Tự lực văn đoàn, nếu sau này kể thêm Trần Tiêu (1900-1954) thì gồm 8 cây bút nổi
tiếng thời kỳ 32-45, một giai đoạn thịnh
vượng của nền văn học chữ Quốc ngữ.
Các nhà nghiên cứu
thường xếp thứ tự trong nhóm Phong
hóa, sau đó là Tự lực
văn đoàn, căn cứ vào việc có mặt và gia nhập
trước sau, thì Nhất
Linh, Khái Hưng đứng
hàng đầu, kế tiếp là Hoàng
Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ gần
như đồng thời góp mặt. Thế
Lữ tới với Văn đoàn qua Tú
Mỡ, sau khi tờ Phong
Hóa đã về tay Nhất
Linh. Qua Thế
Lữ, Xuân Diệu bước
vào thi đàn và tới với Văn
đoàn. Như thế nếu Thế Lữ thường được
coi là ngôi sao thứ sáu của Văn
đoàn thì Xuân Diệu chính là đệ
thất tinh của nhóm.
Xuân Diệu tức Ngô
Xuân Diệu sinh
năm 1916, gốc Trảo
Nha, Can Lộc, Hà Tĩnh nhưng
ra đời ở Bình Định trong gia đình một nhà nho bình
thường. Thuở ấu thơ, ông theo học
trường Quy
Nhơn và
trường Khải
Định, đỗ
Tú Tài, ra Hà nội và góp mặt trên tờ Ngày nay và được thu nhận vào Tự lực văn
đoàn vào 1938.
Nhà thơ qua đời
năm 1985, và
trước khi chết để lại một số lượng thơ
hàng mấy trăm bài, ngoài những thiên nghị
luận, biên khảo văn học và bút ký.
Tác phẩm chính của Xuân Diệu trước 1945, gồm hai tập
thơ có giá trị là Thơ
thơ (1938) và Gửi hương
cho gió (1945 ) và một
tập truyện ngắn có tên Phấn
thông vàng (1939).
Sau 1945, Xuân Diệu tiếp tục làm
thơ và từng được một giải
thưởng văn học gây nhiều tranh cãi (với
tác phẩm Ngôi sao-1955-
xem lại phong trào Nhân
văn Giải phẩm sẽ rõ).
Ông cũng là tác giả của hai thi
tập chạy theo nhu cầu thời cuộc không có mấy giá trị văn học như Một khối
hồng (1964) và Hai đợt
sóng (1967). Ngoài ra, ông
còn viết nhiều tập nghị luận văn
học như Đi
trên đường lớn (1968)
và nghiên cứu văn học như Ba thi
hào dân tộc (1959), Phê bình giới thiệu
thơ (1960) và Hồ Xuân Hương bà chúa thơ nôm (1961).
Ngày nay, người yêu văn chương
chỉ nhớ ông là nhà thơ tiền chiến và là một thi sĩ của tình yêu, có người còn
gọi ông là “ông hoàng của thơ tình” vì ông có những lời ca tụng ái tình nồng
nàn và nhân bản nhất.
Thực vậy, Xuân Diệu có hàng trăm bài thơ tình và
bài nào cũng đậm đà, tha thiết. Khi mới
được Thế Lữ chọn bài Với bàn tay ấy đăng trên tờ Ngày nay vào năm 1935, chàng tuổi trẻ họ Ngô, ở tuổi
hai mươi (ông sinh năm 1916), đã có những
câu thơ ca tụng tình ái cực kỳ lãng mạn và rất nhiều bâng khuâng:
Bóng chiều
đi vụt bỗng đêm nay
Tôi lại đa
mang hận tháng ngày
Dưới
ánh trăng cười tôi kiếm mãi
Dấu bàn tay ấy ở trong tay!
Cho tới khi
mái tóc pha sương, bạn bè xa lánh, cơn mê vụt
tỉnh, ông lại quay trở về với tình ca và được
nhiều người biết với bài Dấu
nằm sáng
tác năm 1977, có những dòng bộc lộ lửa đam mê
còn rực trong tim:
Dấu người
yêu, dấu thanh thanh
Mình trong chăn đắp, tóc
quanh gối nằm
“Ghe lui còn để dấu dằm”
Người
yêu đâu vắng, dấu nằm còn thương!
Từ “dấu bàn
tay” tới “dấu nằm”, Xuân Diệu vẫn chẳng khác, vẫn là kẻ đam mê tình ái, một kẻ ham sống
theo phương châm “carpe
diem” của chủ nghĩa cá nhân chứ chẳng phải là kẻ thích chính trị hay thiên
về tư tưởng
xã hội.
Nói tới thơ Xuân
Diệu không thể không thấy
điều này: Bản chất của Xuân
Diệu là
con người ham sống, yêu đời tới mức
độ cuồng nhiệt, nhưng tình yêu nơi
ông đồng nghĩa với hưởng thụ thực phẩm trần gian thỏa
mãn nhu cầu giác quan chứ không phải thứ tình thanh cao bay bổng.
Đam mê cuộc
sống là chất liệu sáng tác rất bền và dồi dào của nhà
thơ. Cũng vì thế độc
giả không lạ gì khi gặp những hình ảnh yêu cuồng, sống vội phảng phất nguồn cảm
hứng của Baudelaire,
Rimbaud và Verlaine trong
thơ Xuân
Diệu tiền chiến
như:
- Hỡi xuân nồng ta muốn cắn vào ngươi!
- Kẻo uống tình yêu dập cả môi.
- Ta bấu răng vào da thịt của đời
Ngoàm sự sống để làm em đói khát...
Xuân Diệu trong cuộc đời thực sống rất thực tế không mang phong độ của một
thi nhân như người
ta thường tưởng tượng.
Nhà thơ Đinh Hùng có thuật lại vài giai thoại
liên quan đến Xuân
Diệu trong tác phẩm Đốt
Lò Hương Cũ. Chẳng hạn thói
tham ăn của Xuân
Diệu:
“Đêm giao
thừa Xuân Diệu và Huy Cận rủ nhau về ăn tất niên ở Cẩm Giàng, quê
nhà Thạch Lam... Hai thi sĩ cùng thức trắng đêm bên nồi
bánh chưng, để rồi khi bánh luộc chín một mình nhà thơ Xuân Diệu đã ăn đúng bốn
chiếc bánh chưng lớn còn nóng hổi... chiếc bánh mỗi chiều
xấp xỉ 20 phân tây, bề dày cũng ít nhất 3, 4 phân tây!”
“Câu chuyện có thực, chính
Thạch Lam xác nhận. Anh chép miệng nói bằng một câu danh ngôn bất hủ ‘Hãy nói cho tôi biết bạn ăn uống
ra sao... tôi sẽ bảo bạn rõ bạn là người thế nào!’”
Nguyễn Tuân thuở sinh thời rất kỵ Xuân
Diệu, và các
nhà thơ nghệ sĩ, trừ Huy
Cận, bạn chí thân của Xuân
Diệu từ ngày còn học ở trường Khải Định (Quốc Học -Huế), thường
coi Xuân
Diệu cũng
như Nguyễn
Đình Thi là kẻ phàm
phu tục tử.
Sau 1945, thơ Xuân
Diệu xuống dốc thê thảm, ông
sáng tác hàng mấy trăm bài mà số bài làm độc giả hài lòng đếm
trên đầu ngón tay. Tại sao có hiện tượng này? Nguyên
nhân chính là do bản chất họ Ngô lấy mình làm trung tâm nhưng
bó buộc phải thích ứng với hoàn cảnh mới quá nhiều áp lực nên thi hứng
cạn nguồn.
Hậu thế còn nhớ,
trước 1945 Xuân
Diệu từng làm bài Cảm xúc, giãi bày quan
niệm thơ ca rất
tự do và rất lãng mạn của mình. Ta hãy nghe Xuân
Diệu lên tiếng về vai trò thi
nhân không khác gì Paul
Verlaine giảng giải về nghệ
thuật thơ ca trong Art
Poétique hay Thế Lữ trong Cây đàn
muôn điệu:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió,
Mơ theo
trăng và vơ vẩn cùng mây
Để linh
hồn ràng buộc bởi muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu
mến.
....
Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật
là muôn đá nam châm.
Nếu hương
đêm say dậy với trăng rằm
Sao lại trách nhà thơ tình
lơi lả?
Đương thời,
đã có người chỉ trích ông gay gắt vì có “một
quan điểm văn nghệ lạc hậu và phản
động”. Người
này chính là lãnh tụ mà ông tôn thờ như “Anh
cả”. Ông này chính là Sóng
Hồng. Sóng Hồng dù chẳng phải
là thi sĩ nhưng
đã có một thuở, sau 1945, được
coi như lãnh tụ văn hóa, đã châm biếm một cách dữ dội Cảm xúc của Xuân
Diệu trong một
bài thơ có tên Là
thi sĩ:
Nếu “thi sĩ nghĩa là ru với
gió,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”,
Ðể tâm hồn treo ngược ở cành cây
Hay lả lướt đìu hiu cùng ngọn liễu;
Nếu thi sĩ nghĩa là nhăn với mếu,
Nghĩa là van Thượng đế rũ lòng thương,
Hồn bơ vơ lạc lõng ở mười phương,
Khóc rả rích như ve sầu tháng hạ;
Nếu thi sĩ vùi đầu mài miết tả
Cặp “tuyết lê” hồi hộp trước tình yêu,
Cho cuộc đời là mộng ái cao siêu,
Chìm đắm ở thương hoa và tiếc ngọc;
Nếu thi sĩ nghĩa là đem gấm góc
Phủ lên trên xã hội đã điêu tàn,
Véo von ca cho át tiếng kêu than
Của nhân loại cần lao đang giãy giụa;
Thì bạn hỡi, một nhà thơ như rứa
Là tai ương, chướng họa của nhân quần,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”,
Ðể tâm hồn treo ngược ở cành cây
Hay lả lướt đìu hiu cùng ngọn liễu;
Nếu thi sĩ nghĩa là nhăn với mếu,
Nghĩa là van Thượng đế rũ lòng thương,
Hồn bơ vơ lạc lõng ở mười phương,
Khóc rả rích như ve sầu tháng hạ;
Nếu thi sĩ vùi đầu mài miết tả
Cặp “tuyết lê” hồi hộp trước tình yêu,
Cho cuộc đời là mộng ái cao siêu,
Chìm đắm ở thương hoa và tiếc ngọc;
Nếu thi sĩ nghĩa là đem gấm góc
Phủ lên trên xã hội đã điêu tàn,
Véo von ca cho át tiếng kêu than
Của nhân loại cần lao đang giãy giụa;
Thì bạn hỡi, một nhà thơ như rứa
Là tai ương, chướng họa của nhân quần,
Tác giả Đề cương văn hóa Việt
Hỡi thi sĩ! Hãy vươn
mình đứng
dậy!
Thời rượu nồng, đệm gấm đã qua rồi.
Thôi thôi đừng khóc gió với than mây,
Hãy nhịp bước trên con đường tiến bộ.
Dùng thi khúc mà lạnh lùng soi tỏ
Những bệnh căn xã hội đã tràn đầy;
Cùng công nông vun xới cuộc tương lai
Ðã chớm nở từ Liên-xô hùng vĩ.
Thời rượu nồng, đệm gấm đã qua rồi.
Thôi thôi đừng khóc gió với than mây,
Hãy nhịp bước trên con đường tiến bộ.
Dùng thi khúc mà lạnh lùng soi tỏ
Những bệnh căn xã hội đã tràn đầy;
Cùng công nông vun xới cuộc tương lai
Ðã chớm nở từ Liên-xô hùng vĩ.
Từ áp lực của thời thế, Ngôi sao (1955) và Riêng Chung (1960) ra đời. Phải chăng Xuân Diệu muốn tỏ ra mình đã biết dẹp “cái riêng” của mình trước “cái chung” mà xã hội đòi hỏi. Tuy nhiên, dù cố gắng cách mấy chăng nữa Xuân Diệu cũng thất bại. Những tác phẩm mà ông nói về cái “chung” như Một khối hồng (1964), Hai đợt sóng (1967), Hồn tôi đôi cánh(1976), Thanh ca (1982)... vì chạy theo thời cuộc, nên “sinh non ngày thiếu tháng”, tiếp tục ra đời. Ngày nay, không mấy ai nhớ cái “chung” Xuân Diệu đã đóng góp, mà người ta chỉ thích thú cái “riêng” là hàng trăm bài thơ tình của ông mà thôi. Thì ra Xuân Diệu muôn đời là Xuân Diệu có nhuộm màu gì vẫn là Xuân Diệu, nhà thơ của tình yêu và của hưởng thụ.
Nhìn lại toàn cuộc
đời của Xuân
Diệu, thi nhân đạt tới
vinh quang trên đường sự nghiệp trong khoảng thời gian ngắn, những
năm trước 1945. Sau đó, những cố gắng của ông
trong sáng tác và trong lãnh vực “đời thực” đều thất bại. Không những tác
phẩm Xuân
Diệu thời tiền chiến bị búa
rìu mà những vần thơ thời hậu chiến của ông cũng bị xoi mói như nhận
xét sau đây của nhà giáo Hoàng
Như Mai: “Cảm hứng mới, đề
tài mới, nội dung mới đòi hỏi cách thể hiện mới. Ngòi bút
Xuân Diệu không thể đi
theo lối cũ đường
quen. Xuân Diệu không ngần ngại, luyến tiếc những gì đã xây dựng
đài vinh quang cho ông trước kia và cần mẫn mài luyện ngòi bút mới.
“Tất nhiên trên chặng
đường sáng tác này, Xuân Diệu còn có những lời thơ vụng
về dễ dãi...”
Nhận xét về sự thất bại của Xuân Diệu sau 1945 về cả hai lãnh vực riêng,
chung không ai bằng nhà thơ trào phúng hiện
đại Xuân
Sách (1932-2008). Xuân Sách đã viết về Xuân Diệu chỉ bằng bốn câu mà
gói ghém được tất cả bi kịch một đời của nhà thơ tài
hoa mà tình thi của ông còn nằm trong ký ức nhiều thế hệ:
Hai đợt
sóng dâng một khối hồng
Không làm tan được chút phấn thông
Chao ơi ngói
mới nhà
không mới
Riêng chẳng có, có gì chung.
Hoàng Yên Lưu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét