Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

Bi Kịch Trịnh Công Sơn

tcs

 Trịnh Cung

Tôi  gặp Trịnh Công Sơn vào năm 1958 tại Huế;  lúc đó Sơn khoảng 17 tuổi và tôi 18 tuổi. Chúng  tôi chơi với nhau vì cùng tâm hồn thi ca, và bởi vì  lúc đó tôi chưa hề là họa sĩ.
Sơn thích thơ của tôi và đã phổ bài “Cuối  cùng cho một tình yêu” năm đó. Trước đó,  Trịnh Công Sơn đã viết “œớt Mi”,  “Thương một người” và “Nhìn  những mùa Thu đi”. Ngôn ngữ của  “œớt Mi”, “Thương một  người” và “Nhìn những mùa Thu đi” còn  nhẹ nhàng, và còn có gì đó ảnh hưởng củaÐặng  Thế Phong trong “Giọt Mưa Thu” hoặc  “Buồn Tàn Thu” của Văn Cao – nhưng  đến khi Sơn phổ nhạc bài thơ của tôi,  nhạc của Sơn bắt đầu một  chương khác, do ngôn ngữ của bài thơ lúc đó  rất là mới. Tôi đã dùng những chữ  “đói”, “mỏi” trong thơ, mà lúc này  Sơn lại thích bài thơ đó.
Tuy nhiên theo tôi, bài Diễm Xưa của Sơn mới là  mở đầu của một TCS hoàn toàn mới lạ  và cực kỳ hấp dẫn trong nhạc trẻ,  giới trẻ hồi đó.
Cuộc đời của Sơn là một bi kịch. Ba  của Sơn mất lúc anh đang học ở Chasseloup  Laubat – một trường dạy chương trình Pháp -  và đang chuẩn bị thi bac thì Sơn phải bỏ  học để về chịu tang ba.
Sơn rất giỏi thể thao. Anh tập 10 môn phối  hợp rất được chú ý ở trường  học. Sơn cũng giỏi về NhuÐạo và Boxing.  Trong một buổi dợt với người em là  Trịnh Quang Hà – anh đã bị một cú choàng vai, và  bị tổn thương phổi rất nặng, nên  phải bỏ cuộc, và nằm dưỡng bệnh hai  năm. Nếu Sơn không bị những sự kiện  đó, tôi nghĩ là Sơn sẽ đi học ở Paris  và sẽ trở thành một tiến sĩ, một bác  sĩ, một kỹ sư … chớ không phải là  một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Tôi cho biến cố đó đã đặt Trịnh Công  Sơn vào tình trạng cô đơn, tuyệt vọng.  Sơn tập chơi guitare, tự học guitare với  một người bạn, rồi sau đó viết ca  khúc “ướt Mi”, “Nhìn Những Mùa ThuÐi”.
Khi tôi gặp Sơn, thì anh đã bình phục – Sơn không  có điều kiện trở lại Sài Gòn để  học tiếp ở Chasseloup Laubat vì gia đình anh bị  phá sản,
Sau đó – để tránh cho Sơn khỏi phải đi  quân dịch, một số bạn như Hoàng Phủ  Ngọc Tường, Ngô Kha đã giúp Sơn thi vào  trường Sư phạm Quy Nhơn.
Ca khúc Biển Nhớ đã ra đời tại  trường sư phạm Quy Nhơn – trong thời  gian này. Và nhân vật để Sơn viết bài Biển  Nhớ là một người bạn gái có tên là Khê, nên có  cái câu “Ngày mai nối bước Sơn Khê.”
Sau đó Sơn lên B’Lao nhận chức trưởng giáo  của một trường Thượng có hai lớp,  cách nhà trọ khoảng năm bảy cây số. Sơn  phải đạp xe vào làng để dạy. Tôi lên  thăm Sơn, và đưa Sơn raÐà Lạt để  chơi cuối tuần – một căn phòng trọ  với bốn bức vách đầy chim và bao thuốc lá  Bastos – ở đó Sơn đã bắt đầu sự  nghiệp âm nhạc của anh với những bài  nhưÐàn Bò Vào Thành Phố, như Khi Mặt Trời  Ngủ Yên, như Tiếng Hát Dạ Lan. Và đó cũng là  thời gian anh viết những ca khúc về thân phận,  và những tình khúc.Ðó chính là thời điểm tôi và  Sơn gặp Khánh Ly tại một phòng trà ca nhạc  nhỏ ởÐà Lạt.
Thật ra, người hát đầu tiên nhạc  Trịnh Công Sơn và làm cho công chúng yêu nhạc Sài Gòn  biết đến Sơn không phải là Khánh Ly mà là Thanh  Thúy. Sau đó Trịnh Công Sơn viết bài Thương  Một Người để tặng cho chị với  câu: “thương ai về ngõ tối, sương  rơi ướt đôi vai…”
Tuy nhiên, theo tôi, người giữ lái con đò âm nhạc  của TCS trên dòng sông của đất nước chính  là Khánh Ly kể từ khi Diễm Xưa ra đời.  Cuộc gặp gỡ một cô ca sĩ bé nhỏ trông rất  là nhếch nhác ởÐà Lạt lại là một  định mệnh. Sơn đi tìm một người  ca sĩ trẻ – hoàn toàn vô danh và Sơn bắt đầu  từ giọng hát của người ấy với  sự tập luyện của chính anh, bởi vì lúc đó  Sơn không quen biết những ca sĩ nổi tiếng  của Sài Gòn. Và anh nghĩ dễ hơn là đi tìm  một ca sĩ vô danh như Khánh Ly lúc đó. ánh sáng  của định mệnh đã chỉ cho Sơn  đến với Khánh Ly – và từ đó Khánh Ly đã tìm  được nơi nương tựa và nơi phát  triển tiếng hát của mình lên đỉnh cao.
Chúng tôi khuyến khích Sơn về Sài Gòn, bỏ dạy  học – một cái nghề không thích hợp và không  xứng đáng với Sơn. Tôi có căn phòng rất  nhỏ ở đường Trương Minh Giảng.  Sơn từÐà Lạt về và đã ở lại với  tôi trong nhiều năm. Căn phòng đó ở gần  chợ Trương Minh Giảng, bên kia đường là  nhà của Bùi Giáng – cũng trong một cái xóm nghèo. Nhà tôi là  nơi tạm trú đầu tiên của TCS khi anh về Sài  Gòn. Chính họa sĩÐinh Cường một trong những  người bạn rất thân với Sơn – cũng  thường ghé đến đó.Ðôi khi ba chúng tôi ngủ  chung trong một chiếc chiếu, và đã sống  với nhau bằng đồng tiền dạy học  của tôi.
Từ đó Sơn gặp anh em văn nghệ sĩ  ở Sài Gòn. Anh bắt đầu xuất hiện tại  sân trườngÐại Học Văn Khoa ở  đường Lê Thánh Tôn nơi có trụ sở của  Hội Họa Sĩ Trẻ và sau lưng đó là trụ  sở của CPS nơi màÐỗ Ngọc Yến,  TrầnÐại Lộc, Hà Tường Cát… đã hoạt  động chương trình mùa hè ở đó.
Tại sân cỏ này, Sơn đã giới thiệu Khánh Ly  và chị đã đi chân trần và hát cho Sinh Viên nghe.  Rất nhanh họ trở thành thần tượng  của tuổi trẻ Sàigòn, do tính chất mới mẻ  và trẻ trung của nó. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly  trở thành một hiện tượng âm nhạc ngay lúc  đó.
Phong trào du ca, của anh NguyễnÐức Quang,… đã ra  đời cùng thời điểm đó. Tôi cho đó là  một thời điểm lịch sử – thật  sự bùng nổ về văn nghệ của giới  trẻ trong đó có chúng tôi – hội họa sĩ trẻ  Việt Nam.
Chính thời đại đã sản sinh ra những  hiện tượng như vậy và TCS và Khánh Ly đã là  những khuôn mặt nổi bật trong giới trẻ  bấy giờ.
Trịnh Công Sơn – nối tiếp cao trào đo ù- đã  dấn thân thêm nhiều bước trong lãnh vực âm  nhạc của mình gần gũi với xã hội, và  thời cuộc đất nước hơn. Những Ca  Khúc Da Vàng, rồi đến Kinh Việt Nam ra đời  trong giai đoạn này. .
Người ta gọi nhạc Trịnh Công Sơn – ở  một số ca khúc – là nhạc phản chiến . Tôi  đồng ý với anh Phạm Duy, chữ “phản  chiến” không đầy đủ ý nghĩa của  nó, bởi vì chữ phản chiến nghe ra có vẻ  kết án, có vẻ phải gánh chịu cái hậu quả  của sự thất bại của Miền Nam . Tôi cho là  chữ “thân phận” của người Việt  thì khái quát hơn.
Một thanh niên Việt Nam ở bất kỳ thời  đại nào, vẫn đầy sự hồn nhiên, và  vẫn đầy lòng lương thiện để có  một lý tưởng cho dân tộc, cho sự công  bằng, cho sự không đổ máu , cho sự đoàn  kết, cho sự thương yêu … và cái chất đó có  hầu hết ở chúng ta, và có hầu hết ở các  lứa tuổi đang bước vàoÐại Học …  nhưng tuổi trẻ không bao giờ lường  trước được những âm mưu của chính  trị – cho nên sự hồn nhiên đó phải trả  giá.
Trịnh Công Sơn viết những bài Nối vòng tay  lớn, Huế-Sài Gòn-Hà Nội 20 năm xa vẫn còn xa  …Ðể làm gì ?Ðể ước mơ đất  nước hòa bình thống nhất – để  ước mơ anh em bắt tay nhau khi mà người di cư  đã viết về “Hà Nội ơi ta nhớ…”,  thì rõ ràng không ai lại không nhớ Hà Nội nếu  bỏ quê hương ra đi, không ai không muốn gặp  lại người thân … thì Trịnh Công Sơn đã  đứng làm kẻ chịu vác cái thánh giá đó với  bao nhiêu bi kịch sau đó .
Tôi và Sơn là hai người bạn, khác nhau hai hoàn  cảnh. Tôi là sĩ quan của quân lực Việt Nam  Cộng Hoà. Tôi chấp nhận đi ThủÐức  bởi vì tôi không muốn sự bất hợp pháp. Tôi là  một công dân tôi phải làm việc của người  công dân, cho dù là chính quyền đó có thối nát, có gì  đi nữa – tôi không chấp nhận sự bất hợp  pháp cho nên tôi đi lính. Tôi thi hành nghĩa vụ của  mình. Còn Sơn thì khác, anh không chấp nhận chuyện  đó, Sơn chỉ đi vì lý tưởng của mình.
Bởi vì chúng ta là những con người chọn dân  chủ, chọn tự do thì phải tôn trọng tự do  của kẻ khác; vì vậy cho nên chúng tôi vẫn chơi  với nhau trong tình người, còn việc làm của ai  thì người đó đeo đuổi riêng của  họ.
Đến ngày 30 tháng Tư thì Sơn ở lại. Tôi  nhớ buổi chiều đó,Ðỗ Ngọc Yến  đến đón Sơn với một nhàbáo Mỹ  đề nghị Sơn đã có máy bay đưa gia  đình Sơn đi Hoa Kỳ. Tôi rất muốn đi Hoa  Kỳ nhưng màÐỗ Ngọc Yến lại không hỏi  tôi. Sơn ở lại thì tôi cũng đành ở lại.  Tôi thì đành thôi và sau đó thì tôi đi học tập ba  năm.
Còn Sơn cũng không hơn tôi đâu. Khi các bạn đã  rời khỏi đất nước ngày 30 tháng Tư, có  lẽ các bạn không biết chuyện gì đã xảy ra  cho Sơn. Sơn phải trốn ra Huế sau khi  được đánh tiếng là sẽ bị thủ  tiêu bởi vì tính chất hai mặt của Sơn trong âm  nhạc và tính chất hai mặt của Sơn trong  cuộc đời. Bởi vì Sơn là bạn của  những nhân vật cao cấp của chính quyền Sài Gòn.  Sơn đã từng viết Cho Một Người  Nằm Xuống về cái chết của Lưu Kim  Cương và đồng thời với Hai Mươi Năm  Nội Chiến từng ngày, thì điều đó  người cộng sản không chấp nhận. Tôi nghe  kể lại cuộc họp ở trong khu người ta  lên án Trịnh Công Sơn.
Chúng ta không biết bi kịch đó cho nên chúng ta có  những ngộ nhận đáng tiếc. Sau đó Sơn  phải về Huế để tìm một nơi nương  tựa bởi vì ở đó Sơn có nhiều anh em. Anh hy  vọng là họ sẽ giúp đỡ mình; nhưng, tránh võ  dưa gặp võ dừa, ở đây Sơn còn bị  nặng hơn nữa là bị tố cáo tại các  trường học, các biểu ngữ giăng lên.  Sơn phải lên đài truyền hình Huế nhận  lỗi của mình – mà người ta gọi là bài thu  hoạch. Sơn rất khéo léo trong bài nhận lỗi  đó. Chính Sơn kể cho tôi nghe – Hoàng Phủ Ngọc  Tường không đồng ý bài đó, nói phải  viết lại vì chưa thành thật. Bạn thấy  chưa?
Người ta quyết liệt ghê gớm lắm trong  sự kiểm soát. Sơn đã đóng cửa nhà mình,  không tiếp Hoàng Phủ Ngọc Tường trong  nhiều năm. Sau đó, Sơn phải đi thực  tế, tức là đi để biết người nông  dân cày bừa cực khổ như thế nào. Sơn  đi trên những cánh đồng còn rải rác những  chông mìn. Sơn đã thoát chết trong một lần;  một con trâu đã cứu Sơn khi nó đạp quả  mìn mà đáng lẽ Sơn sẽ đạp.
Bởi vì tài năng âm nhạc của Sơn quá lớn,  cho nên trong số những người lãnh đạo  đất nước đó, cũng có người khôn  ngoan hơn, biết cách thức hơn để giữ  Sơn lại bằng cách bao bọc cho Sơn khỏi  những tình huống hiểm nghèo như vậy. Họ  đã tìm cách đưa Sơn về Sài Gòn, trả lại  hộ khẩu cho Sơn, tạo điều kiện  để cho Sơn yên tâm sống ở Sài Gòn.
Rất nhiều người nghe nhạc Sơn thầm  lén nhất là từ miền Bắc, trong đó có nhiều  đảng viên cộng sản, nhưng không ai dám công khai  thừa nhận nhạc của Sơn là tài sản  của đất nước và Sơn không  được phổ biến âm nhạc lúc đó -  hiển nhiên âm nhạc hải ngoại là phản  động. Ngay cả Sơn còn không được  phổ biến, mà phải đợi một thời gian  đổi mới và cải tổ. Vì vậy cho nên,  Sơn là một bi kịch thu nhỏ của bi kịch  đất nước. Và Sơn đã nghe được  những luận điệu chống mình ở tại  hải ngoại, nên Sơn rất sợ mặc dù có  nhiều lời mời ở các đại học.  Sơn đều không dám đi. Sơn từ chối, vì  Sơn sợ cộng đồng ở đây sẽ  đả đảo sẽ gây ra những nguy hiểm cho  Sơn. Cho đến ngày Sơn mất. Có người  đãvề đề nghị đưa Sơn sang đây  để thay gan cho Sơn miễn phí nhưng Sơn  cũng từ chối.
Trong thời gian 25 năm sau ngày mất Sài Gòn, tôi cũng  kẹt ở lại – tôi đã chơi với Sơn, và  tôi đã không làm gì được cho Sơn – để  Sơn bị một căn bịnh đã dẫn tới  hậu quả tàn khốc, tức là nghiện  rượu. Bởi vì buồn, bởi vì cô đơn,  bởi vì không biết sử dụng thời gian  để làm gì … vì những ca khúc viết ra đều  bị phê bình nặng nề – như bài “Em ra đi  nơi này vẫn thế …” ở bên này cũng  kết án bài đó – ở bên kia lại kết án là  “Tại sao đất nước đã thay da  đổi thịt mà anh lại viết là em ra đi  nơi này vẫn thế? Sài Gòn vẫn còn nguyên à?”  Người nghệ sĩ luôn đi giữa hai lằn  đạn! Có ai hiểu được là Sơn cô  đơn như thế nào!
Và trong nhiều sáng tác của anh, nếu chúng ta tinh ý, thì  chúng ta sẽ thấy tư tưởng của TCS sau ngày  mất nước. Sơn đã viết  “‡ường chúng ta đi, đi không bao giờ  tới …” Những ca khúc nói lên sự quạnh  quẽ, sự tuyệt vọng, sự bất an của  mình.Ðó là một dòng nhạc đặc biệt mà có  người không hiểu chê là thua những ca khúc anh  viết trước 75 để chỉ chấp nhận  tình khúc của anh mà thôi. Chúng ta không biết đến  một dòng nhạc triết lý và đầy đau thương  đã ra đời một cách lặng lẽ âm thầm.
Ngay cả bài Nhớ mùa thu Hà Nội cũng đã bị  cấm hai năm – chỉ vì câu – chỉ vì câu gì các bạn  biết không? Mùa Thu – chữ Mùa Thu Hà Nội đã trở  thành thuật ngữ Cách Mạng Mùa Thu – thì TCS đã  viết “Từng con đường nhỏ sẽ  trả lời cho ta … đi giữa mùa Thu Hà Nội  để nhớ một người và nhớ mọi  Người …”
Người ta đặt câu hỏi: Nhớ một  người là nhớ ai? Và từng con đường  nhỏ tại sao lại phải trả lời? Hà  Nội, những con đường của Hà Nội  tại sao lại phải trả lời? Trả lời  cho ai? Trả lời cái gì? Ðó là nhớ Khánh Ly và Khánh Ly  sẽ đem phục quốc về … Với sự suy  diễn như vậy , méo mó như vậy, bài hát đó  đã bị cấm hai năm. Các bạn có biết cái  nỗi đau của người sinh ra đứa con tinh  thần như thế nào?
Và chúng ta sai hay đúng, hãy tự soi lấy mình – khoan  kết án người khác sai hay đúng – bởi vì trong  chúng ta cũng đều bị lừa dối ! Chúng ta  đã trưởng thành chưa sau nhiều lần bị  lừa dối về chính trị – thì chúng ta đừng  trách Trịnh Công Sơn và đừng trách những  người nghệ sĩ nhạy cảm và chân thật  với cuộc đời với con người.
Tôi xin kết thúc ở đây – để dành thời gian  cho các bạn khác – tôi là một người bạn – là  một nhân chứng sống trong nhiêu năm với TCS.  Những ngày tháng cuối cùng của anh, tôi đã ở bên  anh mỗi lần tôi có mặt ở Việt Nam. Buổi  sáng, tôi ngồi với anh dưới bóng cây để  uống trà, để nhìn nhau cho đỡ nhớ,  để nói với nhau một vài thông tin về bạn  bè – rồi đi về. Sơn ngồi ở cái  vườn trên gác nhà anh, có một cây hoa sứ già 28  năm, một giàn hoa giấy … nó đã trở thành  một cánh rừng nhỏ của Sơn và tôi đã nhìn  Sơn tàn phai theo nắng chiều qua những tia nắng  hoặc cuối mùa, cuối ngày qua những chiếc lá  của cánh rừng bông giấy. Và thỉnh thoảng có vài  tiếng chim hót như chia sẻ cái nỗi cô đơn  của Sơn. Buổi chiều, tôi và Sơn đi ra ngoài  một cái nhà hàng mà các bạn chắc còn nhớ, đó là  Givral để nhìn qua bên kia khách sạn Continental  để nhìn cuộc đời đi qua, để nhìn  những nguời Việt Nam đang hấp tấp  vội vã trên đường phố, để nhìn  một chút trời xám , để nhìn vài cánh én …  RồiÐi Về.
Sơn thèm đi ra phố – Sơn thèm hơi của thành  phố. Bởi vì chúng tôi là những con người đã  gắn bó với Sài Gòn từ lúc trẻ cho nên  “Chiều một mình qua phố …” hay  “Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn  gác đìu hiu …”Ðó là đời sống của chúng  tôi, và nó theo chúng tôi mãi mãi. Và Trịnh Công Sơn – hôm nay tôi  được dịp để nói về anh, về cái  sự tuyệt vời chịu đựng một bi  kịch kéo dài cho tới ngày mà căn bịnh quái ác đã  đục khoét tinh thần sức khỏe của anh cho  đến hơi thở cuối cùng. Bởi vì sự cô  đơn thật không có điểm tựa để làm  việc. Và anh đã chết vì cơn bịnh này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét