Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

Ngũ đại gia và thất hùng


Hùng Tâm/Người Việt

 Năm nước B.R.I.C.S. muốn dựng lên một trật tự kinh tế mới

Lãnh đạo của năm quốc gia là Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Ðộ, Brazil và Nam Phi có hội nghị thượng đỉnh tại thành phố Durban của Nam Phi vào ngày Thứ Tư, 27 Tháng Ba. Sau hai ngày làm việc ở cấp chuyên gia, họ có thể thông báo sự thành lập của một ngân hàng quốc tế với chức năng tương tự như hai định chế tài chánh hiện hành là Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới WB. Năm quốc gia đó thường được gọi tắt là nhóm BRICS. Họ đang muốn lập ra một trật tự kinh tế khác để dần dần thay thế hệ thống đã được các nước dân chủ Tây phương dựng lên từ sau Thế chiến Hai và nay vẫn nằm trong tầm quyết định của Thất hùng kinh tế được gọi là khối G-7 gồm có Hoa Kỳ, Nhật Bản, Gia Nã Ðại và bốn nước Âu Châu là Ðức, Anh, Pháp, Ý.
Hồ sơ Người Việt sẽ tìm hiểu về sự chuyển động đầy ý nghĩa này.

Bretton Woods I và Bretton Woods II
Vào năm 1944, khi Thế chiến Hai sắp kết thúc, Hoa Kỳ cùng các nước dân chủ Tây phương lập ra một kiến trúc tài chánh mới cho thế giới, với hệ thống tiền tệ Bretton Woods và hai tổ chức tài chánh là Quỹ IMF và Ngân hàng WB. Bretton Woods là địa danh của nơi tổ chức hội nghị quốc tế tại tiểu bang New Hampshire của Hoa Kỳ.

Kiến trúc ấy vừa giải quyết các nguyên nhân dẫn tới Tổng khủng hoảng 1929-1933 (và Thế chiến), vừa tái thiết các nước bị tàn phá, vừa mở ra nền tảng phát triển kinh tế toàn cầu theo khuynh hướng tự do. Nhưng hệ thống tổ chức và giao dịch này cũng xác định vai trò của các nước Tây phương trước sự bành trướng của Liên bang Xô viết trong thời Chiến tranh lạnh.

Ðấy là kiến trúc kinh tế của "Thế giới Tự do" với sức hút rất mạnh cho các quốc gia vừa giành lại độc lập từ ách thực dân của Âu Châu vào thập niên 1960 của thế kỷ trước. Ði theo kinh tế tự do và chính trị dân chủ là giải pháp phát triển tốt đẹp cho các nước nghèo, và có lợi cho các nước dân chủ Tây phương.

Về chuyên môn, Quỹ Tiền tệ IMF vạch ra phương hướng trao đổi và phát triển như một luật chơi chung giữa các nước và có thể tung tiền cấp cứu rồi chỉ đạo phương pháp cải cách tiền tệ và hối đoái cho nước nào lâm nạn và bị khủng hoảng kinh tế hay hối đoái. Phương hướng đó áp dụng quy luật tự do của thị trường với hàng rào quan thuế cực thấp và phương pháp là chấn chỉnh công chi thu để hạn chế bội chi và ổn định hối đoái.

Ngân hàng Thế giới WB thì viện trợ tài chánh và kỹ thuật cho các nước bị tàn phá vì chiến tranh, chủ yếu là Âu Châu, rồi cho các nước nghèo đang chuyển sang kinh tế thị trường theo nguyên tắc tự do, với vai trò chủ chốt của tư doanh. Hệ thống tổ chức của Ngân hàng WB có nhiều chi nhánh và bộ phận cùng thực hiện chánh sách này, xin miễn đi vào chi tiết.

Hai định chế ấy đều nằm trong thẩm quyền quyết định của các nước Tây phương vì họ góp vốn nhiều nhất và vạch ra điều lệ về tổ chức. Lãnh đạo IMF phải là một người Âu Châu, hiện nay là bà Christine Lagarde của Pháp. Chủ tịch Ngân hàng Thế giới WB là người do Hoa Kỳ chỉ định, hiện là một người Mỹ gốc Ðại Hàn, ông Jim Yong Kim (Kim Dung).

Nhưng trật tự kinh tế đó đã một phần sứt mẻ vào Tháng Tám năm 1971 khi Tổng thống Richard Nixon đơn phương quyết định thả nổi đồng Mỹ kim chứ không neo vào vàng theo tỷ lệ 35 đô la ăn một troy ounce (oz, khoảng 31 gram), nên mới được gọi là Bretton Woods II. Một trong nhiều lý do của quyết định ấy chính là sự hao tốn vì cuộc chiến tại Việt Nam.

Ngày nay, bảy quốc gia kỹ nghệ hóa của thế giới được gọi là Thất hùng G-7, vẫn còn cùng nhau quyết định về chủ trương và đường lối kinh tế cho thế giới qua các hội nghị của khối G-7. Nhưng thực lực kinh tế của họ suy yếu dần, nhiều nước bị suy trầm, suy thoái, thậm chí khủng hoảng. Còn lại chỉ có Hoa Kỳ vẫn duy trì được một phần trọng lượng, với khả năng sản xuất ở khoảng 22% của sản lượng toàn cầu nhưng lại bị quyến rũ bởi tinh thần bao cấp, tăng chi và tập trung chú ý vào những nhu cầu ở bên trong.

Trong khi đó, và cũng nhờ sự bảo vệ của Hoa Kỳ, nhiều quốc gia đã phát triển mạnh để thành cường quốc công nghiệp và chiếm một tỷ trọng lớn hơn trong sản lượng toàn cầu. Nhưng họ vẫn bị chi phối bởi quyết định của khối G-7 và hai định chế tài chánh IMF và WB.

Trong số các nước đang lên, năm quốc gia của nhóm BRICS là cường quốc kinh tế cấp vùng và thấy rằng họ bị gạt ra ngoài tiến trình quyết định của Thất hùng G-7. Họ lập ra một cơ chế hợp tác với nhau để có vai trò mạnh hơn trong hệ thống kinh tế thế giới. Họ muốn tiến tới một trật tự kinh tế khác để cạnh tranh và có thể thay thế hệ thống Tây phương đang suy yếu.

Ngũ đại gia BRICS
Năm 2001, kinh tế gia người Anh là Jim O'Neill, nhân viên cao cấp của tổ hợp đầu tư Goldman Sachs của Mỹ, đã lần đầu tiên dùng bốn chữ tắt là BRIC để nói về bốn nền kinh tế đang tiến lên hàng ngũ các nước phát triển, đó là Brazil, Russia, India và China.

Từ nguyên thủy, đấy chỉ là một sự tiện dụng ngôn ngữ cho báo chí vì nhiều nền kinh tế khác cũng đang vươn thành cường quốc, như Nam Hàn hay Mễ Tây Cơ hoặc Nam Dương (Indonesia).

Nhưng các nền kinh tế này có thể đã hiện diện trong khối OCDE do các nước Tây phương lập ra tại Paris từ năm 1948 và cải danh từ năm 1961 như một diễn đàn trao đổi thông tin và kiến thức về kinh tế. Ban đầu là các nước Âu Châu trong khối được phối hợp để sử dụng viện trợ Mỹ trong khuôn khổ kế hoạch Marshall, sau này mới mở rộng ra ngoài và khối OCDE hiện có 34 thành viên gồm các nước công nghiệp hoá Tây phương và các nước tân hưng, mới nổi, của thế giới và cùng chấp nhận một quy luật chung về kinh tế dựa trên thị trường tự do và chính trị dân chủ.

Nhóm BRIC không thuộc vào khối đó.

Nhu cầu có tiếng nói riêng, để làm lực đối trọng hay đối lập với các nước dân chủ Tây phương khiến lãnh đạo của nhóm BRIC thường xuyên gặp nhau. Rồi họ mở rộng vòng kết hợp để đón thêm một nước Phi Châu là Cộng hoà Nam Phi. Dù chưa là cường quốc kinh tế ngang bằng với các nước tân hưng Ðông Á và với dân số chỉ có khoảng 52 triệu, Nam Phi vẫn là một biểu tượng của Châu Phi và tham gia diễn đàn BRIC, từ đó nhóm này có tên là BRICS.

Với dân số ba tỷ người, Nhóm Ngũ đại gia BRICS có sản lượng kinh tế chung gần 15 ngàn tỷ đô la, bằng 20% của toàn cầu và gần bằng Hoa Kỳ, và khối dự trữ ngoại tệ bốn ngàn tỷ, ba phần tư là của Trung Quốc. Ðây là thế lực kinh tế đáng kể nếu họ kết hợp để "yểm trợ các nước nghèo và góp phần xây dựng hòa bình cho thế giới", như Chủ tịch Hồ Cẩm Ðào đã phát biểu năm ngoái.

Muốn tiếng nói có trọng lượng, nhóm BRICS này phải góp phần giải quyết khó khăn kinh tế cho các nước khác mà khỏi cần đến hai định chế Tây phương là IMF và WB.

Chiều hướng đó đã xuất hiện từ lâu, thí dụ như với Sáng kiến Chiang Mai vào năm 2000.

Rút kinh nghiệm từ vụ khủng hoảng Ðông Á 1997-1998, các nước thấy ra nhu cầu góp chung một số ngoại tệ để lập quỹ cứu trợ. Ban đầu thì hai nước giao dịch với nhau có thể thỏa thuận về một hợp đồng trao đổi ngoại tệ năm mười tỷ để xứ nào nhất thời mà cần ngoại tệ thì sẽ trích từ quỹ chung, đó là quy tắc "currency swap". Căn bản ở đây là những thỏa thuận song phương, giữa hai nước.

Theo ý hướng đó Hiệp hội 10 quốc gia Ðông Nam Á là ASEAN mở ra khuôn khổ đối thoại với ba nước Ðông Á là Nhật Bản, Trung Quốc và Nam Hàn. Nhóm ASEAN+3 này khai triển Sáng kiến Chiang Mai qua một cơ chế hoán đổi ngoại tệ "currency swap" ngày càng có tính chất đa phương thay vì song phương. Tính đến năm ngoái thì khối dự trữ ngoại tệ chung của Sáng kiến Chiang Mai đã lên tới 240 tỷ Mỹ kim. Nghĩa là các nước cam kết sẵn với nhau 240 tỷ để khi hữu sự thì giúp nhau vượt qua sóng gió mà khỏi phải cầu cứu Quỹ IMF.

Nhóm BRICS muốn đi xa hơn.

Tuần qua, trong khuôn khổ hội nghị tại Durban, Trung Quốc và Brazil đã ký một hợp đồng hoán đổi ngoại tệ trị giá 30 tỷ: trong việc buôn bán với nhau, xứ nào nhất thời cần ngoại tệ thì có thể được vay từ quỹ chung. Nhưng đấy chỉ là một cơ chế yểm trợ ngoại thương giữa hai nước khi mà Trung Quốc đang khuếch trương việc buôn bán với Mỹ châu La tinh.

Ðáng chú ý hơn vậy là trong dịp này, nhóm BRICS còn trù tính chung tiền để lập ra một ngân hàng quốc tế gọi là Ngân hàng BRICS để vừa tài trợ nước nào cần tiền đầu tư, là chức năng của Ngân hàng Thế giới, vừa giúp các nước ổn định về hối đoái khi thiếu ngoại tệ, là chức năng của Quỹ IMF.

Ngân hàng BRICS không chỉ hoạt động song hành với hai định chế có sẵn của Tây phương, mà còn có điều kiện yểm trợ dễ dãi hơn, chứ không đòi hỏi cải tổ cơ cấu kinh tế cho tự do và phải tôn trọng nhân quyền, dân chủ, hoặc bảo vệ môi sinh như các nước Tây phương vẫn muốn.

Người ta thấy ra một thế cạnh tranh mới, trong khi các nước Tây phương bị khủng hoảng và mắc nợ vì chính sách tăng chi để duy trì chế độ bao cấp.

Ngũ đại gia BRICS đang lập ra một trật tự kinh tế khác với hậu quả địa dư chiến lược lớn lao hơn những tính toán về tài chánh hay ngân hàng. Không chỉ góp phần yểm trợ các nước nghèo và xây dựng hòa bình thế giới như họ nói, các nước còn muốn giúp những quốc gia đã bị gạt ra khỏi khuôn khổ trợ giúp của Hoa Kỳ. Họ muốn tranh giành ảnh hưởng với Hoa Kỳ và các nước Tây phương già nua ở đằng sau.
Thí dụ như Brazil có thể qua Ngân hàng BRICS giúp Argentina vượt qua sóng gió về hối đoái và tăng cường ảnh hưởng với nước láng giềng ở miền Nam, trở thành hậu phương yểm trợ nhiều quốc gia trong khu vực và thu hẹp ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Liên bang Nga và Trung Quốc cũng sẽ có một định chế tác động và viện trợ các nước Á Châu xưa nay vẫn nương tựa vào Hoa Kỳ.

Họ tiến xa hơn Sáng kiến Chiang Mai để mở ra một cơ hội hợp tác kinh tế nằm bên ngoài hệ thống Tây phương và thống nhất quan điểm ngoại giao khác với chủ trương của Hoa Kỳ.

Tất nhiên là với dự trữ ngoại tệ hơn ba ngàn tỷ và cả ngàn tỷ khác được trao cho các ngân hàng chính sách, đứng đầu là Ngân hàng Phát triển Trung Quốc ECB, Trung Quốc sẽ giữ vị trí trọng yếu trong Ngân hàng BRICS và là hậu phương lớn của nỗ lực bành trướng kinh tế qua Phi Châu, Á Châu và Mỹ Châu. Khi ấy, những tính toán về địa dư chiến lược của Bắc Kinh có thể chi phối cơ chế vận hành của Ngân hàng BRICS – thí dụ như lấy nhiều rủi ro tín dụng và chấp nhận điều kiện tài trợ dễ dãi hơn. Bốn quốc gia kia hẳn là cũng biết như vậy và các chuyên gia của họ có thể đã nêu vấn đề.

Nhưng việc Ngũ đại gia vượt qua nỗi e ngại đó để thông báo việc thành lập Ngân hàng BRICS và nói đến một trật tự kinh tế quốc tế khác cho thấy là lãnh đạo của họ đã tiến rất xa.
Kết luận ở đây là gì?

Âu Châu đã có thể khống chế thế giới trong 500 năm, từ khi Columbus tìm ra Tân thế giới năm 1492 cho đến khi Liên Xô tan rã năm 1991. Sau đó Hoa Kỳ có 10 năm là siêu cường duy nhất của toàn cầu cho đến vụ khủng bố 9-11 năm 2001. Chưa ra khỏi những chật vật của cuộc chiến chống khủng bố, Hoa Kỳ lại trôi vào những khó khăn tài chánh và bế tắc chính trị suốt năm năm qua, với sự thắng thế của khuynh hướng bao cấp và chủ hòa. Trong khi đó Âu Châu lụn bại, dân số bị lão hóa, kinh tế bị suy trầm. Và khối Euro chưa ra khỏi khủng hoảng.

Trong hoàn cảnh đó, các cường quốc hạng nhì đã nổi lên và đòi có tiếng nói và thế lực mạnh hơn trên diễn đàn quốc tế. Nhưng ở ba khu vực khác nhau, với nhiều bài toán riêng bên trong từng nước, nhóm Ngũ đại gia này có thể nào thách đố Thất hùng già nua G-7 hay không?

Và Ấn Ðộ nghĩ gì về một cơ chế mà Trung Quốc giữ vai trò trọng yếu?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét