Chủ Nhật, 12 tháng 4, 2015

Đồng minh bội ước


trahi2
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Cuộc chiến ý thức hệ quốc-cộng ở Việt Nam kết thúc ngày 30/4/1975 với sự chiến thắng của miền bắc cộng sản. Tại sao chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã đứng vững 21 năm lại nhanh chóng sụp đổ như vậy. Nhân đánh dấu 40 năm ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, Nam Nguyên phỏng vấn ông Hoàng Đức Nhã, cựu tổng trưởng Dân vận Chiêu hồi, cựu bí thư Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để tìm hiểu một số khía cạnh liên quan. Ông Hoàng Đức Nhã 73 tuổi hiện cư trú tại Chicago tiểu bang Illinois Hoa Kỳ.

Nam Nguyên : Cảm ơn ông Hoàng Đức Nhã đồng ý trả lời phỏng vấn của Đài RFA. Thưa ông sau 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, nhiều tài liệu của Chính phủ Hoa Kỳ đã được giải mật cho thấy Hoa Kỳ đã có ý định không can thiệp vào Việt Nam Cộng Hòa nữa từ rất sớm và có mục đích chỉ là để rút lui an toàn. Là người thân cận của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ông nhận định gì khi có ý kiến cho là các nhà lãnh đạo và toàn bộ chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị động, không chuẩn bị việc tự lực cánh sinh hay phải sớm tìm kiếm một con đường khác để Việt Nam Cộng Hòa có thể tồn tại.
Hoàng Đức Nhã : Chính quyền của Tổng thống Thiệu lúc đó hiểu rõ mục đích của Tổng thống Nixon, khi ông ta bắt đầu chính sách gọi là “Việt Nam hóa” có nghĩa là Hoa Kỳ rút và hứa sẽ giúp Việt Nam Cộng Hòa trên phương diện quân sự và kinh tế để bảo tồn toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước. Nói chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó bị động là hoàn toàn sai, vì mình đã có rất nhiều thành quả. Những người viết sách về Việt Nam không hề đề cập tới khía cạnh này, Đệ nhị Cộng hòa một mặt chống lại xâm lăng Bắc Việt, một mặt xây dựng đất nước, tạo dựng một chế độ pháp trị có quyền tự do cá nhân. Khi tôi đề cập điểm đó cũng là để nói lên là khi chúng ta chống Bắc việt và người đồng minh dần dần rút đi, họ tìm cách thương thuyết và ký kết một hiệp định trên đầu chúng ta, cũng như người Pháp đã làm hồi 1954… lúc đó chính quyền Đệ nhị Cộng hòa quyết định ngồi vào và tìm đủ mọi cách để tạo những điều kiện tối thiểu để chúng ta tiếp tục cuộc tranh đấu để bảo vệ và phát triển đất nước.


Nam Nguyên : Nhưng Việt Nam Cộng Hòa không còn nguồn viện trợ nữa, đạn dược vào tháng 3/1975 như Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên có nói là chỉ còn đủ dùng 30 ngày. Tại nhiều bệnh viện vào lúc đó đến bông băng cũng phải giặt đi xài lại…không có viện trợ…người ta nói bị động là không tìm nguồn viện trợ thay thế mà phải chuẩn bị rất là lâu dài mới có thể đương cự được với làn sóng quân cộng sản được Liên Xô, Trung Cộng hỗ trợ rất nhiều và họ đã đánh xuống. Họ nói bị động là như vậy, xin ông có thể làm rõ chỗ này ?
Hoàng Đức Nhã : Khi mà chúng ta biết Hoa Kỳ đã rút lui, người đồng minh chính đã tài trợ cho chúng ta và giúp chúng ta rất nhiều. Khi Việt Nam Cộng Hòa thấy cần thêm, mình đã gởi mấy phái đoàn đi cầu viện ở mấy quốc gia khác, nhưng không có quốc gia nào thậm chí đến mấy quốc gia đông nam á chỉ nói mồm thôi không bao giờ cho viện trợ quân sự, viện trợ kinh tế không có bao nhiêu, trong khi Liên Xô Trung Cộng giúp đỡ Bắc Việt tích cực. Đó là một thực trạng mà chính quyền Việt Nam Cộng Hòa phải đối phó. Ngay cả đối với Hoa Kỳ lúc đó mình biết là không còn sự viện trợ như mấy năm trước. Chúng ta cũng đã đề nghị xin vay, nhưng lúc đó người Hoa Kỳ nhất là chính quyền Nixon bị bối rối và Quốc Hội dưới quyền kiểm soát của Đảng Dân Chủ muốn tránh, muốn chấm dứt các đợt viện trợ.


Nam Nguyên : Hiệp định Paris 27/1/1973 được cho là một tiền đề dẫn tới việc sụp đổ của Nam Việt Nam. Theo ông và trong vai trò của mình là người thân cận của Tổng thống, Bí thư Tổng thống và cựu Tổng trưởng nữa thì ông nghĩ là Việt Nam Cộng Hòa sẽ phải đối phó như thế nào, chúng ta đã rút được bài học vừa qua. Tổng thống cũng có nói vào năm 1990 là vì bị lệ thuộc viện trợ mà cuối cùng phải ngồi vào bàn hội đàm. Giả dụ bây giờ lịch sử lập lại, ông nghĩ là Việt Nam Cộng Hòa có thể làm gì khác ?
trahi3
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Nixon năm 1973
Hoàng Đức Nhã : Câu hỏi này rất quan trọng đấy, tôi muốn nhấn mạnh rằng Hiệp định Paris 27/1/1973 không phải là tiền đề đưa tới sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Đó là một căn bản để cho người Mỹ rút quân và Việt Nam Cộng Hòa với sự giúp đỡ của người Mỹ tiếp tục công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Giả sử mình trong hoàn cảnh lúc đó từ 69 đến 73 và phải ký Hiệp định, thì sẽ phải làm như thế nào ? lúc đó mình đâu có thể nào nói với đồng minh là ông tìm cách thương thuyết trên đầu của chúng tôi. Mình đâu thể nói vậy, cũng như anh ra trận đá banh rồi anh nói thôi tôi không chơi nữa vì không thích cái luật lệ, rồi mình lấy trái banh và đi về. Mình phải tiếp tục ngồi vào và tranh đấu để đừng có những điều kiện quá xấu cho tương lai đất nước. Thành thử lúc đó hành động của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, với sự hỗ trợ của tất cả cơ quan lập pháp hiến định, đã tìm mọi cách để đừng có chấp nhận một hiệp định coi như là đầu hàng.
Nói rằng mình sẽ phải làm như thế nào khác. Lúc đó mình biết rằng phải tự lực cánh sinh, phải củng cố. Lúc đó biết rằng tới giai đoạn phải đấu tranh chính trị với cộng sản để thực thi hiệp định, nó có những điều khoản là hai bên phải gặp nhau để nói về tương lai chính trị. Lúc đó Việt Nam Cộng Hòa cũng đã cho tất cả các đảng phái quốc gia biết thực trạng đó để chuẩn bị. Đó là điểm thứ hai riêng về chính trị. Điểm thứ ba về xây dựng kinh tế và xây dựng đất nước, mình có rất nhiều chương trình phát triển nông thôn có nhiều thành quả dân trí ấm no phồn thịnh. Nhưng mà những điều đó không ai nói đến, người ta cứ nhìn vấn đề Việt Nam và cho là mình không có làm gì cả, theo tôi đó là sự sai lầm lớn.


Nam Nguyên : Nhưng thưa ông thực trạng lúc đó là không có tiền nữa, không có tiềm lực kinh tế, quân sự súng đạn không có nữa. Ngay Tổng thống lúc đó cũng nhìn nhận là viện trợ giảm đi rất nhanh và rồi thì những mật ước của Tổng thống Nixon… nó chỉ là mật ước trên phương diện pháp lý không có giá trị, có thể nói cũng chỉ là để đánh lừa thôi ?
Hoàng Đức Nhã : Cái thực trạng lúc đó là một người đồng minh sau khi hứa mà bội hứa, mình không thể thay đổi thực trạng đó được. Như tôi đã nói mình đã gởi các phái đoàn đi cầu viện các quốc gia khác, thậm chí đến các nước Trung Đông như là vương quốc Saudi Arabia chẳng hạn. Tuy nhiên cái việc có thể nói là nỗi lòng của mình là quá tin tưởng người đồng minh ; thật sự trên phương diện chính trị khi một người Tổng thống của một cường quốc hứa thì sao lại không tin. Nhưng mà sau này các tài liệu giải mật cho thấy là vì Hiệp định Paris không được Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn nên Quốc hội không bị ràng buộc theo điều khoản của Hiệp định. Đó là thực trạng mà mình không thay đổi được và Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu đến khi không còn súng đạn.


Nam Nguyên : 40 năm sau khi chấm dứt chiến tranh, ông nghĩ gì về nước Việt Nam hiện tại và khả năng về con đường dân chủ sắp tới ?
Hoàng Đức Nhã : Tôi không có hy vọng chế độ cộng sản ở Việt Nam thực thi nền dân chủ đúng như ý nghĩa của chữ dân chủ. Thứ nhất khi mà độc đảng thì làm sao mà có dân chủ được. Điểm thứ nhì, tự do căn bản của con người không được tôn trọng và điểm thứ ba, hố sâu giữa người giàu giữa con ông cháu cha của chế độ và người nghèo nó quá sâu. Từ 1975 tới giờ tôi chưa về Việt Nam nên không có những dữ kiện chính xác. Tuy nhiên bao nhiêu thống kê của ngân hàng quốc tế, những cơ quan quốc tế cho thấy rõ sự xung đột giữa mức sống và sự phát triển cần thiết của nhân dân mà theo tôi là chưa có được. Dĩ nhiên khi chưa có dân chủ thì không thể san bằng hố sâu giàu nghèo. Cá nhân tôi không thấy dân chủ trong tương lai, ít nhất trong cuộc đời của tôi.


Nam Nguyên : Thưa ông nhiều người đã viết hồi ký, thí dụ ông Nguyễn Tiến Hưng. Về phần ông cũng là một nhân vật của lịch sử, đóng góp rất nhiều vào Đệ nhị Cộng hòa, xin hỏi là ông có định xuất bản hồi ký của mình hay không ?
Nam Nguyên, phóng viên RFA

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét