rừng
rậm sông sâu
Con
gái cũng theo đòi nghề võ
Ngày
nhỏ /cha tôi dẫn đầu / lũ trẻ chăn trâu
Phát
ngọn cờ lau / vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ
làm Đề Thám... (Cha tôi)
Nhưng vì miếng cơm manh
áo, người cha đã buông tay, bỏ cuộc, người con tiếp tục lên đường:
Cuộc
sống hàng ngày / nhỏ nhen / tàn bạo
Rác
rưởi gia đình / miếng cơm / manh áo / tàn phá con người
Những
mơ ước thời xưa / như con chim gẫy cánh
Rũ
đầu chết ngạt trong bùn
Năm
tháng mài mòn / bao nhiêu khát vọng.
Cha
đã dạy con một bài học lớn
Đau
thương / kiên quyết làm người. (Cha tôi)
Bài Cha tôi làm
tháng 7/56, giữa Giai phẩm mùa xuân và Nhân văn, như một
tuyên ngôn, xác định con đường tranh đấu, lấy đất Đề Thám làm khởi điểm.
Nếu Yên Thế được Lê Đạt
xác nhận, thì Yên Bái, đã không thể công khai trình làng, bởi Yên Bái là quê
hương của Quốc Dân Đảng.
Yên Bái là pháp trường xử
lòng ái quốc. Khi Nguyễn Thái Học và 12 bạn đồng hành lên đoạn đầu đài (1930),
Lê Đạt mới một tuổi, nhưng Yên Bái, hơn một nơi chôn rau cắt rốn, đã trụ lại
như cái mốc đầu đời, một khởi điểm của cõi viết và nẩy mầm ý chí cách mạng vùng
lên chống Pháp.
Tập
thơ Tỉnh mẹ, tạm coi như tập thơ đầu đời của Lê Đạt, đã dành cho
Yên Bái chỗ đứng thiêng liêng, nói lên tâm sự người thanh niên sinh ở Yên
Bái. Tỉnh mẹ là tỉnh mình sinh ra, là đất mẹ, là Yên
Bái. Tỉnh mẹ có thật sự bị thất lạc? Hay đã bị "tịch
thu" và sau này được trả lại?
Tỉnh mẹ, in trong phần Di
cảo (Đường Chữ, nxb Hội nhà văn, 2009)
Tác giả mơ hồ cho biết đây
là tập thơ bị thất lạc đã 40 năm. Không một bài thơ nào ghi ngày tháng ở dưới.
Lê Đạt cũng không hề nhắc đến "giai đoạn thơ này" khi còn sống. Có
phải vì Yên Bái là một "liên quan" thầm kín mà tác giả phải
giấu đi? Cũng như trong một thời gian dài, về nơi sinh, ông chỉ ghi Âu
Lâu, trên bờ sông Hồng (không nhắc đến tên Yên Bái).
Tập thơ nói lên tinh thần
chống Pháp của một thanh niên. Thơ làm theo lối leo thang, không vần, đã là
giọng thơ Lê Đạt, đã có những hình ảnh mới lạ, táo bạo hơn thơ người khác. Điểm
đặc biệt là sự gắn bó với Yên Bái, như cái nôi của hành động và tư tưởng, như
một tiền trạm của lòng yêu nước, như một ý chí cách mạng, một sự đổi thay, một
sự lập thân con người, khởi đi từ Yên Bái.
Từ Yên Bái, cậu bé đã thấy
một "người hàng xóm", "người chị", và cũng là "người
yêu", bị con trai quan phủ làm nhục, xóm làng hắt hủi:
Đêm
ấy / chị ra sông tự tử
Theo
những chiếc lá dâu ngày xưa
Áo
trắng / như buồm mộng / về một chân trời nào / cao rộng / thăm thẳm / xa
(Thơ
ngây, trang 298)
Từ Yên Bái, cậu bé nhìn
thấy người ăn mày chết trước cửa giáo đường, hỏi Chúa có thấy không?
Chúa
về tự bao giờ
Có
phải thật Người không?
Tiếng
chuông / lu loa / hối hả / giục / người bõ già
Quét
/ chiếc xác / nằm co quắp
Chết
/ giữa ngày Phục sinh
(Người ăn mày già, trang 319)
(Người ăn mày già, trang 319)
Từ Yên Bái, tác giả thấy
một người anh, ban đầu có "chí lớn", rồi chí ấy lụi tàn trong bổng
lộc quan trường, cuối cùng nhìn lại sổ đời. Bản cáo trạng chứng tỏ người anh
không sống trong thời Pháp thuộc mà dường như ở thời cách mạng:
"Trong
khoảnh khắc / đối diện / cùng sự thật
Sởn
tóc gáy / như kẻ sát nhân / đột nhiên / thấy / người mình thủ tiêu / lững thững
/ hiện theo về / đối chất
"Anh
có thể lừa /cha mẹ / vợ con / lừa cả nước
Nhưng
thế nào / cũng có lần / anh phải lôi ra / trước / vành móng ngựa bản thân
anh"
(Một
cuộc đời, trang 309)
Yên Bái, một xã hội Việt
nam thoi thóp, tê liệt, đợi chờ:
Yên
Bái/ dăm cô gái/ lỡ thì/ thổn thức/ Nhất Linh/ tay / Loan Dũng / lên ô kính bụi
Chơ
chỏng/ mấy con búp bê/ gẫy cẳng/ bạc màu
Yên
Bái/ một phố chiều/ thượng du nắng lụi
Một
con đường/ rơm rớm/ máu rơi
Đôi
vợ chồng già / không con / nhìn bóng tối
Ôm
con mèo gầy / nhức nhối / chuyện ngày xưa
Yên
Bái/ hôm nào / cũng ra ga
Hôm
nào / cũng nhỡ tàu / ở lại
Với
những tiếng còi / rứt ruột / gọi đi
Và
một chân trời / nhêu nhếch / khói (...)
Yên
Bái / những ngày trích lục nhau / sao thành nhiều bản (...)
Yên
Bái / một quê hương vỡ nợ (...)
Một
ngã ba thành năm sáu ngã ba
(Phác
họa màu xám, trang 333)
Và người thanh niên ấy đã
gửi những lời tạ tội về Yên Bái, tạ tội đã đốt quê hương. Tiêu
thổ là bài thơ duy nhất trong thời kháng chiến đặt lại vấn đề tiêu
thổ kháng chiến như một tội đồ đối với quê hương, dân tộc:
Yên
Bái / chỉ để lại / trong tôi / những kỷ niệm / nhạt / như nước ốc
Sao
hôm nay / khi tiêu thổ quê hương / tôi bỗng khóc (...)
Yên
Bái ơi! / Cố sống / lấy thêm /dăm ngày nữa (...)
Hôm
nay / ta đánh vỡ / quê hương
Đánh
vỡ / từng viên gạch / tổ tiên ta / cóp nhặt (...)
Quê
hương ơi! / Ta không phải / kẻ ăn tàn phá hại
Vén
tay áo xô / đốt gia tài / ông cha để lại...
(Tiêu
thổ, 345)
Yên Bái chính là khởi điểm
của cuộc lên đường, cũng là cuộc đi vào tan nát, khổ đau:
"Ôi! Những ngày đầu / quê hương / tan nát lửa
Như đàn cò / vỡ tổ / bế nhau đi
Như đàn cò / vỡ tổ / bế nhau đi
Đằng
trước một chân trời sẹo đạn
Đằng
sau /thông thống một đường về
Ta
đã / chọn /đường / đi về phía trước
Chân
chảy máu / nạng vào nhau ta bước
Điểm
chỉ / trên khắp mọi ngả đường
Trong
bản giao kèo /ta ký /với tương lai
(Quê
hương du ca, trang 353)
Yên Bái còn là mẹ của cả
những người lính viễn chinh:
Bà
mẹ Âu Lâu /ngồi / như gốc mai nở trắng / giữa đàn con / đủ / các giống người
Thằng
cả / Xa lum / người Xê nê gan / làm mỏ than Ma rốc
Vào
hầm than / đen / như thấy dân tộc mình / mấy ngàn đời / vùi dập /chết / ở đây
Tan
tầm về / ra bờ sông nước trong /rửa mặt
Rửa
xong / nhìn / mặt vẫn nhọ than
Thằng
hai / Ma Hô Mét
Công
nhân bốc vác / An Giê
Gù
gù / lưng cánh phản
Ngày
ngày / khuân tổ quốc / xuống tàu buôn...
(Mẹ,
trang 363)
Đối diện với những hô hào
chém giết, máu, thù, trong thi ca đương thời, đây là bài thơ phản chiến và nhân
bản nhất trong văn chương Việt Nam
thời kháng chiến chống Pháp. Nhà thơ không phân biệt chiến tuyến,
"dám" coi "quân thù" cũng là con của mẹ Âu Lâu. Vì vậy
"tội" của Lê Đạt phải là rất nặng, ngay từ trước thời kỳ NVGP.
Thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm
Xuân Diệu buộc
tội: "Đã rõ rệt như ban ngày, tập Giai phẩm mùa xuân 1956 phất lá cờ
đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt là nhà lý luận trong đó. Lê Đạt mở
đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn: "Trích thơ gửi người yêu" (...) và
bài thơ tuyên ngôn thứ hai "Mới" đăng trong Giai phẩm (...) Lê Đạt là
một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa
nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc (...) Cùng với Nguyễn Hữu Đang
làm bộ óc của báo Nhân Văn, đứng làm "nhà lý luận" của bọn chống Chế
độ (...) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm, Lê Đạt liên lạc cấu kết với Thụy An, Lê
Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc lũng đoạn Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực
dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ
trường phái; mãi đến trong lớp học văn nghệ lần thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn
còn tìm cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt, ta phải nhìn thấy cho hết, rằng Lê
Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản chất giai cấp thù
địch" (trích bài "Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân tư
sản trong thơ Lê Đạt", (Văn Nghệ số 13 tháng 6/58, in lại trong
tập Dao có mài mới sắc của Xuân Diệu, 1963, các trang 86, 87, 89 và
95).
Lê Đạt cũng xác nhận vai
trò chủ chốt của mình trong bài tự kiểm thảo:"Tôi tham gia Nhân Văn với ý
thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn
Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm có 4 người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng
Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động
Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp ý, vẽ tranh một người đẽo
chân cho vừa giày mậu dịch. (...) Nhân Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng
Nhân Văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một thời gian các báo ngớt đánh,
tình hình trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp nhau đả kích Đảng, cho là
độc đoán". (trích lời "tự thú" của Lê Đạt, Văn Ngệ số 12, tháng
5/1958).
Trong thời kỳ NVGP, ngoài
những bài xã luận chính trị ký tên Người Quan Sát cùng với Nguyễn Hữu Đang, Lê
Đạt là nhà thơ sáng tác nhiều nhất và chống đối mạnh mẽ nhất. Ngoài những bài
thơ in trên báo, còn có:
Thế giới này là của chúng
ta, (phát hành tháng 12/1955), có thể phần lớn làm theo lối tuyên truyền, thời
mà Lê Đạt cho là "biết bao lần tôi đã không thực là
tôi", cho nên sau này ông không nhắc đến tập thơ ấy nữa.
Bài thơ trên ghế
đá (nxb Hội Nhà Văn, 1957).
Cửa hàng Lê Đạt, (đang in,
bị đình chỉ, Lê Đạt bị khai trừ khỏi đảng, tháng 7/1957)
Đụng long mạch (in
trên Tự do diễn đàn, tháng12/56, báo bị cấm)
Lê Đạt còn nói đến bút
ký "Vào 21", viết về thời kỳ bị kỷ luật. Hiện nay
không biết văn bản này thất lạc ở đâu.
Trong tinh thần Đỗ Phủ,
thơ Lê Đạt phản ảnh xã hội thời ông sống. Không ít bài bị cấm, bị tịch thu,
hoặc bị thất lạc. Sau này, những ai muốn tìm hiểu thực chất của xã hội Việt Nam
dưới chế độ cộng sản cần phải tìm lại những tác phẩm này, không chỉ của Lê Đạt,
mà của toàn thể các tác giả trong NVGP đã bị chôn vùi hoặc thất lạc. Những tác
phẩm viết trong tù, của Thụy An, có lẽ ở Sài Gòn, phía gia đình các em, hoặc
bạn bà là Trinh Tiên (tên thật là Trinh Nữ, chồng là Bửu Đảo) còn giữ.
Nhờ hai bài đánh Lê Đạt
của Xuân Diệu và Xuân Hoàng mà chúng ta có thể biết được nội dung một số
bài thơ của Lê Đạt, trong thời kỳ NVGP
Tập Bài thơ trên ghế
đá, theo Xuân Diệu"dưới sự lũng đoạn của Hoàng Cầm" nhà
xuất bản Hội Nhà Văn đã in tập thơ này năm 57, sau khi Nhân Văn bị đóng cửa.
Vẫn theo Xuân Diệu, thì
tác phẩm này "là cả một hệ thống có ý thức phá hoại tinh thần từ đầu
chí cuối", "anh ta [Lê Đạt] vẫn cứ "đầu thai nhầm chế
độ", bài "Đu" là "một sự khiêu
khích". Bài "Gia đình", với những câu
như:"Nhiều dự định sa lầy trong đống tã", "tình yêu bị những cái
hàng ngày bóp cổ", "Lê Đạt đưa những xót xa đau đớn ra
và cho nó thắng trận". Bài thơ trên ghế đá "đầy một
điệu hưởng lạc, chết lịm trong tình yêu", và vẫn theo Xuân Diệu,
trong bản đánh máy đưa cho nhà xuất bản còn có bài"Trong hầm bí mật",
nhưng không in, bài này rất tiêu biểu cho cái triết lý"máu, sướng và
chết" của Lê Đạt". Xuân Diệu viết tiếp: "Bài thơ trên
ghế đá "còn có dã tâm đả kích Đảng. Cho Đảng là phao phí nhân tài
(Con búp bê, Tình người), ví Đảng như một anh thợ cầu già chưa vợ, bác rất
nhiều cầu, xây dựng kinh tế được nhiều đấy, nhưng chưa bắc qua được một lòng
người".
"Hàng triệu lòng
người đã nhờ Đảng mà tái sinh, yêu Đảng sâu sắc, nhưng cố nhiên lòng của bọn
Nhân văn- Giai Phẩm thì chỉ có bọn tư sản phản động mới bắc được cầu".
(Xuân Diệu, Những
biến hoá của chủ nghĩa cá nhân trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13, tháng 6/58).
Nhờ bài đả kích của Xuân
Hoàng, chúng ta biết thêm nội dung bài Đụng long mạch, in trên Tự do
diễn đàn, tháng12/56, báo bị cấm:
"Trong bài thơ
"Đụng long mạch" (...) Lê Đạt dựng lên khung cảnh một địa phương đang
bị hạn hán, có cán bộ về khuyên đào giếng nhưng vì sợ bị "đụng long
mạch" nên các cụ nhất định không nghe. Sau có vợ chồng anh Ân đêm về bí
mật bàn với nhau nên lén lút đem cuốc ra vườn đào giếng, đến sáng hôm sau bà
con thức dậy thấy "mạch nước đùn lên nước phun loang loáng", và từ
đấy cả làng noi gương vợ chồng anh đào giếng chống hạn khắp nơi.
(...) Lê Đạt hết lời khen
ngợi vợ chồng Ân - những "anh hùng" trong câu chuyện qua cái nhìn của
Lê Đạt đã "dám cả gan đánh bốc với những già nua cũ kỹ của cuộc đời".
Lê Đạt đã kêu ầm lên một cách hậm hực rằng:
"Những con người ụ
Ềng ra cản đường"
Và Lê Đạt hô hào:
"
Cần biết bao nhiêu
Những
cái đầu táo bạo
Dám
nghĩ, dám làm
Không
nô lệ chung quanh"
(...)
Còn đây là cái nhìn của Lê Đạt về Đảng. Đó là:
..."lưng
con rồng,
Ai
đào giếng đụng vào long mạch
Thì
phải tội mù hai con mắt
Cả
nhà hộc máu chết tươi"
Và
nhay đi nhay lại cái ý đó một cách dọa dẫm:
"Long
mạch này mà đứt
Cả
nhà không thoát một người"
hoặc:
"Long
mạch hôm nay rung chuyển
Phen
này rồi chết cả nhà"
(Thực chất tư tưởng chống
đảng trong thơ Lê Đạt, Xuân Hoàng, Văn nghệ số 11, tháng 4/1958, trang 71-72)
Bài thơ dài Cửa hàng
Lê Đạt, in trong phần phụ lục dưới đây, làm theo thể trào phúng, là một trong
những bức tranh thơ sống động nhất về thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm.
Đời chữ của Lê Đạt chia
làm hai thời kỳ, dưới hai ngòi bút:
Nhà thơ thời thế, theo
truyền thống Đỗ Phủ, ghi lại bộ mặt của xã hội toàn trị trên đất nước
ta. Nhà thơ cách tân, theo truyền thống Mallarmé, mở một kỷ nguyên
mới cho đường chữ.
Lê Đạt, nhà thơ thời thế,
xác định tính chất cơ bản của lịch sử:
Lịch
sử muôn đời duyệt lại
Không
ai lừa được cuộc đời.
Lê Đạt, nhà thơ cách tân,
gửi lại hậu thế những lời trăn trối cho tương lai:
Vũ
trụ ơi / tha cho tôi
Tất
cả những gì / thơ tôi chưa làm được
Khi
tắt thở / mắt tôi đừng ai vuốt
Còn
gì buồn hơn / màn đóng lại mục đời
(Hết phần thứ X)
Phụ lục
CỬA HÀNG LÊ ĐẠT
Cảo thơm lần giở trước đèn
Nguyễn Du
Quý
khách qua phố Trần Hưng Đạo
Hãy
dừng chân / mấy phút / tham quan
Cửa
hàng Lê Đạt.
1.
Lê
Đạt nào ?
Có
phải Lê Đạt / của Những người tự tử / của Những cái bình vôi
Chán
thơ thẩn rồi sao / mà lại về mở hiệu
Hay
vợ đau, con yếu / Làm thơ không đủ tiền
Hay
bị phê bình / kiểm thảo
Giờ
như chim phải tên / Động thấy cây cong / là sợ
Hay
thơ tồi không người tiêu thụ
Phải
bán Ki-lô
2.
Làm
thơ đã đành là khó sống
Một
bài thơ Văn nghệ trả / năm nghìn
Mua
soẳn vừa hai hộp sữa
Nhưng
kinh tế dân ta còn khổ / làm thế nào
Cả
nước nghèo tần tảo nuôi nhau
Đủ
sống làm thơ / thế là tốt lắm
Nếu
không có mấy ông phê bình
Mác
xít thiên binh / Duy vật chi hồ giả giã
Nhai
chữ mòn răng / chưa vỡ sự đời
Mấy
chữ i- tờ lòng người / không biết
Ngắt
ngọn bao nhiêu suy nghĩ /tìm tòi
Ra
chữ nghĩa / nhiều khi / cũng giết người
Có
những ngày chán nản / Tôi muốn đi thật xa
Không
muốn nhìn / không muốn nghe / không muốn viết
Có
những ngày / tôi chỉ còn muốn chết
Nhưng
thương vợ / thương con / yêu tiếng Việt
Tôi
không đành đi
Quê
lạnh thân cò lặn lội
3.
Trần
Dần đi phao tin
“Lê
Đạt mở cửa hàng phở chó”
Anh
em ôm bụng cười
Ô
hay, sao lại cười
Tôi
không định mở cửa hàng phở chó
Nhưng
sáng tác cho đời thêm vài thứ phở
Chẳng
là nên hay sao
Chẳng
hơn ngồi nhai đi nhai lại
Mấy
vần thơ thịt rừ
Bã
nát từ thời cà cộ.
Một
tý anh / một tý em
Tý
ty nhiệm vụ / tý ty căm thù
Tý
ty diễm huyền / tý ty mông vú
Đổ
làm mấy chục thùng thơ
Bùi
Thị Xuân (1) / nếu không còn hàng phở
Đời
sẽ buồn biết đến bao nhiêu
Như
Hồ Gươm không người làm xiếc
Như
Hồ Tây vắng bánh tôm
Ta
sẽ mất rất nhiều Hà Nội
Nước
béo / mỡ gầu / tôm tươi / thơ mới
Áo
nắng tuổi cờ thu chín tới Thủ đô
4.
Anh
em tôi đẻ sau đến muộn
Mở
cửa hàng / sinh sống / khó khăn
Bao
nhiêu chỗ thơm / người ta “xí” trước
Hiệu
20 năm / Hiệu 30 năm / Hiệu “nhất Thủ - đô”
Hiệu
“gia truyền chính cống”
Phong
lưu sống nhờ độc một cái tên
Anh
em tôi đành ra góc phố
Đăng
ký mở hàng
Chưa
có tiếng tăm / rồi sẽ có tiếng tăm
Miễn
chịu khó làm ăn / cần cù / lương thiện
Bà
con / cho mấy tấm ni lông
Lợp
lên làm mái
Mấy
tấm dù Điện biên / quây lại làm tường
Mới
ra ở riêng / bạn bè thương giúp đỡ
Ôm
lấy bóng đèn / Văn Cao vẽ một con mắt đỏ
Giải
thích / "ngày đêm mất ngủ / đăm đắm sự đời"
Ngoài
cửa hàng / Trần Dần treo / quả tim đồ sộ
Khắc
mấy câu thơ Mai – A “Yêu / ghét / khổng lồ”
Hôm
khai trương / Hoàng Cầm giọng oanh vàng đất Bắc / Sẽ đến ngâm thơ
Nguyễn
Sáng vẽ chân dung người đến dự
Tử
Phác mắt Rômêô mơ buồn thả điệu “Quay tơ”
Phùng
Quán “vượt Đảo” về múa micrô độc tấu…
5.
Cuộc
sống thật vui / nhưng thật là vất vả
Méo
mặt / lo cơm / lo gạo / lo ốm / lo đau
Lo
hàng trăm thứ
Vật
chất đã đành là hạ tầng cơ sở
Nhưng
người ta đâu chỉ có dạ dày
Còn
tim đòi rung / còn đầu đòi nghĩ
Hằng
hà sa số nhu cầu
Anh
thích đi câu
Anh
thích đi píc-níc
Chị
thích đầu xúc xích
Chị
thích Uxi
Như
sách nói :
Bách nhân bách thích
Anh
hôm nay đi chơi /Trời cao thu mát
Gặp
một tà áo bay phơ phất bên hồ
Con
ruồi đậu mép ngẩn ngơ
Đêm
khép cửa / lòng còn ngỏ gió
Còn
anh / hai thứ tóc trên đầu / chưa vợ
Mưa
dầm bến Nứa lỡ xe
Đầu
gối ba lô xẹp mộng
Buồn
như một sự hiểu lầm
Còn
anh / con sài /vợ chửa
Sòn
sòn / hai năm đôi
Quanh
quẩn tã con / thuốc vợ
Còn
anh / mơ ước trong đầu tấy mủ
Bao
nhiêu dự định quay cuồng
Bức
bối, tay chân / đói thèm cửa sổ
Tàu
mơ neo nặng nợ rãnh đời.
6.
Xin
các anh hãy đến hàng tôi
Nếu
cần vui / tôi sẽ đi làm xiếc
Trồng
cây chuối ngược / đánh trống thổi kèn
Tôi
sẽ làm thằng hề / “ới a”/ bông phèng nghịch ngợm
Giành
giật mảnh vui / từ tiếng thở dài
Những
người ít cười / thường hay chết sớm
Tôi
sẽ xào thêm xanh thêm mộng
Tôi
sẽ làm thầy tướng / Chấp mấy tử vi / mấy bói bài xì
Người
làm thơ nào chẳng chút ít tiên tri
Nếu
những cái hàng ngày ỉ eo đê tiện
Mốc
nồm ăn meo khắp cả thân hình
Tim
tro nguội đến mèo không thèm ngủ
Tôi
sẽ chụm thơ tôi thành ngọn lửa
Sấy
lại tâm hồn mưa phùn
Trên
đường mưu sinh trường kỳ mệt mỏi
Tôi
sẽ tiếp máu thơ nóng hổi
Lên
dây cót lại trái tim
Bước
túc tắc / phố xanh mùa tíc tắc
7.
Để
tạo dựng một cửa hàng nho nhỏ
Tôi
đã đổi những ngày hớn hở / mười tám đôi mươi
Những
má gọi / những vườn cười chín tới
Tôi
đã sống những ngày lầm lũi
Quên
ngủ quên ăn
Tôi
đã chịu đau thương bất công hắt hủi
Tuổi
thơ làm hại tuổi trời (2)….
Tôi
vẫn đi / như cung mệnh / sao Đà la đầy dọa
Cho
đến lúc / trí trá / cường quyền / đểu giả
Không
còn hành hạ con người
Sao
ta chưa khai thác cung trăng / thành chỗ ở
Sao
mới sáu bảy mươi / đời đã vội về già
Đến
bao giờ mới có những thiếu nhi trăm tuổi
Ngậm
ngùi thương ông Bành tổ chết non
Những
bà mẹ vừa sinh con vừa hát
Chữ
tự do mùa thật hạt bát cười
1958.
HẬU TỪ
Đầu
phố Lãn Ông / có cửa hàng tạp vặt
Đăng
ký số 4210 / đứng tên Lê Đạt
Nhớ
xưa ba mươi năm
Cửa
hàng quan niêm phong (3)
Bút
độc quân ông Lành tẩy uế
Tuổi
sạch phục hồi / bán giấy vệ sinh
1989.
+ Đề từ này mới thêm vào
năm 1989
(1) Hàng
phở Tý nổi tiếng phố Huyền Trân Công Chúa sau đổi thành phố Bùi Thị Xuân
(2) Mất
một trường đoạn
(3) Bài thơ "Cửa hàng
Lê Đạt" được sáng tác năm 1957, thời điểm Hà Nội gay gắt cải tạo tư sản.
Bài thơ đương ấn loát thì
thợ nhà in Xuân Thu đình công ngừng máy, cho rằng bài thơ đi ngược lại quyền
lợi giai cấp công nhân và bản thảo cũng bị mất luôn.
Sau khi tác giả được phục
hồi, tháng 3-1989, Bộ Nội vụ có nhã ý trả lại một bản đánh máy (mất một số
trang).
Những đoạn thất lạc được
tác giả ghi lại theo trí nhớ, hoặc cực chẳng đã viết mấy dòng bổ sung cố gắng
duy trì mạch thơ.
Và thêm đoạn Hậu từ
Ông Lành là một trong
nhiều biệt danh của nhà thơ Tố Hữu, phụ trách tư tưởng thời bấy giờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét