Một đi vĩnh biệt Sông Hàn
Có về đâu nữa Điện Bàn ngàn năm!(*)
(Hoàng Hải Thủy)
Năm rồi, nhà thơ Hoàng Cầm, một "kiện
tướng" của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm qua đời.
Tháng 2 năm 2007, cùng với các nhà thơ Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Hoàng Cầm, tác giả bài thơ trữ tình về "cái lá" gây nhiều tranh cãi "Lá Diêu Bông" đã được Đảng và Nhà Nước VC trao cái gọi là "Giải Thưởng Nhà Nước" vì những tác phẩm của họ "có giá trị cao về văn học nghệ thuật, ca ngợi đất nước, nhân dân, góp phần xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ Tổ quốc."
Xem ra cái tài "nhổ ra, liếm lại" của Đảng và Nhà Nước ta vào bậc thượng thừa. Bởi vì; theo nhà văn Hoàng Hải Thủy thì, "vào năm 1958 ở Hà Nội, 4 người trên đây, cùng một số văn nghệ sĩ bị Trùm Đồ Tể Văn Nghệ Tố Hữu xuống tay kết tội "phản động chống Đảng".
Vụ này được gọi là vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Những người nổi tiếng nhất bị Tố Hữu "vu cáo, chửi rủa, bắt di tù năm ấy là nữ sĩ Thụy An, các ông Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, ông chủ nhà xuất bản Minh Đức."
Cũng theo nhà văn Hoàng Hải Thủy thì "Ông Phan Khôi không bị đi tù nhưng bị Tố Hữu chửi rất nặng lời; nó – Tố Hữu và bọn văn nô đàn em nó – chửi đích danh Phan Khôi chứ không chửi bóng gió. Khoảng một năm sau ngày bị nhục mạ, ông Phan Khôi qua đời. Năm 1980, nghĩa trang có mộ ông Phan bị giải tỏa, các con ông không đến lấy cốt ông mang đi nơi khác nên di cốt của ông bị mất. Nay người ta xây mộ ông ở làng quê ông nhưng trong mộ không có di cốt của ông."
*
Trong Bản Kết Tội do tên Trùm Đồ tể Văn Nghệ Tố Hữu công bố trên tờ Học Tập, Tạp chí Lý luận & Chính trị của Đảng Lao Động Việt Nam, tháng 4 năm 1958, trang 22-28 đã bịa điều, đặt chuyện một cách vô liêm sỉ để kết tội ông Phan Khôi như sau:
…Chúng là những tên phản trắc, có kẻ như Phan Khôi một đời đã năm lần phản bội Tổ quốc, kẻ đã từng nhục mạ "người An-nam là chó, và đã là chó thì phải ăn cứt" để "thuyết phục" người khác đầu hàng địch, mà vẫn dương dương tự cho mình là "học giả tiết tháo", và được kẻ đồng bọn phong cho là "Anh hùng của ba trăm nô lệ" (!)"
Thực ra, ông Phan Khôi TỘI NẶNG hơn nhiều những cái tội mà Tố Hữu đã hài ra để kết tội ông.
Như chúng ta đã biết, ông Phan Khôi là "người đã từng đi kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc; đã làm tròn mỹ mãn công tác phiên dịch các sách chữ Hán hoặc chữ Pháp sang tiếng Việt, đã được "Bác Hồ" ban cho ông một chiếc áo blouson Mỹ (trang 55, Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, Hoàng Văn Chí). Chính ông là người đã làm bài thơ ám chỉ Việt Minh là loài thú vật bằng chữ Hán, mà Thế Lữ dịch ý như sau:
Tháng 2 năm 2007, cùng với các nhà thơ Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Hoàng Cầm, tác giả bài thơ trữ tình về "cái lá" gây nhiều tranh cãi "Lá Diêu Bông" đã được Đảng và Nhà Nước VC trao cái gọi là "Giải Thưởng Nhà Nước" vì những tác phẩm của họ "có giá trị cao về văn học nghệ thuật, ca ngợi đất nước, nhân dân, góp phần xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ Tổ quốc."
Xem ra cái tài "nhổ ra, liếm lại" của Đảng và Nhà Nước ta vào bậc thượng thừa. Bởi vì; theo nhà văn Hoàng Hải Thủy thì, "vào năm 1958 ở Hà Nội, 4 người trên đây, cùng một số văn nghệ sĩ bị Trùm Đồ Tể Văn Nghệ Tố Hữu xuống tay kết tội "phản động chống Đảng".
Vụ này được gọi là vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Những người nổi tiếng nhất bị Tố Hữu "vu cáo, chửi rủa, bắt di tù năm ấy là nữ sĩ Thụy An, các ông Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, ông chủ nhà xuất bản Minh Đức."
Cũng theo nhà văn Hoàng Hải Thủy thì "Ông Phan Khôi không bị đi tù nhưng bị Tố Hữu chửi rất nặng lời; nó – Tố Hữu và bọn văn nô đàn em nó – chửi đích danh Phan Khôi chứ không chửi bóng gió. Khoảng một năm sau ngày bị nhục mạ, ông Phan Khôi qua đời. Năm 1980, nghĩa trang có mộ ông Phan bị giải tỏa, các con ông không đến lấy cốt ông mang đi nơi khác nên di cốt của ông bị mất. Nay người ta xây mộ ông ở làng quê ông nhưng trong mộ không có di cốt của ông."
*
Trong Bản Kết Tội do tên Trùm Đồ tể Văn Nghệ Tố Hữu công bố trên tờ Học Tập, Tạp chí Lý luận & Chính trị của Đảng Lao Động Việt Nam, tháng 4 năm 1958, trang 22-28 đã bịa điều, đặt chuyện một cách vô liêm sỉ để kết tội ông Phan Khôi như sau:
…Chúng là những tên phản trắc, có kẻ như Phan Khôi một đời đã năm lần phản bội Tổ quốc, kẻ đã từng nhục mạ "người An-nam là chó, và đã là chó thì phải ăn cứt" để "thuyết phục" người khác đầu hàng địch, mà vẫn dương dương tự cho mình là "học giả tiết tháo", và được kẻ đồng bọn phong cho là "Anh hùng của ba trăm nô lệ" (!)"
Thực ra, ông Phan Khôi TỘI NẶNG hơn nhiều những cái tội mà Tố Hữu đã hài ra để kết tội ông.
Như chúng ta đã biết, ông Phan Khôi là "người đã từng đi kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc; đã làm tròn mỹ mãn công tác phiên dịch các sách chữ Hán hoặc chữ Pháp sang tiếng Việt, đã được "Bác Hồ" ban cho ông một chiếc áo blouson Mỹ (trang 55, Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, Hoàng Văn Chí). Chính ông là người đã làm bài thơ ám chỉ Việt Minh là loài thú vật bằng chữ Hán, mà Thế Lữ dịch ý như sau:
"Một mình trước cảnh
xanh núi rừng
Ta ngạo nghễ với bầy chim, bầy vượn
Vì ta chạy loạn mà tình cờ gặp cảnh lâm tuyền."
Ta ngạo nghễ với bầy chim, bầy vượn
Vì ta chạy loạn mà tình cờ gặp cảnh lâm tuyền."
Ông còn táo bạo hơn khi phong trào kháng chiến Việt Minh hiện nguyên hình là đảng Cộng sản, ông đã viết bài "Cây Cộng Sản" chỉ ngay vào vùng Việt Bắc, quê hương cách mạng:
"Có một thứ thực vật nửa như bèo nửa cũng như sen Nhật Bản ở nước ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc không chỗ nào là không có."
Ông Phan Khôi cho rằng nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại như rừng, ken kít nhau. Nơi gọi là "cỏ bù xít" vì nó có mùi hôi như con bọ xít, nơi gọi là "cây cứt lợn", nơi gọi là "cây chó đẻ". Tên đều không nhã tí nào hết (…) thứ cây ấy những người có học gọi bằng CÂY CỘNG SẢN!
Ông Phan Khôi cho rằng trước kia xứ ta không có "cây cứt lợn dại nầy", mà vì người Pháp mang đến trồng ở những đồn điền cà phê , cao su để che đất cho mát gốc:
"Không mấy lâu nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được. Cái tình trạng ấy bắt đầu có trong những năm 1930-1931 đồng thời với Đông Dương Cộng sản đảng bắt đầu hoạt động, phong trào Cộng Sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là "herbe communiste", đáng lẽ dịch là CỎ CỘNG SẢN, nhưng nhiều người gọi nó là CÂY CỘNG SẢN. Nó còn một tên nữa rất là lạ…"
Ông nhà nho sông Hàn còn táo bạo hơn bịa rằng ông đã gặp ông già người Thổ ở vùng Việt Bắc:
"Hỏi ông tên nó là cây gì, ông nói tên nó là "CỎ CỤ HỒ". Thứ cỏ này trước kia không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thấy thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá, đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó như vậy".
Tờ Văn Nghệ xuất bản vào tháng 8 năm 1958 đã trích dẫn đoạn văn trên để kết tội ông Phan Khôi là PHẢN ĐỘNG!
Qua sự kiện trên cho thấy ít ra tên Trùm Đồ Tể Cai Thầu Văn Nghệ Tố Hữu cũng còn nhẹ tay với ông Phan Khôi; Bởi vì, nếu cứ y cứ vào lời tố cáo của báo Văn Nghệ vạch rõ ra là ông Phan Khôi đã gọi "cỏ bù xít" là CÂY CỘNG SẢN, là CỎ CỤ HỒ, là CÂY CHÓ ĐẺ thì tội của mấy ông nhà thơ Trần Dần, Phùng Quáng, Hoàng Cầm, Lê Đạt… đâu có ra cái mùi mẽ gì so với tác giả của những câu thơ "thấm đẫm tình già":
"Hai mươi bốn năm sau
Tình cờ đất khách gặp nhau
Hai mái đầu đã bạc
Ôn chuyện cũ mà thôi
Liếc đưa nhau đi rồi
Con mắt còn có đuôi!"
Tình cờ đất khách gặp nhau
Hai mái đầu đã bạc
Ôn chuyện cũ mà thôi
Liếc đưa nhau đi rồi
Con mắt còn có đuôi!"
*
Theo nhà văn Hoàng Hải Thủy thì:
"Năm 1956, ông Phan Khôi là Đại biểu Nhà văn Bắc Cộng sang Bắc Kinh dự Lễ Kỷ Niệm văn hào Lỗ Tấn. Nếu Lỗ Tấn còn sống dưới thời Mao Trạch Đông chắc hơn bắp rang là ông bị Mao bỏ tù vì tội phản động, nếu Các Mác mà sống dưới thời Stalin rất có thể ông bị Sít cho đi tù mút chỉ vì tội "Hiểu sai chủ nghĩa Mác".
Khi đến viếng mộ Lê Chất, một công thần triều vua Gia Long, ông Phan Khôi làm bài thơ trong đó có hai câu:
"Ấy dũng, ấy trung là
thế thế
Mà công, mà tội ở mô mô!"
Mà công, mà tội ở mô mô!"
Khi biết di cốt ông Phan Khôi bị mất, cảm khái tôi làm mấy câu viếng ông:
"Ấy bút, ấy văn là thế
thế
Mà xương, mà thịt ở mô mô!?"
Mà xương, mà thịt ở mô mô!?"
Năm 1945, ông Phan ra Hà Nội, rồi ông lên Việt Bắc, năm 1954 ông trở về Hà Nội. Ông qua đời ở Hà Nội ngày 6-1-1959. Thân xác ông mất tích trong đất Bắc.
Từ năm 1925 đến năm 1940, ông Phan nhiều lần ra Bắc, vào Nam, yên bình về sống ở làng quê ông, đến năm 1945 ông theo Việt Minh và ông không trở về quê ông nữa.
Và ngôi mộ ở quê ông không có chứa thân xác ông!
Bao nhiêu người đã vì lòng yêu nước mà theo Việt Minh đã không trở về quê và gia đình cũng không biết thân xác của họ ở nơi đâu để mà phụng thờ hương khói!
*
Người chỉ đạo "tên đồ tể cai thầu văn nghệ" Tố Hữu tìm mọi cách "đì" những nhà thơ, nhà văn của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, hạ nhục ông Phan Khôi là Trường Chinh Đặng Xuân Khu có một ngôi mộ rất lớn ở nghĩa trang Mai Dịch.
Người bị ông Phan Khôi "chê" là đã đem CỎ CỨT CHÓ tức là cái "chủ nghĩa Cộng sản chó đẻ" gieo rắc tang tóc, đau thương cho nhân dân Việt Nam là ông Hồ Chí Minh có một cái lăng rất lớn ở Ba Đình.
Nhưng chắc chắn, rồi ra ông Phan Khôi SẼ CÓ MỘT CÁI LĂNG RẤT LỚN TRONG LÒNG DÂN TỘC khi mà cái chủ nghĩa Cộng sản bạo tàn và bọn đầu gấu ở Bắc Bộ Phủ sẽ bị người dân vùng lên giựt sập trong tương lai!
Chúng ta tin điều đó!
*
"Một đi vĩnh biệt sông
Hàn
Có về đâu nữa Điện Bàn ngàn năm!"
Có về đâu nữa Điện Bàn ngàn năm!"
Xin kính gửi hương hồn Phan tiên sinh một nén hương thắp muộn!
NGUYỄN THIẾU NHẪN
Email:laomoc45@yahoo.com
*Tài liệu tham khảo: Bài viết "Giải thưởng nhà thổ" của Hoàng Hải Thủy.
"Dương Thu Hương và Con Hùm Ngủ", tiểu luận của Nguyễn Việt Nữ.
Nguyễn Văn Lục
Cây Cộng Sản, Cỏ Hồ Chí Minh, tên nghe đến lạ.
Phan Khôi là người đã đặt ra cái tên thực vật quái dị đó cách đây trên nửa thế kỷ. Nhiều người không còn nhớ nữa. Nhưng người bây giờ hỏi cây đó, cỏ đó tự đâu mang về? Trồng ở đâu?
Theo Phan Khôi cho biết thoạt đầu tiên Cây Cộng Sản mọc ở các đồn điền của Tây ở chung quanh các vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang để che đất cho mát gốc. Riết rồi Cây Cộng sản mọc tràn lan, chui vào mọi ngõ ngách khiến đất trở nên khan hiếm... Tây thuộc địa muốn trừ khử đi cũng không xong. Người Pháp mới đặt ra cái tện tiếng Tây là Herbe communiste. Đáng lẽ phải dịch là cỏ Cộng Sản mới đúng. Không biết tại sao có người lại dịch là Cây Cộng Sản.
Người dân thường không biết tiếng Pháp nên dung dị họ gọi đơn giản là cây Bọ Xít hay Cây Chó Đẻ. Tôi nghĩ nên giữ cái tên nguyên thủy của nó lúc ban đầu là Cây Cộng Sản. Vả lại là người có văn hóa, tôi chẳng muốn gọi biếm nhã là cây Bọ Xít hay cây Chó Đẻ. Nghe thô tục quá.
Người Pháp trừ khử Cây Cộng Sản không xong.Từ một cây ra nhiều cây đến rừng cây. Nó như nạn dịch bèo tây, cỏ lùm. Cứ thế mà lan ra.
Nước mình xưa nay không ai ưa gì các cây dại đó. Như trong Nam người ta chỉ quen trồng dừa, nhất là dọc theo các kinh rạch. Ngoài Bắc thì cây cau. Cả hai thứ cây đều đem lại lợi ích trăm bề. Cây dừa nước làm nên cái văn hóa miệt vườn trong cái thế sông nước với con người. Nó trở thành biểu tượng văn hóa dân gian cho một nửa phần đất nước của “vùng đất mới” hay đất của lục châu. Xưa gọi là lục châu, sau này đổi ra lục tỉnh. Người dân miền Nam quý mảnh đất này còn gọi là vùng lạc thổ. Tức là đất đem vui hay đất lành, đất hạnh phúc. Miền Bắc có cây cau, dáng cau thẳng đứng, được trồng ngay hàng thẳng lối hai bên sân nhà. Cau là một sản phẩm dùng trong các dịp quan hôn tương tế và đi vào huyền thoại dân gian như truyện Trầu Cau… và câu truyện dân gian: Con mèo mà trèo cây cau...
Cả hai thứ cây đó là biểu tượng cho con người Việt Nam mỗi miền về các mặt phong tục, nếp sống, sinh hoạt kinh tế, văn hóa, truyền thống lịch sử. Sau này có Cỏ Cụ Hồ từ đâu đến? Phải chăng sau đó là cái họa bắt đầu từ cây cỏ, thực vật? Đất lành nay thành đất dữ. Nhiều người rủ nhau bỏ xứ mà đi. Nay có đến hơn 3 triệu nguời lìa xa đất mẹ. Miền Bắc thì nay ít còn thấy cây cau như hồi nào. Nếu còn cây nào thì như thể một mình đối chọi với Cây Cộng Sản. Phải chăng, những cây cau cuối cùng còn sót lại là hình ảnh của các ông nhà văn như Nguyễn Khải, nhạc sĩ Tô Hải còn sót lại?
Cây dừa miền Nam có hy vọng may mắn hơn số phận cây cau miền Bắc chăng?
Nhưng còn cỏ Hồ Chí Minh là cỏ gì?
Cái này theo dân miền sơn cước đặt ra. Có cụ già người Thổ thấy có loại cỏ dại không biết từ đâu mọc tràn lan khắp nơi. Trước đây thì cỏ đó không có. Nhưng từ ngày có cụ Hồ về đây lập chiến khu thì tự nhiên cỏ mọc nhiều. Người miền sơn cước vốn mê tín, dị đoan nên chẳng biết gọi tên cỏ là gì. Vì thế người ta gọi cho tiện là Cỏ Cụ Hồ.
Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ cứ thế mà lan tràn cho đến lúc người Pháp phải ra đi. Người Mỹ đến thay chỗ người Pháp. Sau này người Mỹ đến đây cũng tìm cách diệt Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ. Nhưng cũng không được. Họ đã phải dùng đến thuốc khai quang. Vậy mà diệt cũng không xong. Thuốc khai quang, bom săng đăc, B52 trải thảm. Hết lớp này đến lớp khác. Nhưng chỉ ít lâu sau không biết từ đâu Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ lại xuất hiện nhan nhản.
Có người kẻ sĩ như Nguyễn Ngọc Lan lúc ấy lo sợ Mỹ khai quang quá, hủy hoại sinh thái đã viết rằng:Cho cây rừng còn xanh lá. Nếu lúc này, Nguyễn Ngọc Lan còn trên dương gian này thì chỉ xin được hỏi cây rừng nào? Có Cây Cộng Sản hay Cỏ Cụ Hồ không? Có lẽ, ông sẽ lắc đầu quầy quậy. Đừng hỏi.
Câu truyện Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ dù sao cũng chỉ là truyện dân gian, ví von tưởng tượng. Phần người viết vốn không quen viết phiếm luận. Bản chất thật thà nên gọi thẳng tên Cây Cộng Sản là chủ nghĩa cộng sản, Cỏ Cụ Hồ là đám cán bộ, đảng viên đảng cụ Hồ. Người viết tự hỏi nay đã hơn 30 năm mà cái đảng ấy vẫn muốn diệt, san bằng cây dừa miền Nam, sau khi đã thanh toán xong cây cau miền Bắc? Cây dừa vốn làm nên sinh cảnh miền Nam, cái hồn của dân miệt vườn. Cây cỏ miền Nam có tội tình gì mà cứ muốn diệt cho bằng được? Và sau đây là những phân tích, lý giải, trình bày của người viết bài này.
Hoàn cảnh cây cau và cây dừa
Sự thực là khi người cộng sản vào Hà Nội năm 1954, họ coi người dân từ vĩ tuyến 17 trở như “người của họ,” cây cau và họ là một gốc về phương diện hành chánh, lịch sử, quản lý, chính trị. Họ cư xử như người “trong một nước,” dù là thứ nước của một đảng độc tài toàn trị.
Nếu có những thành phần chống đối trong cái “trong một nước” không tránh khỏi thì cùng lắm nó giới hạn vào một nhóm người, một cá nhân. Chẳng hạn, khi mới tiếp thu Hà Nội, có sự phân biệt người “Hà Nội Mới” và người “Hà Nội cũ” trong cách sống, cách ăn mặc. Một bên gọn ghẽ sạch sẽ, “văn minh thành thị” nề nếp trong cử chỉ lời ăn, tiếng nói. Ta gọi là Tỉnh. Bên kia ăn mặc lố bịch lôi thôi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói quê mùa. Ta gọi là Quê. Quê và tỉnh chỉ đại diện cho nếp sống văn hóa cá biệt, nhưng vẫn có thể sống chung.
Sau này ở miền Nam, cũng có sự khác biệt giữa Cỏ Cụ Hồ và cây dừa miền Nam. Nhưng khác biệt rõ nét và sâu sắc hơn nhiều. Khác đến đối kháng, đến muốn hủy diệt nhau. Nó không còn là tỉnh với quê nữa. Mà là nếp sống văn minh và nếp sống lạc hậu. Kẻ thua trở thành nạn nhân đủ kiểu của kẻ thắng. Nhưng ở một mặt khác, đôi khi kẻ thua là kẻ mở mắt cho kẻ thắng,dẫn đường cho một lối sống mới khác hẳn thế giới u tối, kìm kẹp của Cỏ Cụ Hồ. Nhưng chẳng bao lâu sau ở miền Bắc sau 1954 thì khái niệm mới cũ tan loãng do những áp lực dân số của định luật đa số. Khái niệm mới cũ không còn lý do tồn tại, vì cũ mới gì cũng chỉ còn là những con người cùng khổ cùng một lo toan cơm áo. Vì thế, Cây Cộng Sản không có tâm trạng kẻ chiến thắng đối với kẻ thua cuộc. Không có so bì gìữa Cây Cộng sản và cây cau. Không có não trạng đế quốc. Cho nên cũng không có mấy cảnh cố vơ vét, chiếm đoạt cho bằng được.
Trái lại, tại miền Nam Cỏ Cụ Hồ và cây dừa miền Nam là những lực đối kháng muốn truy diệt. Từ đó nảy sinh ra hiện trạng cá nhân vơ vét theo cá nhân, chính quyền vơ vét theo chính quyền như thể chiếm miền Nam là “một chiến lợi phẩm” giữa hai nước thù địch. Hàng đoàn xe trở về Bắc vật tư, kho dự trữ, xe cộ, máy móc.
Người ta nói rằng Cỏ Cụ Hồ khi vào miền Nam tối mắt lại, lòng tham nổi dậy, gặp gì cũng vơ vét. Chẳng hạn, hãng Cogido còn tồn kho 8000 tấn giấy in. Thế là chở ra Bắc. Tất cả các xe hơi mới của các hãng Citroen, Renault, Peugeot cũng được lệnh chở ra Bắc. Hãng Engineco có 165 xe đã được nối đuôi nhau ra Bắc. (Xem thêm La mousson de la liberté-Viet Nam Du colonialisme au Stalinisme, Friang Brigitte, Plon, 1976) Sĩ quan, cán bộ thì chuyên chở về Bắc, xe Honda, salon, tủ lạnh, tivi, quạt máy, vải vóc, đồ gia dụng, thuốc Tây. Từ chổi cùn dế rách khuân tất, dọn sạch. Người nước ngoài nhận xét, đây là một hình thức tự thực dân hóa chính người mình hay đúng ra là một cuộc hôi của. Nay xe Honda chạy đầy đường thành phố Hà Nội thay cho xe đạp và nhất là dẹp bỏ xe điện một toa. Một nét đẹp cổ của thủ đô Hà Nội. Xem ra có sự lấn lướt về giá trị giữa hai miền. Cái gì của miền Nam thuộc vật chất thì được coi là tốt, là đẹp, là tiện nghi, là văn minh tiến bộ.
Sự vơ vét chiếm chiếm đoạt mang tính chất nhà nước, như một định chế bất khoan nhượng, luật rừng. Cái luật rừng ấy củng cố thêm cho cái hào quang chiến thắng và làm mờ lương tri và lẽ phải. Dựa vào chiến thắng biến chuyện vơ vét thành chuyện chính đáng, tự nhiên. Như một thứ cướp ngày.
Năm 1975, khi Sài Gòn rơi vào tay cộng sản thì có hơn 30.000 công xưởng kỹ nghệ rơi vào tay chính quyền mới. Có hằng trăm cơ sở kỹ nghệ có từ 1000 đến 3000 công nhân viên nay do nhà nước quản lý.
Một phần các cơ sở kỹ nghệ tập trung trong khu Kỹ Nghệ Biên Hòa, thành lập năm 1963, rộng hơn 300 hectares, cách Sài Gòn 25 kilômét. Nơi đây có nhiều hãng: Như Chế biến thực phẩm. Chế biến Hóa chất. Sản xuất vật liệu xây dựng. Sản xuất Giấy và các sản phẩm giấy. Các hãng Thủy tinh. Hãng Bao Bì. HãngThép, hãng Cáp điện. Hãng Sơn gỗ. Tiêu Biểu có các hãng Coronel, Vimytex, Vinatexco, Sicovina. Các hãng dược phẩm như Roussel, Vina-Spécia, Hoechst, hãng sữa Nestlé. Về kỹ nghệ, có các hãng xăng dầu Nhà Bè, các hãng dệt (năng xuất 240 triệu mét/năm)các hãng bia, nước ngọt,(250 triệu lít/năm) hãng sữa, các hãng thực phẩm như Bột Ngọt, làm mì gói, dầu ăn. Các hãng như Pin Con Ó, hãng bông gòn Bạch Tuyết. Các nhà máy xi măng, nhà máy giấy. Rồi đến các cảng biển như bến cảng Sài Gòn bốc dỡ 7 tiệu tấn/năm. Các hãng tàu biển, các kho hàng. Thu tất. Chở tất cả về Bắc cái gì chở được.
Rồi còn các phi trường. Xin được đưa một vài chi tiết mà Cỏ Cụ Hồ gọi là “chiến lợi phẩm” tại phi trường Tân Sơn Nhất. Trong bài: Những ngày đầu tiếp quản Tân Sơn Nhất, ông Trần Vĩnh Khâm cho hay: Ngoài các cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhà xưởng. Họ tịch thu được 2 DC6, 7 DC3, 5 DC 4 một B.727, một Boeing 707. Cộng thêm 76 máy bay quân sự gồm các loại C.130, Ch.47. C.7A, v.v... (Trích Trần Vĩnh Khâm, người trách nhiệm tiếp quản sân bay Tân Sơn Nhất, thuộc cục cảng Hàng Không Việt Nam) Tôi thật ngạc nhiên không hiểu các vị tổng giám đốc Hàng không VN lại có thể để lại một cách phí phạm những phi cơ phản lực như B.727 như vậy cũng như vô số máy bay vận tải quân sự. Với chừng đó máy bay, ít lắm cũng cứu được vài ngàn người ra khỏi Việt Nam. Chưa kể các căn cứ quân sự và quân trang, quân dụng với hàng ngàn xe tăng đủ loại của Việt Nam và của Mỹ để lại.
(Còn tiếp)
© DCVOnline
Nguyễn Văn Lục |
16-05-2009
| ||||||||
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét