Nhân đọc Di Chúc Bắc Kỳ Tự Do của Tuấn Khanh
Cách đây vài hôm, khi đọc trên Quê Choa bài “Di chúc Bắc Kỳ tự do” của nhạc sỹ Tuấn Khanh, tôi đã xúc động đến trào nước mắt. Xúc động vì tình đồng tộc, nghĩa đồng bào sâu nặng như tình ruột thịt trào ra qua những dòng gan ruột của anh.
Với riêng tôi, một người “Bắc Kỳ” theo nghĩa rộng, tức là người miền Bắc, sự xúc động còn có một lý do khác mà tôi sẽ nói sau.
Trong phần đầu của bài viết, Tuấn Khanh nói sơ qua cảm nhận về người “Bắc Kỳ” khi anh còn nhỏ. Một thứ cảm nhận hình thành vừa do những gì được thấy, vừa bị ảnh hưởng bởi cả trào lưu và định kiến. Anh viết:
“Bắc Kỳ” trong ký ức từng là một tâm cảm bị ám thị, thiếu thiện cảm hơn cả khi so sánh với “Ba Tàu”.
Và ở đoạn sau:
“Phải mất đến hơn nửa đời người, tôi mới nhận ra rằng không hề có một giai cấp nào trong đồng bào miền Bắc của đất nước mình, mà chỉ có một cuộc sống không được chọn lựa nào đó đã phủ chụp lên từng miền, từng vùng đã ảnh hưởng cùng cực đến họ, tạo ra những điều khó tả (tôi gạch dưới – NTS) như vậy.”
“Những điều khó tả” mà Tuấn Khanh nói ở đây, nói thẳng ra, đó là những tính xấu của dân Bắc. Đành rằng ở đâu cũng có người tốt và người xấu – thậm chí nếu có “cõi trời” thì có lẽ trên đó cũng vậy thôi – nhưng tôi, xin nhắc lại, một người dân Bắc, vẫn phải thừa nhận rằng trong cuộc sống dân Bắc có nhiều cái xấu hơn, trong đó có những cái xấu đặc trưng, hình thành do sống nhiều năm trong một “bầu không khí” luôn khuyến khích những cái nhỏ nhen, bon chen, giả dối.
Rất may là những người như Tuấn Khanh vẫn nhận ra rằng những cái xấu đó không phải nằm trong bản chất con người, mà chủ yếu do “có một cuộc sống không được chọn lựa nào đó đã phủ chụp lên từng miền, từng vùng đã ảnh hưởng cùng cực đến họ, tạo ra những điều khó tả như vậy.”
Cái “cuộc sống không được chọn lựa nào đó” này là gì? Đó là lối sống bị áp đặt cách thô bạo. Áp đặt thứ kinh tế tập thể, trong đó những người làm việc năng nổ và xuất sắc không được hưởng nhiều hơn kẻ lười biếng. Thậm chí, người lao động giỏi nếu không biết khom lưng thì có thể bị mất hết, trong khi kẻ lười nhác nhưng chịu khó lấy lòng cấp trên có thể được nhận nhiều thứ. Cái thứ kinh tế tập thể đó đã đi đến cái kết cục tất yếu là suy thoái trầm trọng, đẩy con người đến chỗ càng phải bon chen, thu vén bằng mọi cách mà gần như không còn cảm giác xấu hổ. Áp đặt lối suy nghĩ và nói năng theo mẫu của cấp trên. Áp đặt những cuộc “sinh hoạt tư tưởng” đe dọa biến tất cả những ai có suy nghĩ độc lập, tự do thành “kẻ thù giai cấp”. Áp đặt một thứ “tình cảm cách mạng”, đẩy tình ruột thịt, tình bạn hữu xuống vị trí thứ yếu…
“Tôi nhận ra điều đó, ở một ngày khi thấy chung quanh mình có rất nhiều bạn, kể cả thầy cô, là những người Bắc mà tôi tin cậy.” Tuấn Khanh viết tiếp. Tình ruột thịt mạnh hơn hết thảy trong con người anh đã giúp anh nhận ra nguyên nhân của “những điều khó tả” trong những người đồng bào Bắc Kỳ. Và khi nhận ra điều đó, anh càng thấy thương những người bà con miền Bắc hơn. Trong lòng anh thực sự không còn chút ngăn cách nam-bắc nào.
Không những thế, Tuấn Khanh còn khẳng định vai trò của “Bắc Kỳ” trong đời sống xã hội:
“… văn chương Bắc Kỳ, âm nhạc Bắc Kỳ, báo chí Bắc Kỳ… đã góp tay dựng lên một nền văn hóa của cả đệ nhất và đệ nhị cộng hòa của miền Nam.”
Hơn thế nữa, anh đã chỉ ra rằng cuộc di cư năm 1954 của dòng người từ Bắc vào Nam đã mang đến cho cả dân tộc một “bản di chúc vĩ đại”, “bản di chúc về tự do”.
Tình cảm của những người “Nam Kỳ” như Tuấn Khanh thực sự làm ấm lòng những người con miền Bắc, trong đó có tôi.
*
Thời còn trẻ, khi học đại học, vì sống ở Bắc Kỳ nên bạn bè tôi chủ yếu là Bắc Kỳ. Nhưng những người bạn thân nhất của tôi lại là người Nam Kỳ. Đó là con em những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc. Mặc dù các vị cán bộ tập kết này ra Bắc theo tiếng gọi của “cách mạng”, nhưng nhiều vị đã truyền lại được cho con cái họ lối sống và suy nghĩ chân thực, không bị nhuốm màu “chủ nghĩa”, không bày đặt kiểu cách rườm rà. Trong khi những đứa bạn Bắc Kỳ, nhất là kinh kỳ, có “phương pháp thể hiện mình” rất bài bản, thì những đứa con cán bộ miền Nam không hề biết, hay đúng hơn là không bao giờ xài những “bài” kiểu đó. Thấy tôi cũng thẳng tuột, cũng ngố kiểu nhà quê, cánh bạn gốc Nam Kỳ rất quý tôi. Và tôi đã lọt vào được một vài nhóm toàn con em cán bộ tập kết đó. Chúng tôi chơi rất thân với nhau.
Những năm sau này, tôi có dịp tiếp xúc và làm việc với dân “Nam Kỳ chính hãng”, càng thấy họ chân thật và đơn giản hơn hẳn dân Bắc Kỳ, và trong công việc thì họ hầu như không bao giờ láu vặt, dùng những trò tiểu xảo, thú thật, trái tim tôi càng hướng về những người bạn phương Nam nhiều hơn.
Trước 1975, tôi cũng như hầu hết dân Bắc đều suy nghĩ giống như được “dạy”. Lối suy nghĩ đó cũng chi phối chúng tôi khi nhận định về mối tương quan giữa hai miền, về “công lao giải phóng miền Nam” của dân Bắc (dưới sự lãnh đạo của TW!). Nhưng càng ngày, tôi càng hiểu ra rằng nếu không có “công cuộc giải phóng” đó thì miền Nam bây giờ chắc gần giống Đại Hàn Dân Quốc, còn miền Bắc giống như thiên đường CS Triều Tiên. Ý nghĩ đó, cộng với những thông tin cho thấy những người Bắc tràn vào Nam trong ba bốn mươi năm qua mang theo lối sống không phù hợp với dân Nam, làm “những điều khó tả”, làm tôi luôn có cảm giác như mắc lỗi với những người anh em trong đó.
*
Nhiều năm trước, thỉnh thoảng tôi thắc mắc, không hiểu sao trong gia đình người miền Nam không có “anh cả, chị cả”, mà cao nhất là “anh hai”, “chị hai”. Có người giải thích với tôi, đó là do ảnh hưởng quan niệm của một nhánh tôn giáo, trong đó coi cha mẹ thực của con người là ở chốn vô hình nào đó, còn hai người sinh ra mình chỉ là “anh sinh, chị đẻ”. Nếu vậy thì hai người này mới thực sự là anh cả, chị cả, nên trong số những đứa mà họ sinh ra làm gì có ai xứng đáng được gọi là anh cả, chị cả nữa. Tôi thấy cách giải thích này cũng có phần đáng chú ý, nhưng không thật sự thuyết phục.
Cách đây vài năm, trong một lần có mặt ở Quy Nhơn, một tối tôi ngồi trò chuyện với mấy người bạn, đủ cả ba miền. Câu chuyện cuối cùng chạm đến câu hỏi trên. Và thật bất ngờ, một cô người miền Nam trong nhóm đã nêu ra một cách giải thích mà tôi tin ngay lập tức. Đó là ngày xưa khi dân Việt mới vào trong đó lập nghiệp, nỗi nhớ quê và anh em ngoài Bắc sâu nặng đến mức người ta quy ước với nhau rằng con cái trong một gia đình không được gọi nhau là anh cả, chị cả, để hình dung ra như thể chúng có anh cả, chị cả, nhưng anh chị vẫn còn ngoài Bắc. Điều đó cũng là để nhắc nhở rằng tình đồng tộc cũng không khác gì tình anh em trong một gia đình hẹp, để nhắc nhở các thế hệ sau không được quên đi gốc tích của mình, và không được kỳ thị kẻ Bắc người Nam.
Tôi bỗng hoàn toàn tin vào cách giải thích đó. Thậm chí tin rằng nó được truyền lại qua mấy thế kỷ. Thật may là nó đã không bị thất truyền!
Và không hiểu sao, tôi thấy xúc động khác thường, mấy chục năm qua chưa từng như vậy. Lúc đó, tôi đã phải đứng dậy đi ra chỗ khuất, để giấu dòng nước mắt cứ tự động trào ra mà không cách nào ngăn được (ở tuổi ngoài 60!). Mãi hàng chục phút sau, tôi mới dám quay lại, trong sự ngạc nhiên của nhóm bạn vì sự bỏ đi bất thường của tôi.
Cách giải thích của người bạn miền Nam về “anh cả, chị cả”, và những lời tâm huyết như của Tuấn Khanh làm tôi thấy yên tâm, rằng tình đồng tộc, nghĩa đồng bào, bất chấp vật đổi sao dời, vẫn luôn là điều thiêng liêng có thể lay động con tim ta ở nơi sâu kín nhất. Và “Bắc Kỳ”, “Trung Kỳ” hay “Nam Kỳ” chỉ thuần túy là những khái niệm địa lý hành chính.
Suy nghĩ đó làm tôi thực sự thấy ấm lòng và hạnh phúc.
Nguyễn Trần Sâm
Tác giả gửi Quê Choa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét