Trong thơ tình thời tình yêu
được thăng hoa như lý tưởng nhân sinh, có lẽ khó tìm ra bài nào chan chứa yêu
đương bằng bài: Ba
lời cảm ơn. Chúng ta thử đọc trọn mười hai câu viết vội trên một mẩu giấy
tặng người tri kỷ thì thấy ái tình thực bao la vượt khỏi giới hạn vốn có của
ngôn ngữ:
Cảm ơn trời đất thật tài hoa
Đưa hết tình anh với đậm đà
Đem cả bài thơ và khúc nhạc
Sắc trời hương đất tạo em ra.
Cảm ơn thầy mẹ khéo nhân duyên
Sinh tạc ra em khối diệu huyền
Dáng nét làm cho anh quyến luyến
Sáng ngời đôi mắt khiến anh điên.
Lắm lúc nhìn em sững mắt anh
Cảm ơn em đã đón
anh nhìn
Anh nhìn như thể rơi con mắt
Và cả thời gian cũng đứng im.
Một bài thơ tình thực khéo và thực đậm
đà gửi cho người mình yêu dấu. Người trong bài thơ khó
ngăn cảm xúc tuôn trào và ai khác đọc
mà chẳng cảm động
giùm cho kẻ yêu nhau và nhớ tới cuộc tình của mình, mà vì thiếu khả năng
ngôn ngữ tài hoa, nay đành
nhờ thi nhân thay lời.
Khéo ở chỗ mượn
lời cảm ơn để ca tụng người mình yêu, đồng thời
để bày tỏ lòng mình trân trọng và sayđắm
người tình. Lòng biết ơn bày tỏ theo thứ tự từ cao xuống thấp, trời đất “tạo ra
em”, thứ tới cha mẹ sinh thành và cuối cùng là cảm tạ chính thần tượng trước
mắt vì “em đã đón anh nhìn”.
Cảm ơn trời và cũng ngỏ lời ca tụng hóa công, hòa hợp sắc trời,
hương đất
tạo ra một nhan sắc tuyệt trần. Tri ân thầy mẹ đồng thời cũng để
ca tụng nhân duyên đẹp
đẽ của đấng sinh thành giúp tạo ra một
khối diệu huyền khiến người thơ say đắm.
Nhưng quan trọng hơn cả là lòng biết ơn chính người
mình chiêm ngưỡng vì “nàng” đã đón nhận tình
cảm đắm
đuối của người thơ.
Có người khi đọc bài thơ lại nghĩ đến nhịp ba
của một hôn lễ, những phút long trọng và thiêng liêng nhất của một cuộc tình
nào là lạy trời, nào là lạy cha mẹ và lúc mặt nhìn mặt hai kẻ bước vào hôn nhân
thì vái nhau.
Đọc kỹ mới thấy ba lời cảm
ơn thực ra có thể thu vào một lời. Cái khéo ở chỗ dùng nhiều hình ảnh,
minh họa cũng như ẩn dụ, nhằm làm nổi bật chân dung người yêu. Ai mà trong tình
yêu đam
mê như thế? Tình yêu nào mà chất lãng mạn bay bổng tới mức đó?
Nếu biết chân tướng của bài thơ và rõ thi sĩ là ai thì phần đông
chúng ta đều ngạc nhiên và phải nhận rằng do cảm xúc, do sức mạnh của vần điệu
tạo nên tưởng tượng đã dẫn ta tới sai lầm trong khi thưởng ngoạn văn chương.
Bài thơ trên là của Xuân
Diệu và không phải gửi cho
một cô gái mà tặng một chàng trai. Bài thơ được sáng tác vào năm 1982 ở Mạc tư khoa khi Xuân
Diệu gặp một người đồng hương
đẹp trai có tên là Đặng
Của tuổi đời thua ông gần hai
giáp. Tặng một người con trai mà có những lời tha thiết như thế mới thực là kỳ
lạ và ai lạc vào thế giới tình yêu của Xuân
Diệu với hàng bốn năm trăm
bài hẳn bỡ ngỡ với thứ tình trai chưa từng có trong thơ Việt.
Không phải
ngày nay người đọc
mới rõ tình yêu của Xuân
Diệu có nhiều “ngang trái” so
với bình thường. Từ lâu có một câu hỏi đặt
ra: tình ái dưới ngòi bút của Xuân
Diệu là thứ ái tình nào? Cho đến nay nhiều
độc giả cứ tưởng
đó là tình yêu trai gái mà chúng ta quen gặp trong văn
chương lãng mạn Việt Nam
tiền bán thế kỷ XX. Không phải chỉ chúng ta lầm mà một phụ nữ có kinh nghiệm
như Bạch
Diệp cũng lầm nên vào tuổi
xấp xỉ 30, đã
chấp nhận làm vợ Xuân
Diệu, cứ tưởng
sẽ được làm
vợ “một nhà tình thơ lớn vào bậc nhất” và hy vọng kẻ đa tình sẽ
mang cả tâm hồn và thể xác phụng sự mình. Kết cuộc cuộc hôn nhân là một bi-hài
kịch. Đôi
vợ chồng nằm chưa ấm
chiếu và chỉ nửa năm sau đã chia tay. Thì ra Xuân Diệu “yêu rất nhiều” và “tham lam đòi hỏi quá nhiều” nhưng “nhận chẳng bao nhiêu” vì tình yêu của ông dành cho người đồng tính chứ
không phải người khác tính.
Trong cuộc đời, từ lúc là thi sĩ lãng mạn có “mái tóc như mây vướng trên
đài trán thơ ngây” như Thế Lữ mô tả, được bao người yêu thương, rồi
thời cuộc biến thành tha hóa và trở thành cái loa tuyên truyền, Xuân Diệu chỉ có một người bạn đồng hành là Huy Cận.
Trước 1945, cả hai đã gắn bó trong cuộc sống. Xuân Diệu đưa Huy
Cận vào tờ Ngày Nay và nuôi Huy Cậnđi
học trường canh nông. Huy Cận thành danh, Xuân Diệu bỏ việc làm “đoan” ở Mỹ Tho trở về Hà nội sống với Huy Cận. Rồi Huy Cận lao đầu vào chính trị tìm hai
chữ lợi danh, đã
kéo theo Xuân
Diệu, một kẻ tự nhận “tôi khờ khạo lắm ngu ngơ quá, chỉ biết yêu
thôi chẳng hiểu gì”. Tình cảm của hai người là có thực và là tình trai.
Chúng ta nếu đã
có dịp đọc
bài Tình
trai của Xuân Diệu gửi Huy
Cận thì không thể không đọc bài Ngủ chung mà Huy
Cận đã
ghi lại cảm giác yêu đương
với người tình đầu
đời:
Ôi rét! Đêm nay mấy học trò
Ngủ chung giường hẹp, trốn bơ vơ.
- Cô hồn vạn thuở buồn đơn chiếc
Có lẽ đêm nay cũng ngủ nhờ.
Lạnh lùng biết mấy tấm thân xương!
Ân ái xưa kia kiếp ngủ giường,
Đâu nữa tay choàng làm gối ấm;
Còn đâu
đôi lứa chuyện canh sương...
Ai đắp mền cho, trải nệm là?
Đêm dày ướt rượi khí tha ma.
Coi chừng cửa mộ quên không khép,
Địa phủ hàn phong lọt cả mà.
Trốn tránh bơ vơ, chạy ngủ lang,
Hồn ơi! Có nhớ giấc trần gian
Nệm là hơi thở, da: chăn ấm,
Xương cọ vào xương bớt nỗi hàn?
Khổ cuối của bài gợi nhiều hình ảnh tình trai nhất là câu “Xương
cọ vào xương bớt nỗi hàn!”
Hàng chục năm sau, trong Hồi
ký Song đôi, Huy
Cận khi
đã “gót
danh lợi bùn pha sắc xám, mặt phong trần nắng rám mùi dâu” và vào lúc đã khóc bạn
tình “Diệu ơi! Diệu đã về yên tĩnh”, đã thú nhận
mối tình trai dưới dạng tình bạn:
“Chúng tôi sống giữa đời
như hai anh em sinh đôi, nhưng bản lĩnh và phong cách
văn chương thì rất khác nhau, khác nhau và bổ sung cho nhau thành một ‘quả đôi’…
Tôi nhớ lại: Một tháng trước khi Diệu mất, một buổi
chiều Diệu ngồi trệt giữa phòng nói với tôi: ‘Trong hai đứa mình, đứa nào chết trước là
sướng, đứa
nào ở lại sau chắc khổ lắm!’ Tôi nghe lặng người
đi, không dám nói câu gì. Tôi cảm thấy nỗi đau trong lòng Diệu
khi thốt ra câu ấy. Nào ngờ đó
là lời trối trăng của Diệu cho tôi. Quả thật
sau đám tang của Diệu, liền trong nửa năm,
tôi nghe trong người tôi như hẫng đi, và
thấy như cuộc đời
hư lãng. Và rất nhiều lần Diệu về gặp tôi trong giấc chiêm bao”.
Nhưng không phải Xuân
Diệu chỉ “yêu” Huy Cận mà nhà thơ tình của chúng ta tham lam
lắm, đã san sẻ tình yêu cho rất nhiều chàng trai.
Trước 1945, Xuân
Diệu thích Đinh Hùng vì Đinh
Hùng (sinh năm 1920) đẹp trai
(từng đóng vai người đẹpVân Muội trong kịch thơ của Vũ Hoàng Chương) nhưng
tác giả Mê hồn
ca không ưa Xuân Diệu vì nhiều tính xấu như tính tham ăn của
nhà thơ đàn anh như ông đã hồi ức trong Đốt
lò hương cũ.
Tô Hoài kể lại, trước 1945, tác giả O
chuột đã
quen biết Xuân
Diệu và được Xuân Diệu coi như dàn em thân thiết vì Tô Hoài (sinh năm 1920) có dáng bạch diện
thư sinh.
Tô Hoài không thể quên được
“ân tình” của tác giả Thơ
thơ đối
với mình: “Dịu dàng âu yếm, Xuân
Diệucầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm
đuối, Xuân
Diệu gắp thức
ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá, hơi lạ đối với tôi,
nhưng mà tôi cảm động...
thỉnh thoảng Xuân
Diệu lại lên nhà tôi ở Nghĩa đô (ngoại thành Hà nội). Vẫn nắm tay cả
buổi, nhìn nhau tha thiết. Xuân
Diệu yêu tôi”.
Chẳng phải Xuân
Diệu chỉ yêu Huy Cận hay Tô
Hoài mà đúng như ông đã
từng ví mình:
Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá
nam châm
Nếu hương đêm say giậy với trăng rằm
Sao lại trách người thơ tình lơi lả!
Hình như Xuân
Diệu đã
bị thu hút bởi tất cả những chàng khỏe mạnh, xinh trai nên khi theo “kháng
chiến” lên miền núi rừng phía bắc, ông đã
từng bị “kiểm thảo”, “phê bình” tới mức phải khóc chỉ vì tội... đêm đêm tìm tình
yêu nơi “đồng chí” đồng
tính. Tô Hoài kể lại trong Cát bụi chân ai:
“Chẳng biết đêm hôm ấy có ông kễnh nào bị bàn
tay nhung sờ vào rốn không. Cuộc kiểm điểm Xuân Diệukéo dài hai
tối. Hồi ấy chưa biết phương pháp chỉnh huấn, nhưng hằng ngày chúng tôi làm
việc giờ giấc nghiêm ngặt, mỗi tối lại hội ý rút kinh nghiệm, nêu hướng sửa
chữa và trình bày công việc ngày mai của từng người. Cả cơ quan họp đến khuya. Chỉ
có ông Phan
Khôi lên đồi, màn vẫn
mắc sẵn, đi
ngủ từ chập tối, bỏ ngoài tai mọi việc.
Xuân Diệu chỉ ngồi khóc. Không biết Nam
cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Tô Sang và
mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân
Diệu không, tất nhiên không
ai nói ra. Tôi cũng câm như hến... trong đêm
tối mình cũng điên
kia mà, chứ có phải mình Xuân
Diệu đâu.
Không nói cụ thể nhưng
ai cũng to tiếng, gay gắt nghiêm trang phê phán tư tưởng tư sản, tư
tưởng tư sản xấu xa phải chừa đi. Xuân
Diệu nức nở nói đấy là tình trai của tôi
kia mà…! rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra, không hứa hẹn sửa chữa gì cả. Ít lâu
sau, trong một cuộc họp ban chấp hành, Xuân
Diệu bị đưa ra khỏi
ban thường vụ. Và cũng thành thói quen kéo dài, từ ấy không ai nhắc nhở đến những việc
chủ chốt ở ban
thường vụ trước
kia Xuân Diệu đã phụ trách. Bỗng dưng, Xuân Diệu thành một người có thì giờ chỉ chuyên đi và viết. Mà Xuân Diệu cũng tự xa lánh mọi công tác”.
Dù bị chỉ trích đồng
tính luyến ái, Xuân
Diệu vẫn là Xuân Diệu. Hễ có dịp nhà
thơ vẫn lơi lả trong tình cảm:
“Một đêm thị trấn mời Xuân Diệu nói chuyện thơ. Bọn con trai choai
choai kháu khỉnh xúm xít quanh nhà thơ. Tuổi trẻ, trai gái thấy
nhau như có điện, dù điện
yêu hay điện
ghét, điện hút hay điện đẩy
đi, thái độ hiện ngay ra con mắt, nụ cười, cái bĩu môi, dáng xóc cổ
áo, cái nhổ bãi nước bọt. Đằng
này, con gái đi
ngang mặt, Xuân
Diệu cứ dửng dưng như không,
nhưng con trai thì xoắn xuýt vòng trong vòng ngoài. Sáng hôm sau còn đến
chơi. Xuân
Diệu nhìn dõi vào mắt, nắm cổ
tay từng đứa,
mân mê như chọn đẵn
mía. Các cậu ấy còn đeo
ba lô hộ, tiễn chúng tôi một quãng xa”.
Đấy là Xuân
Diệu ở đời thường.
Còn trong thơ văn thì sao? Nhà thơ không hề giấu
giếm tình trai dù vớiHuy Cận và với ai chăng nữa.
Chúng ta thử đọc
bài thơ sau đây
vào năm 1965 ông gửi cho một thanh niên có
tên Hoàng
Cát mà ông đã tình cờ gặp
gỡ và yêu thương. Bài thơ Em
đi như những lời từ
biệt muôn vàn tha thiết và đớn
đau giữa hai người tình trong cơn binh lửa:
Em đi, để tấm lòng son mãi
Như ánh đèn chong, như ngôi sao
Em đi, một tấm lòng lưu lại
Anh nhớ thương em, lệ muốn trào
Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi ta đã phải chia xa!
Nụ cười em nở, tay em vẫy
Ôi mặt em thương như đóa hoa!
Em hỡi! Đường kia vướng những gì
Mà anh mang nặng bước em đi
Em ơi, anh thấy như anh đứng
Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa
Nhưng bóng em đi đã khuất rồi
Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi
thân, dẫu cách vời
Em hẹn sau đây sẽ trở về
Sống cùng anh lại những say mê…
Áo chăn em gửi cho anh giữ
Xin gửi cùng em cả hẹn thề
Một tấm lòng em sâu biết bao
Để anh thương mãi biết làm sao!
Em đi xa cách, em ơi Cát
Em chớ buồn, nghe. Anh nhớ, yêu...
Bài thơ làm người ta nhớ tới đoạn
chia tay giữa chinh phụ và chinh phu trong Chinh
phụ ngâm: “Nhủ rồi tay lại trao liền,
bước đi một bước
lại vin áo chàng” hay liên tưởng tới Thái
Can trong bài Anh biết
em đi. Có lẽ còn tình tứ và da diết hơn nữa. Ôi mối tình trai của Xuân Diệu quả thực là độc
đáo!
Cũng tội cho nhà thơ mang nặng mối tình trai nên khi nhắm mắt
chẳng có cô gái nào tiễn đưa.
Người vợ trên danh nghĩa Bạch
Diệp chỉ gửi
đến viếng thi nhân một vành hoa trắng!
Có thấm thía tình trai của Xuân
Diệu, người yêu thơ mới có thể thưởng thức được những vần
thơ lãng mạn và trữ tình trong Thơ
thơ và Gửi hương cho gió.
Đồng thời, nhờ nhận thức được
chân dung đích thực của nhà thơ, chúng ta mới thấy phần lớn những tác
phẩm chạy theo thời cuộc của Xuân
Diệu sau 1945, kể cả tác phẩm Ngôi Sao được một giải
thưởng văn học gây nhiều tranh luận vào năm
1956, chỉ khởi từ nguồn hư cấu, giả tạo và
tẻ nhạt.
Hoàng
Yên Lưu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét