Nguyễn Văn Lục
Sau 1975, ta mất miền Nam. Ta đã mất tất cả. Mất đất, mất người, mất sự nghiệp, mất thể chế, mất tương lai, mất cuộc sống tự do an bình, mất cả di sản tinh thần vốn là cái hồn tính miền Nam.
Cái gì mất vào tay cộng sản thường là không đòi lại được như mất nhà cửa, cơ sở làm ăn, tiền bạc, ngân hàng, đất đai, ruộng vườn với chính sách con bò sữa bị vắt. Con bò sữa đã bị vắt đến kiệt kệ.
Nhưng cái duy nhất mà chúng ta còn có nhiều cơ may có thể lấy lại được là văn học miền Nam. Cái nền văn học bất hạnh ấy nhiều người tưởng rằng đã bị phôi pha đi. Nay dần dà từng bước một, nó được khơi dựng lại trên đống tro tàn đã mục nát của quá khứ.
Trong tương lai, cần những cơ quan truyền thông, cơ sở báo chí có phương tiện, có tiền bạc đứng ra làm việc này để cứu lấy Văn Học Miền Nam.
Hành trình chữ nghĩa của chúng lưu lạc từ trong nước ra đến hải ngoại không khỏi gặp nhiều trắc trở gian nan. Chữ đã đi theo người, chia sẻ số phận con người và số phận chữ nghĩa.
Tôi có một người bạn có thú chơi sách; anh Lít ở San Diego đã mang sang được toàn bộ Bách Khoa, toàn bộ tập san Quê Hương. Trong khi đó, một số Quê Hương được rao bán 200 đô la ở Việt Nam. Ngoài ra anh Lít còn rất nhiều bản đồ cổ, sách cổ… Nhưng anh không có ý định phổ biến cho mọi người cùng đọc. Ít nữa, tuổi già chết đi rồi, con cái sẽ không biết dùng làm gì, vứt vào thùng rác mất thôi.
Trăn trở với những sách vở cũ mà với tư cách người cầm bút, tôi muốn đóng góp vào việc khôi phục lại văn học miền Nam trong khả năng của mình.
Phần ở trong nước, tôi nhận ra có một giáo sư tên Huỳnh Như Phương vốn là một sinh viên miền Nam trước 1975. Thầy dạy học ông ở dưới Trung Học là Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Xuân Hoàng tại tư thục Trường Sơn, đường Lê Văn Duyệt cũ. Trên đại học văn khoa, ông học với các giáo sư Triết thời đó(1).
Vốn là một người gốc gác miền Nam, trước 1975, ông dễ mặn lòng với Văn Học miền Nam và tôi khá tâm đắc với bài tham luận của ông nhan đề: Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam 1954-1975 (trên bình diện lý thuyết)(2).
Hy vọng vào ông sau này nằm trong số những ngưới có điều kiện có thể phục hoạt văn học miền Nam trong môi trường giảng dạy ở đại học của ông.
Riêng cái kinh nghiệm đi tìm diện mạo văn học miền Nam có nhiều kỳ tích đáng nói lắm. Một nhà văn trẻ trong quân đội miền Nam đã kể lại câu chuyện của ông trong Thư Quán Bản Thảo do nhà văn Trần Hoài Thư điều hành. Trong đó, anh kể lại câu chuyện cười ra nước mắt như sau:
Sau năm 1975, mình vài Sàigòn đi kiếm tiền ở khu nhà ga xe lửa cũ đường Lê Lai. Mình vào nhà vệ sinh công cộng ở bên hông nhà ga và thật mủi lòng khi thấy một nửa trang báo Khởi Hành rách bẩn có thơ của mình. Tâm trạng của mình lúc đó không thể nói được bằng lời. Chắc lúc đó Sài gòn cũng buồn thê lương như mình. Mình khóc thầm lặng một mình và vuốt thẳng thớm mảnh báo rồi cất cẩn thận vào chiếc bóp cũ… (Thư Từ Huế).(3)
Thân phận mảnh giấy báo trong một cầu tiêu công cộng ở nhà gare xe lửa Sàigon cũng là thân phận nhà văn miền Nam sau 1975.
Hiện nay, các nhà văn lớp đầu của miền Nam không còn mấy người, các nhà văn thế hệ thứ hai tính từ năm 1963 tụ họp lại có mất mát ít nhiều, nhưng nói chung còn khá đông đủ.
Người thì còn mà sách, tác phẩm thì không còn. Phải chăng đó là điều mà tôi có bài văn này.
Kinh nghiệm bản thân tôi muốn tìm lại cuốn Hồi Chuông Tắt Lửa của Thế Nguyên- một cuốn chuyện được in ra vào thập niên 1970 mà ở thời điểm đó đã gây một cú sốc trong tôi vì nội dung câu truyện, tôi đã vô vọng viết rao trên báo Tân Văn và trong bài: Sách cũ miền Nam trước 1975 để tìm lại nó.
Chẳng bao lâu sau, tôi nhận được món quà quý hóa đó một cách bất ngờ từ nhà văn Ngô Thế Vinh, bản sao cuốn truyện đó.
Những chuyện đi tìm về quá khứ di sản miền Nam mang nhiều ý nghĩa cao đẹp như thế. Tôi đã sống cái tâm tình đó khi đi về miền Nam thân yêu tìm lại sách cũ.(4)
Và dĩ nhiên sẽ còn nhiều câu chuyện cảm động về những đứa con tinh thần đã lưu lạc mà nay tìm lại được. Cho nên, tất cả những ai cách này cách khác khôi phục lại diện mạo văn hóa, văn học miền Nam thì chúng ta đều trân trọng.
Ngay đối với những nhà văn miền Bắc trước đây do tuyên truyền, do những lý do của lý do đã có lúc nhục mạ, phê phán sai lầm về gia tài văn học của miền Nam nay đổi chiều xin cũng rộng tay đón tiếp họ.
Chúng ta không quên quá khứ, nhưng có những điều cần phải quên. Đi tìm lại sách cũ cũng là đi tìm lại những người có lòng với sách cũ miền Nam. Tất cả chúng ta gặp nhau ở một điểm hội tụ Oméga. Ở nơi đó, chúng ta sống lại cả một dĩ vãng tươi đẹp mà chúng ta dù mất tất cả cũng vẫn cảm thấy hãnh diện.
Nếu người dân miền Nam trước 1975 có điều gì cần được hãnh diện- ngoài một hệ thống tổ chức giáo dục-hành chánh-quân đội- điều còn lại chính là diện mạo văn học miền Nam. Cho nên sự thay đổi cách đánh giá về văn học miền Nam của một số những nhà văn miền Bắc trước đây phải coi là dấu hiệu tốt đẹp.
Ít lắm nó dẹp bỏ được cái não trạng Winner-take-all, kẻ thắng thì vơ vét hết về cho mình. Cái bệnh vĩ cuồng của kẻ thắng trận chỉ nên dành cho những kẻ có chức quyền. Chúng vơ hết về cho mình và chẳng nghĩ tới những đồng đội, những người lính, những thanh niên xung phong, những thương binh cả nửa triệu người, những bà vợ, bà mẹ chiến sĩ mất con hoặc góa chồng, những thiếu nữ thanh niên xung phong.(5)
Còn những nhà văn miền Bắc mà tôi được biết như Lê Đạt, Nguyên Ngọc, Bùi Ngọc Tấn, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Tiến Lộc, Nguyễn Chí Thiện. Và nhiều người khác thì họ được gì sau cái chiến thắng đó.
Ở một tầm cao hơn nữa, nó thể hiện điều mà Alexis de Tocqueville trong cuốn Democracy in America viết năm 1835 như sau: Sự cao cả vĩ đại của người Mỹ không phải chỉ đơn thuần là do họ sáng suốt hơn các dân tộc khác, mà là do họ có khả năng sửa chữa những lỗi lầm của mình.(6)
Ý nghĩa cao đẹp nhằm sửa chữa những cái nhìn thiên lệch, miệt thị văn học miền Nam nằm trong cách thức mà một số nhà văn miền Bắc đã bắt đầu nhìn lại. Biết nhìn lại đâu là những lỗi lầm quá khứ cần vượt qua là bước tiến triển đáng khích lệ.
Tôi xin lấy lại một lời tuyên bố của tướng De Gaulle nằm trong ý nghĩa này: Mỗi một cuốn sách là một con người.
Cho nên đi tìm lại sách cũ miền Nam là đi tìm lại một phần đời của chính bản thân mình, bạn bè mình, các nhà văn lớn nhỏ.
Cho nên đi tìm lại sách cũ miền Nam là đi tìm lại một phần đời của chính bản thân mình, bạn bè mình, các nhà văn lớn nhỏ.
Phía Hải ngoại, tôi phải trân trọng nhà văn Trần Hoài Thư nằm trong số ít ỏi muốn vực dạy các nhà văn, nhà thơ gốc lính đã bị bỏ quên. Người viết sẽ có một bài viết riêng về diện mạo văn học chiến tranh kể từ sau 1954 thường bị bỏ quên từ hai phía.
Phần một: Hiện tình sách báo miền Nam sau 1975 ở trong nước
Khi chiếm xong miền Nam, người cộng sản có một chính sách khủng bố mang tính chất nhà nước là xóa bỏ toàn diện vết tích miền Nam về mặt thể chế, mặt kinh tế, mặt xã hội và cả về mặt văn học.
Thực tế là xóa bỏ con người miền Nam được coi là quá nhiễm độc một thứ văn hóa của thực dân mới -một thứ văn hóa đồi trụy- một thứ văn hóa phản động.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong kỳ họp Quốc Hội đã chủ trương:
Phải nhổ tận gốc rễ những nọc độc về tư tưởng văn hóa thực dân mới mà đế quốc Mỹ đã gieo trồng ở miền Nam Việt Nam. Đó là thứ văn hóa, nô dịch, lai căng, đồi trụy cực kỳ phản động cùng các hủ tục, mê tín, dị đoan lan tràn(7).
Phần tôi, cho đến hiện nay, sau 40 năm tôi kể từ ngày mất miền Nam vẫn chưa tìm ra được bằng cớ xác thực Mỹ đã đầu độc dân miền Nam bằng thứ văn hóa thực dân mới, đồi trụy, phản động là thứ văn hóa gì. Và cũng gần 40 năm ở xứ người, tôi chỉ nhận ra những điều tốt đẹp mà xứ sở này dành cho những người dân Việt tỵ nạn.
Ở đây, nơi chúng tôi đang sinh sống có một cuộc sống mà con người được nhìn nhận và tôn trọng. Dựa theo tinh thần tôn giáo, tôi có được đọc một cuốn sách nhan đề rất là kỳ diệu: Dieu est né en exil (God was born in Exile).
Chúa còn phải sinh ra trong hoàn cảnh lưu đầy thì phần chúng ta có xá gì. Phần Chúa đã vậy thì phần chúng ta là gì trong ý nghĩa của chữ Exil. Và một lúc nào rảnh rỗi phải mổ xẻ chi ly hai chữ emigrant và exil mới được.
Nhiều người ngồi nghĩ lại mình có lúc thầm nghĩ rằng cuộc lưu đầy nay trở thành cuộc sống ở miền đất hứa. Trong nỗi bất hạnh tìm được cửa ngõ vào vườn địa đàng.
Trở lại trong việc xóa bỏ văn học miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản đã tiến hành hai bước:
- Ngay trước khi chiếm được miền Nam thì chính quyền cộng sản miền Bắc đã tiến hành một cuộc tuyên truyền nhằm đánh phá miền Nam liên tục trong nhiều năm trời. Theo Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức thì đã có 286 bài phê bình đủ loại được đăng tải trên các tạp chí như Học Tập, tạp chí Văn Học và Văn Nghệ. Vì đối với người cộng dựa sản theo Marx, phê bình là một thứ võ khí. Đối tượng của phê bình chính là kẻ thù mà nó muốn tiêu diệt.
Cho nên, Lê Duẩn, sau 1975 ngay trong Đại hội 5 đã chỉ thị: ‘Sau ngày giải phóng, nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”(8)
Những lời tuyên bố có tính sắt máu của Lê Duẩn phải được coi là mang mầm mống một ý thức hệ cực đoan ‘tập thể’ như một thứ cực đoan “Hồi giáo” mà thực chất cả hai thứ cực đoan tôn giáo và cực đoan chính trị chỉ là một.
Nghĩ đến cảnh tiêu hủy gần 200 triệu cuốn sách của miền Nam, tôi liên tưởng đến câu chuyện trong thế chiến thứ hai, tại Normandie – hình như ở vùng Basse-Normandie, ở vùng này, có nhiều cây sồi lâu từ 100 năm đến 2,3 trăm năm, nơi quân đội đồng minh đổ bộ. Một người dân làng muốn bảo vệ một cây sồi đã gắn một tấm bảng yêu cầu đôi bên đừng phá hủy cây sồi.
Sau chiến tranh, cây sồi còn nguyên vẹn.
Một cây sồi thôi còn có một giá trị như một di sản văn hóa, được đôi bên tôn trọng. Câu chuyện đó giúp người hiểu biết đánh giá về tư cách những người đi giải phóng. Một câu truyện khác, tôi đọc trong cuốn Hồi ký của con trai De Gaulle.(9) Ngay sáng hôm sau, ngày giải phóng Paris, ba tôi, tướng De Gaulle đã đi bộ về khu Saint-Francois-Xavier, nơi ông ở trước khi lưu vong sang Anh. De Gaulle vui mừng thốt lên: “‘Rien n’a changé, J’ai tout revu”. Đã không có gì thay đổi, tôi đã thấy lại tất cả… Và tôi có cảm tưởng như mới rời nơi đây ngày hôm qua. (Ông đã rời Paris ngày 10-6- 1940). Hai bàn máy đánh chữ vẫn còn ở y nguyên chỗ cũ, cây kiếm kỷ niệm, ngày ra trường võ bị Saint-Cyr cũng vẫn còn đó. De Gaulle xúc động đến sững sờ.
Điều gì đã làm cho quân đội Phát xít Đức không đụng chạm đến căn nhà của De Gaulle.
Cũng trong tinh thần bảo vệ cung điện, bảo tàng của Pháp, tướng Leclerc trước khi tiến vào Paris đã gửi công điện cảnh cáo binh lính Đức rằng: ‘Nếu các ông phá hủy một trong những di tích lịch sử của Paris, không một người lính Đức nào sẽ có thể sống còn’(10).
Xem người để nghĩ đến ta.
Vậy mà người dân vùng Ninh Bình, Thanh Hóa, nói chung là khu tư, khu năm còn nhớ Hồ Chí Minh đã hô hào dân chúng áp dụng chiến thuật nhà không vườn trống, đốt sạch, phá sạch để cho quân đội Pháp không thể dựa vào dân.
Trừ Bùi Chu, Phát Diệm, nơi giám mục Lê Hữu Từ phản đối lệnh đó nên nhà cửa ở đây vẫn còn nguyên vẹn, các vùng Thanh Hóa trở vào như Vinh nhiều nơi chỉ còn là những hoang địa.
Để thực hiện công tác xóa bỏ Văn học miền Nam này thì có một đội ngũ cán bộ đặc trách là Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phan Đắc Lập, Thái Kế Toại, Lê Đình Kỵ, Vũ Hạnh ngay cả giáo sư Trần Văn Giàu (giáo sư Trần Văn Giàu viết hẳn một cuốn sách phê bình cuốn Nhận Định IV của Nguyễn Văn Trung) cũng tham gia vào công tác bài trừ này.
Nhưng có hai tác giả được coi là viết với nhiều tài liệu dẫn chứng được coi là có căn cơ nhất và cũng thâm độc nhất: Một vốn là một người sinh ra và lớn lên, được đào tạo từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam. Đó là Lữ Phương với cuốn: Cuộc xâm lăng về Văn hóa và tư tưởng của Đế Quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (1980)(11).
(Còn tiếp)
Nguồn: Bài do tác giả gởi và đã đăng trong Thư Quán Bản Thảo, số 63 Tháng 2-2015. Trang 283-356. DCVOnline minh họa.
Tài Liệu Tham Khảo:
(1) Huỳnh Như Phương vốn là hoc sinh và sinh viên Văn Khoa, ban Triết Sàigon trước 1975. Nay đỗ tiến sĩ và giảng dạy đại học Tổng Hợp, Tp Hồ Chí Minh. Ông có ý hướng muốn có sự cải tổ giáo dục hiện nay và mong tiến đến một nền tự trị đại học. Có tự trị đại học là có con đường mở ra cho Văn Học miền Nam trước 1975 có sơ sống dậy.
(2) Xem thêm Nguyễn Thị Ngọc Nga với bài: Sự hiện diện của triết học và văn học hiện sinh ở đô thị miền Nam 1954-1975 trong vietvan.vn, Khoa viết văn. Bao chi
(3) Trích Thư quán bản thảo: Chủ đề Khởi Hành và tôi, số 62, tháng 12-2014
(4) Xem thêm bài viết của tác giả: Sách cũ miền Nam.
(5) Xem thêm Nguyễn Văn Lục, Mảnh đất chuồi.
(6) Lấy lại ý của luật sư Đoàn Thanh Liêm tròng bài điểm sách cuốn Europe’s promise
(7) Trích báo Nhân Dân ngày 26- 6- 1976
(8) Xem Trần Trong Đăng Đàn trong Văn Hóa, Văn Nghệ Nam Việt Nam
(9) Cuốn De Gaulle, mon père, do Philiipe De Gaulle viết, trang 359
(10) Philippe De Gaulle, Ibid, trang 351. Si vous touchez à un seul de nos monuments publics, pas un Allemand ne survivra.
(11) Xem thêm bài viết Nguyễn Văn Lục: Phê phán cuốn Cuộc xâm lăng về Văn hóa và Tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam
(2) Xem thêm Nguyễn Thị Ngọc Nga với bài: Sự hiện diện của triết học và văn học hiện sinh ở đô thị miền Nam 1954-1975 trong vietvan.vn, Khoa viết văn. Bao chi
(3) Trích Thư quán bản thảo: Chủ đề Khởi Hành và tôi, số 62, tháng 12-2014
(4) Xem thêm bài viết của tác giả: Sách cũ miền Nam.
(5) Xem thêm Nguyễn Văn Lục, Mảnh đất chuồi.
(6) Lấy lại ý của luật sư Đoàn Thanh Liêm tròng bài điểm sách cuốn Europe’s promise
(7) Trích báo Nhân Dân ngày 26- 6- 1976
(8) Xem Trần Trong Đăng Đàn trong Văn Hóa, Văn Nghệ Nam Việt Nam
(9) Cuốn De Gaulle, mon père, do Philiipe De Gaulle viết, trang 359
(10) Philippe De Gaulle, Ibid, trang 351. Si vous touchez à un seul de nos monuments publics, pas un Allemand ne survivra.
(11) Xem thêm bài viết Nguyễn Văn Lục: Phê phán cuốn Cuộc xâm lăng về Văn hóa và Tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét