Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2013

Ngã xuống trên địa đầu Lũng Cú


Mai Thanh Hải - Dưới mái cong - trên nền gạch dẫn bằng bậc tam cấp, lại lặng lẽ tấm bảng nhỏ xây bằng xi măng, chữ vàng trên nền đen, ghi tên 24 sĩ quan, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và dân quân địa phương đã ngã xuống, trong khi bảo vệ biên cương Lũng Cú. Mặc dù trên bia, ở mục "Nơi hy sinh", người ta không dám ghi cụ thể mà chỉ chung chung là "Mặt trận phía Bắc", nhưng xem ngày hy sinh, ai cũng hiểu là đại đa số những người ngã xuống, trong những năm giữ đất, đánh trả quân xâm lược Trung Quốc trong cả chục năm trời (1979-1989)...

Ai lên Hà Giang, nhằm hướng Đồng Văn cao nguyên đá cũng tìm đến Lũng Cú, trèo lên cột cờ, ngắm màu vải đỏ uốn lượn phần phật cùng sao vàng trên bao la trời xanh, núi thẳm, đá xám để chiêm nghiệm niềm kiêu hãnh, thân thương 2 chữ Tổ quốc Việt Nam.

Cái từ "địa đầu biên cương" có thể nghe quen tai khi lên biên giới Hà Giang, nhưng ít người biết rằng: Lũng Cú là mảnh đất thượng cùng cực Bắc Việt Nam với căn nhà, thửa đất đầu tiên của dải đất hình chữ S, nằm ở thôn Xéo Lủng giáp địa phận Ma Ly Pho, Vân Nam, Trung Quốc bằng 16km đường biên, 11 cột mốc bằng thung lũng Thèn Ván sâu thăm thẳm, nằm bên phải và dòng Nho Quế xanh biếc lạ kỳ phía tay trái. 

Lên Lũng Cú, cũng ít người để ý phía bên phải đường từ Trạm Biên phòng Lũng Cú lên Cột cờ, lặng lẽ 1 mái vòm cong vút đặt trên 4 trụ tròn xung quanh lộng gió, mô phỏng mái đình Bắc Bộ.

Dưới mái cong - trên nền gạch dẫn bằng bậc tam cấp, lại lặng lẽ tấm bảng nhỏ xây bằng xi măng, chữ vàng trên nền đen, ghi tên 24 sĩ quan, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và dân quân địa phương đã ngã xuống, trong khi bảo vệ biên cương Lũng Cú.

Mặc dù trên bia, ở mục "Nơi hy sinh", người ta không dám ghi cụ thể mà chỉ chung chung là "Mặt trận phía Bắc", nhưng xem ngày hy sinh, ai cũng hiểu là đại đa số những người ngã xuống, trong những năm giữ đất, đánh trả quân xâm lược Trung Quốc trong cả chục năm trời (1979-1989).

Những người lính hy sinh đều ở tuổi 18-20 và có khi học cùng nằm xuống trong cùng 1 ngày (12/4/1985 và 27/5/1985), bởi đạn nhọn của lính địch thuộc Trung đoàn Biên phòng 12, Thám báo và dân binh Trung Quốc, khi ào ạt, khi lén lút, khi ùn ùn kéo sang, khi đột nhập vài ba mống... cũng chỉ để lấn đất, nhổ cột mốc và đốt nhà, cướp gia súc của đồng bào ta.

Từ sau những ngày cuối năm 1989, tên tuổi của những người lính ngã xuống khi bảo vệ biên cương, không được ghi lên tấm biển xi măng dưới chân Cột cờ Lũng Cú nữa. Nhưng mồ hôi, máu của họ đổ xuống vùng đất thượng cùng Tổ quốc để giữ yên vùng biên ải, không để mất đất mất dân thì đời đời được ghi trong từng vách đá, thớ đất, ngọn cỏ, gốc cây.

Cũng trên mảnh đất địa đầu này, người dân Xéo Lủng - Xóm địa đầu của xã Lũng Cũ địa đầu với chỉ trên 30 nóc nhà và nghèo nhất cái xã nghèo này, không quên mối thù với quân ăn cướp ùa sang từ bên kia biên giới.

Chỉ từ năm 1991 đến năm 1998, chúng đã 2 lần kéo đốt phá nhà cửa, dồn dân Xéo Lủng vào sâu trong đất Việt. 2 lần xóm bị đốt, nhưng người Xéo Lủng vẫn trở về dựng lại nhà cửa, quyết không rời bỏ đất cha ông, giữ lấy từng tấc đất Tổ quốc.

Đáng kể nhất là sự việc ngày 4/3/1992, Trung Quốc cho gần 30 lính, dân mang theo vũ khí xâm nhập vào xóm Xéo Lủng, ngang ngược tuyên bố đất Xéo Lủng là lãnh thổ của chúng rồi nổi lửa đốt phá, làm cháy rụi 18 ngôi nhà, hơn 3,5 tấn lương thực và nhiều tài sản khác của người dân.

Hôm nay lên Lũng Cú, Hà Giang. Mình ngồi sân nhà Bí thư thôn Xéo Lủng Sùng Mí Mỷ nhìn xuống 3 cột mốc nối tay nhau, kiên gan cùng người chạy từ thôn xuống sông Nho Quế giữ đất.

Bên kia biên giới, phía Trung Quốc cũng mới dựng cái chuồng cu cao lênh khênh, ngất nghểu gọi là "Đài quan sát" để nghiêng ngó sang Lũng Cú, rình rập theo dõi như cú ngày. Cái sự bình yên, với người có máu tham ở bên là khó lắm, nên không chỉ người lớn mà ngay cả đứa trẻ con Xéo Lủng, cũng cảnh giác khi thấy người lạ đến... gần bản.

Riêng với người dân Lũng Cú, việc rèn giũa tinh thần cảnh giác cụ thể là mỗi ngày đi qua, dừng lại nhẩm đọc tên những dòng trên bảng. Đọc để nhớ: Có những người đã nằm xuống, vì Lũng Cú địa đầu...

Xin được ghi lại tên các anh chị, để tri ân và để những ai khi vào mạng gõ từ khóa "Liệt sĩ tại Lũng Cú", sẽ tìm ra kết quả và biết, để đến Lũng Cú cũng dừng lại, thắp nhớ 1 nén hương thơm...
------------------------------------------------------------------------------------------------------------

DANH SÁCH LIỆT SĨ NGHĨA TRANG LŨNG CÚ 

1/ Vàng Mí Chứ, sinh năm 1931, tại xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Hy sinh 12/1959 khi đang là Xã Đội trưởng.

2/ Ly Thị Mỷ, sinh năm 1964, ở xã Lũng Cú, hy sinh ngày 20/8/1981 khi là Dân quân xã Lũng Cú

3/ Thào Mý Hờ (sinh 1960 - hy sinh ngày 20/11/83), Dân quân của xã Lũng Cú 

4/ Giàng Mý Páo (1965-21/9/85),Dân quân xã Lũng Cú.

5/ Hoàng Văn Hinh (1952- 8/1/1972) nhập ngũ tháng 10/1971, quê Ma Lé, Đồng Văn, Hà Giang. Hy sinh khi đeo cấp hàm Binh nhất - chiến sĩ thuộc đơn vị C1D6 F304.

6/ Hoàng A Páo (1946 - 27/3/1968), nhập ngũ 4/1966, quê cũng ở Ma Lé; Binh nhất - chiến sĩ thuộc C5D6. 

7/ Hoàng A Ngân (1946- 29/5/1969), nhập ngũ 4/1968, quê xã Ma Lé; C5D6; Hạ sĩ - chiến sĩ

8/ Sùng Mí Nhù (1948- 25/7/1971), nhập ngũ 1967, quê Ma Lé; C2D7K16; Trung sĩ - A phó.

9/ Sùng Mí Xá (1960-1979); nhập ngũ 3/1978; quê xã Ma Lé; F346; Binh nhất - chiến sĩ

10/ Lương Văn Quán (5/1962 - 31/5/1984); nhập ngũ 2/1982; quê ở Đông Thọ, Sơn Dương, Hà Tuyên (nay là huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang); khi hy sinh là Hạ sĩ - A trưởng

11/ Hoàng Văn Thuận, (11/1964-15/6/1984), quê Yên Nguyên, Chiêm Hóa, Hà Tuyên; nhập ngũ 2/1982; C3D1; Hạ sĩ - chiến sĩ; 

12/ Nguyễn Tân Lý, (1958-12/4/1985); quê Hưng Long, Ninh Thanh, Hải Dương; nhập ngũ 2/1982; C3D1; Hạ sĩ - A trưởng

13/ Tạ Văn Vân, sinh1965; quê Tân Thịnh, Chiêm Hóa, Hà Tuyên, nhập ngũ 2/1984; C10; là Trung sĩ - Văn thư hy sinh ngày 15/6/1987

14/ Vũ Văn Phúc, sinh 10/1957; quê quán Vũ Văn, Vũ Thư, Thái Bình; nhập ngũ 2/1982; là Hạ sĩ - chiến sĩ đơn vị C6D2, hy sinh ngày 30/3/1985

15/ Lý Văn Dinh, sinh 1969; quê Ngọc Hồi, Chiêm Hóa, Tuyên Quang; nhập ngũ 9/1986; đơn vị C1D2; Binh nhất - chiến sĩ hy sinh ngày 27/10/1988

16/ Ma Văn Đạt, sinh năm 1966; quê ở Bình An, Chiêm Hóa; Hà Tuyên; nhập ngũ 2/1986; đơn vị C2D2; Hạ sĩ - chiến sĩ; hy sinh ngày 8/5/1988

17/Hoàng Văn Quyền, sinh 1963; quê Hương Đạo, Tam Đảo, Vĩnh Phúc; nhập ngũ 2/1982; đơn vị C3D1; Hạ sĩ - chiến sĩ; hy sinh ngày 27/5/1984

18/ Hoàng Văn Lực; sinh năm1962; quê Minh Quang, Chiêm Hóa, Hà Tuyên; nhập ngũ tháng 12/1980; đơn vị C3D1;Thiếu úy - B trưởng hy sinh ngày 27/5/1984

19/ Lâm Văn Tiến, sinh năm 1964; quê Hoàng Khai, Yên Sơn, Hà Tuyên; nhập ngũ 2/1982; đơn vị C6D2; Binh nhất - chiến sĩ hy sinh ngày 8/3/1986

20/ Nguyễn Văn Bình, sinh năm 1958; quê Tân Thành, Hàm Yên, Hà Tuyên; nhập ngũ 3/1979; đơn vị C3D1; Binh nhất - chiến sĩ hy sinh ngày 18/3/1982

21/ Đào Văn Vượng, 1960; Minh Hương, Hàm Yên, Hà Tuyên; 2/82; C1D1; Hạ sĩ - chiến sĩ; 12/7/84

22/ Nguyễn Văn Hà, 1964; Từ Đà, Phong Châu, Vĩnh Phúc; 2/82; C3D1; Binh nhất - chiến sĩ; 4/1984

23/ Ma Văn Tiến; 1962; Hồng Sơn, Yên Sơn, Hà Tuyên; 3/82; C3D1; Binh nhất - chiến sĩ; 12/4/1985.

24/ Hà Văn Sinh, 1965; Trung Hà, Tuyên Hóa, Tuyên Quang; 2/1982; C1D1; Hạ sĩ - chiến sĩ; 12/4/1985.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét