Tha La xóm đạo
Vũ Anh Khanh
Đây Tha La xóm đạo,
Có trái ngọt, cây lành.
Tôi về thăm một dạo,
Giữa mùa nắng vàng hanh,
Ngậm ngùi, Tha La bảo:
- Đây rừng xanh, rừng xanh,
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.
Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng
Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng.
Có trái ngọt, cây lành im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ?
Ai đưa đón?
Xin thưa, tôi lạc bước!
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ.
Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng
Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng?
- Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!
- Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn.
Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít,
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch.
Gặp cụ già đang ngắm gió bâng khuâng
Đang đón mây xa... Khách bỗng ngại ngần:
- Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo chàng: "Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi vì nước Việt
Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi, đau đất nước lầm than".
***
Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng
Ngày hiu quạnh. ờ...Ơ...Hơ... Tiếng hát,
Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh
ờ... Ơ... Hơ... Có một đám Chiên lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
Quỳ cạnh chúa, đám Chiên lành run rẩy:
- Lạy đức Thánh Cha!
Lạy đức Thánh Mẹ!
Lạy đức Thánh Thần
Chúng con xin về cõi tục để làm dân...
Rồi... cởi trả áo tu,
Rồi... xếp kinh cầu nguyện
Rồi... nhẹ bước trở về trần...
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hãy ngừng chân,
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám mây tang,
Vui gì đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi cho bẽ bàng!
ờ... Ơ... Hơ...ờ... ơ Hơ... Tiếng hát;
Rung lành lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc,
Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách quá đi thôi!
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ.
Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
- Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tha La dâng ngàn hoa gạo
Và suối mát rừng xanh
Xem đám Chiên hiền thương áo trắng
Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh...
Nhà văn Xuân Vũ trong bài báo "Người chết không mồ" đăng trên Văn Hóa Việt Nam số14 năm 2001 viết về cái chết của Vũ Anh Khanh như sau:Trong một lần được nghỉ phép Vũ Anh Khanh đã sửa giấy thông hành từ Vĩnh Phú thành Vĩnh Linh để vào Quảng Trị,rồi tìm cách vượt tuyến ( đào thoát ) vào Nam.Ông bơi qua sông phía thượng nguồn sông Bến Hải ,cách cầu Hiền Lương vài cây số thì bị phát hiện và bị bắn chết bằng tên tẩm thuốc độc.Xác của ông được vùi lấp đâu đó trong khu phi quân sự,hoặc chìm khuất dưới dòng sông không ai nhớ được.
"Tôi
xin cung cấp bài thơ đã được hiệu đính qua nhiều nguồn, gồm có 92 câu
được in trong phần mở đầu của cuốn truyện dài có tên " Nửa Bồ Xương Khô", dày hơn 500 trang cũng của chính ông, ghi lại một số hình ảnh hào hùng khi tác giả đi kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954). Sách xuất bản khoảng đầu thập niên
50." ( La Ngạc Thụy - khoá 4 Sư Phạm - Huế. )
Bài
thơ "Tha La xóm đạo" của Vũ Anh Khanh, được bạn đọc quan tâm đóng góp nhiều ý kiến và tư liệu quý báu nhằm làm sáng tỏ những điểm chưa rõ, để bài thơ nổi tiếng này xứng với tầm vóc của một bài thơ hay đã đi vào lòng người dân Tây Ninh hàng chục năm qua.
Tôi đã có lời hứa sẽ tập hợp những đóng góp của bạn đọc, sưu tầm, nghiên cứu thêm nhằm trả lại nguyên gốc bài thơ. Thời gian qua, bằng nhiều cách tra cứu, tìm hiểu qua tư liệu cũng như nhờ một số bạn hữu ở Bình Thuận giúp đỡ thêm. Đến nay, có thể nói bước đầu đã tập hợp hầu như hoàn chỉnh bài thơ, hoàn cảnh ra đời của nó, địa danh Tha La ... Trong phạm vi bài viết này tôi xin cố gắng cung cấp đến bạn đọc những vấn đề chưa rõ mà chúng ta đã đặt vấn đề. Và điều cơ bản nhất mong bạn đọc thông cảm là tôi chỉ cung cấp những vấn đề đã tập hợp được mà thôi, chứ không phải là bài nghiên cứu hoàn chỉnh ...Do vậy sẽ còn chi tiết nào đó chưa chuẩn, mong bạn đọc góp ý thêm. ( tiếp ) ( La Ngạc Thụy )
Tôi đã có lời hứa sẽ tập hợp những đóng góp của bạn đọc, sưu tầm, nghiên cứu thêm nhằm trả lại nguyên gốc bài thơ. Thời gian qua, bằng nhiều cách tra cứu, tìm hiểu qua tư liệu cũng như nhờ một số bạn hữu ở Bình Thuận giúp đỡ thêm. Đến nay, có thể nói bước đầu đã tập hợp hầu như hoàn chỉnh bài thơ, hoàn cảnh ra đời của nó, địa danh Tha La ... Trong phạm vi bài viết này tôi xin cố gắng cung cấp đến bạn đọc những vấn đề chưa rõ mà chúng ta đã đặt vấn đề. Và điều cơ bản nhất mong bạn đọc thông cảm là tôi chỉ cung cấp những vấn đề đã tập hợp được mà thôi, chứ không phải là bài nghiên cứu hoàn chỉnh ...Do vậy sẽ còn chi tiết nào đó chưa chuẩn, mong bạn đọc góp ý thêm. ( tiếp ) ( La Ngạc Thụy )
Tên Tha
La phát nguyên từ tiếng Khmer là
"Schla", đọc trại thành
"Tha La" có nghĩa là trạm, trại .. Là vùng đất xưa nơi người Chân Lạp định cư. Vùng đất Tha La ngày xưa là rừng rậm hoang vu, đã được quan quân và con dân chúa Nguyễn đến khai phá
và định cư từ hơn 200 năm trước. Đất Tây Ninh
cũng có nhiều chỗ cùng mang
tên Tha La như sông Tha La ở huyện Tân Châu. Hiện nay, "Tha La xóm đạo" thuộc xã An Hòa (Trãng Bàng).
Theo sách Tây Ninh Xưa và Nay của tác giả Huỳnh Minh, xuất bản năm 1972 thì vào cuối thời Minh Mạng, khoảng 1840, có một nhóm giáo dân độ vài chục gia đình được cha Cosimo Trí dìu dắt, chạy nạn tới khu rừng Tha La, khai quang lập ấp xây dựng cuộc sống, đồng thời cố gắng bảo tồn gốc đạo và niềm tin. Khắp vùng xã An Hoà xưa hầu như đều có dấu chân của con Chúa. Cha Cosimo Trí đã thắp một ngọn nến giữa rừng âm u, vừa khai hoang lập ấp vừa ẩn náu, vừa mưu sinh, vừa khai sáng nguồn suối tâm linh tươi mát cho các con chiên, để nó trôi chảy cho đến ngày hôm nay. ( tiếp ) ( La Ngạc Thụy )
Theo sách Tây Ninh Xưa và Nay của tác giả Huỳnh Minh, xuất bản năm 1972 thì vào cuối thời Minh Mạng, khoảng 1840, có một nhóm giáo dân độ vài chục gia đình được cha Cosimo Trí dìu dắt, chạy nạn tới khu rừng Tha La, khai quang lập ấp xây dựng cuộc sống, đồng thời cố gắng bảo tồn gốc đạo và niềm tin. Khắp vùng xã An Hoà xưa hầu như đều có dấu chân của con Chúa. Cha Cosimo Trí đã thắp một ngọn nến giữa rừng âm u, vừa khai hoang lập ấp vừa ẩn náu, vừa mưu sinh, vừa khai sáng nguồn suối tâm linh tươi mát cho các con chiên, để nó trôi chảy cho đến ngày hôm nay. ( tiếp ) ( La Ngạc Thụy )
Tha La là
một địa danh đẹp về thắng cảnh thiên nhiên và đẹp vì tình người qua bài thơ "Tha La xóm đạo" mà nhà thơ Vũ Anh Khanh có lần qua đây đã xúc cảm sáng tác. Đây là xóm đạo được tổ chức khá ngăn nắp và qui củ, nhà cửa khang trang, quây quần chung quanh ngôi thánh đường. Trải qua bao thăng trầm của chiến tranh tàn phá, nhà thờ đã được trùng tu lại. Cho tới năm 1967 thì việc sửa sang được hoàn tất. Chánh toà nằm giữa với tường gạch bao quanh, với sân rộng lót đá, với trường học và nhiều cơ sở phụ thuộc. Ngôi Chánh toà đồ sộ có phần nguy nga, hai mái ngói xoải dài xuống thấp có sức chứa chừng 400 con
người ngoan đạo trong các buổi hành lễ. Tượng Đức Mẹ trước mặt, và có một hang đá khổng lồ nằm bên hông,
tháp chuông không cao nhưng có kiến trúc lạ mắt như cái lồng chim. Toàn bộ khu nhà thờ, nhìn chung, với lối kiến trúc đơn giản, không mang nặng nét cổ điển của Tây phương, nhưng lại được bao bọc xung quanh bằng những tàn cây cổ thụ cao to cho
bóng mát, mang vẻ u hoài, thanh tịnh như một ngôi chuà
cổ của một miền quê.
Sau năm 1863, khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Nam Nam kỳ thì hoàn cảnh thuận tiện hơn. Việc truyền đạo Chúa được nhà cầm quyền Pháp khuyến khích và giúp đỡ. Giáo dân gom tụ lại Tha La đông hơn và họ đạo Tha La được chính thức thành lập, trực thuộc Toà Thánh La Mã. Nhà thờ có nơi cố định, đầu tiên được xây cất, với vật liệu đơn sơ. Từ điểm nầy, các vị cha tiếp nối đi đến các địa phương khác để truyền đạo và lập thêm xứ đạo mới. Ngày nay ở Tây Ninh, đạo Công Giáo vẫn phát triển song hành với các tôn giáo khác. Đi đâu cũng thấy nhà thờ, ngay cả vùng thánh địa Cao Đài cũng có.
Vì nhờ sự cho phép của người Pháp họ đạo Tha La phát triển ngày càng mạnh mẽ và vững vàng. Vào đầu thế kỷ 20 nhà thờ được xây cất qui mô hơn. Tuy vậy người Công Giáo Tha La không quay lưng lại với dân tộc. Chúng ta không đủ tài liệu để biết Tha La có tham gia phong trào Cần Vương và Văn Thân chống Pháp hay không, nhưng chắc chắn vào mùa Thu năm 1945, thanh niên Tha La, nhất là thành phần trí thức đã tích cực tham gia phong trào kháng chiến ở đất Nam Kỳ. Và chính thời điểm nầy, nhà thơ Vũ Anh Khanh cũng gia nhập đi theo phong trào kháng chiến, ông đã làm bài thơ để đời, trong đó có những câu cho thấy rằng người Tha La đã đặt tình yêu quê hương tổ quốc lên trên hết. ( La Ngạc Thụy )
Sau năm 1863, khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Nam Nam kỳ thì hoàn cảnh thuận tiện hơn. Việc truyền đạo Chúa được nhà cầm quyền Pháp khuyến khích và giúp đỡ. Giáo dân gom tụ lại Tha La đông hơn và họ đạo Tha La được chính thức thành lập, trực thuộc Toà Thánh La Mã. Nhà thờ có nơi cố định, đầu tiên được xây cất, với vật liệu đơn sơ. Từ điểm nầy, các vị cha tiếp nối đi đến các địa phương khác để truyền đạo và lập thêm xứ đạo mới. Ngày nay ở Tây Ninh, đạo Công Giáo vẫn phát triển song hành với các tôn giáo khác. Đi đâu cũng thấy nhà thờ, ngay cả vùng thánh địa Cao Đài cũng có.
Vì nhờ sự cho phép của người Pháp họ đạo Tha La phát triển ngày càng mạnh mẽ và vững vàng. Vào đầu thế kỷ 20 nhà thờ được xây cất qui mô hơn. Tuy vậy người Công Giáo Tha La không quay lưng lại với dân tộc. Chúng ta không đủ tài liệu để biết Tha La có tham gia phong trào Cần Vương và Văn Thân chống Pháp hay không, nhưng chắc chắn vào mùa Thu năm 1945, thanh niên Tha La, nhất là thành phần trí thức đã tích cực tham gia phong trào kháng chiến ở đất Nam Kỳ. Và chính thời điểm nầy, nhà thơ Vũ Anh Khanh cũng gia nhập đi theo phong trào kháng chiến, ông đã làm bài thơ để đời, trong đó có những câu cho thấy rằng người Tha La đã đặt tình yêu quê hương tổ quốc lên trên hết. ( La Ngạc Thụy )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét