Hội Nghị Paris
(Bài 1)
Sau khi phái đoàn chuyên viên Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) tức Bắc Việt Nam (BVN) quyết định về thủ tục và chi tiết kỹ thuật trong cuộc họp ngày 10-5-1968, hội nghị Paris chính thức bắt đầu ngày 13-5-1968 giữa Hoa Kỳ và BVN.
Từ ngày 25-1-1969, có thêm hai phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tức Nam Việt Nam (NVN) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGP) tham dự.
Hội nghị Paris kết thúc ngày 27-1-1973 khi bốn bên lâm chiến ký kết Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam (Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam), gọi tắt là Hiệp định Hòa bình Paris (Paris Peace Accords).
Hội nghị diễn ra tại Trung Tâm Hội Thảo Quốc Tế (Centre de Conférences International), trong khách sạn Majestic, số 19 đường Kléber, kéo dài trong bốn năm chín tháng, ban đầu với 28 phiên họp tay đôi giữa Hoa Kỳ và BVN, và sau đó với 174 phiên họp khoáng đại giữa bốn phái đoàn. (Paul Kerasis, Transcripts and Files of the Paris Peace Talks on Vietnam, 1968-1973, Frederick MD: University Publications of America, INC, tt. 1-9.) Ngoài ra, theo một số tài liệu (đưa lên Internet), từ khi mở đầu đến khi kết thúc, tại Paris diễn ra 24 cuộc mật đàm giữa lãnh đạo và cố vấn các phái đoàn Hoa Kỳ và VNDCCH. Hội nghị không họp liên tục, không theo một nghị trình hay thời biểu nhất định, mà chỉ do sự thỏa thuận của các bên tham dự trong từng giai đoạn. Có khi một trong hai bên hay bốn bên hủy bỏ cuộc họp, dầu đã thỏa thuận trước.
1.- CÁC PHÁI ĐOÀN THAM DỰ
Khi hội nghị Paris chính thức bắt đầu ngày 13-5-1968, chỉ có Hoa Kỳ và VNDCCH họp tay đôi. Về phía Hoa Kỳ, tổng thống Johnson cử đại sứ Averell Harriman dẫn đầu phái đoàn Hoa Kỳ, Cyrus Vance làm phó trưởng đoàn. Hai ông nầy là hai chính khách kỳ cựu đảng Dân Chủ. Harriman là người Mỹ gốc Do Thái, từng làm trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tại hội nghị Genève về việc trung lập hóa Lào năm 1962 và áp lực tổng thống Ngô Đình Diệm phải chấp nhận bản hiệp ước nầy.
Về phía VNDCCH, cựu ngoại trưởng Xuân Thủy, ủy viên Trung ương đảng Lao Động (LĐ) tức đảng Cộng Sản Việt Nam, làm trưởng đoàn và Hà Văn Lâu làm phó trưởng đoàn. Phái đoàn Xuân Thủy được đặt dưới quyền một cố vấn là Lê Đức Thọ, ủy viên Bộ chính trị đảng LĐ, đến Paris ngày 3-6-1968. Lê Đức Thọ là người sẽ mật đàm với Kissinger, cố vấn phái đoàn Hoa Kỳ.
Trước khi đến Paris dự phiên họp đầu tiên ngày 13-5-1968, Xuân Thủy ghé Bắc Kinh gặp thủ tư ớng Chu Ân Lai. Chu Ân Lai nói với Xuân Thủy rằng BVN đồng ý điều đình với Hoa Kỳ quá sớm, chưa đúng lúc. Chu Ân Lai khuyên BVN nên trì hoãn hội nghị, kéo dài thời gian vì Hoa Kỳ sẽ không chịu rút lui khi chưa thất bại. (Larry Berman, No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger, and Betrayal in Vietnam, Nguyễn Mạnh Hùng dịch, Không hòa bình, chẳng danh dự – Nixon, Kissinger và sự phản bội ở Việt Nam, California: Nxb. Việt Tide, 2003, tr. 46.) Bắc Việt Nam sẽ thực hiện kế hoạch nầy. Ngoài ra, khi gặp những vấn đề quan trọng, Lê Đức Thọ từ Paris về Hà Nội tham khảo với Bộ chính trị đảng LĐ, đều ghé lại Moscow và Bắc Kinh để thỉnh thị ý kiến.
Sau hai cuộc họp đầu tiên ngày 13 và 15-5-1968, phó trưởng đoàn Hoa Kỳ Cyrus Vance tuyên bố ngày 16-5-1968 rằng nếu bàn về các vấn đề chính trị, phải có sự tham gia của VNCH. (Đoàn Thêm, 1968, việc từng ngày, California, Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr.173.) Hoa Kỳ còn đề nghị mời thêm MTDTGP (Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ, Caùc cuoäc thöông löôïng Leâ Ñöùc Thoï – Kissinger taïi Paris, Haø Noäi: Nxb. Coâng An Nhaân Daân, 2002, tt. 30-31.) Phía CSVN đồng ý ngày 26-10-1968 nên hai bên dự tính cuộc họp đầu tiên có cả VNCH và MTDTGP sẽ diễn ra ngày 6-11-1968.
Tuy nhiên, ngày 2-11-1968, ra trước lưỡng viện quốc hội ở Sài Gòn, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố VNCH chỉ chấp nhận thương thuyết với VNDCCH, không nhìn nhận MTDTGP, không đồng ý giải pháp liên hiệp, và không tham dự hội nghị Paris ngày 6-11-1968. Ngày 8-11-1968, tổng thống Thiệu lên đài truyền hình đưa ra công thức mới để hòa đàm: nói chuyện song phương, mỗi bên một phái đoàn; VNCH và Hoa Kỳ một bên, VNDCCH và MTDTGP một bên. (Đoàn Thêm, sđd. tt. 358-365.)
Ngày 27-11-1968, chính phủ VNCH tuyên bố rằng Hoa Kỳ ủng hộ lập trường ngày 2-11 và 8-11 của VNCH, nên VNCH quyết định tham dự hòa đàm Paris. Tổng thống Thiệu cử phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ làm cố vấn, phụ trách theo dõi; Phạm Đăng Lâm làm trưởng phái đoàn VNCH, cùng Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Ngọc Huy, Vương Văn Bắc, Nguyễn Thị Vui, Nguyễn Triệu Đan và 40 chuyên viên sang Paris tham dự hội nghị. Phái đoàn rời Sài Gòn ngày 7-12-1968. (Đoàn Thêm, sđd. tt. 387, 399.)
Trong phiên họp bàn về thủ tục ngày 18-1-1969, Nguyễn Xuân Phong làm trưởng đoàn VNCH. Từ phiên họp khoáng đại chính thức đầu tiên ngày 25-1-1969, mà Hoa Kỳ và VNCH gọi là cuộc họp khoáng đại hai bên, phía CS gọi là cuộc họp bốn bên, Phạm Đăng Lâm làm trưởng đoàn VNCH.
Công cụ của đảng LĐ tại miền Nam là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGP), thành lập tại Hà Nội ngày 12-12-1960 và ra mắt ngày 20-12-1960 tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, thuộc vùng chiến khu cũ của Việt Minh thời kháng Pháp là chiến khu Dương Minh Châu. Trong ngày ra mắt, MTDTGP công bố “Tuyên ngôn” và “Chương trình 10 điểm” làm căn bản hoạt động của Mặt trận. (Một nhóm tác giả, Chung một bóng cờ, Hà Nội: Nxb Chính Trị Quốc Gia, 1993, tt. 957-962.) Ngoài quân du kích ở miền Nam, Hà Nội dần dần đưa vào Nam lực lượng chính quy do sĩ quan và tướng lãnh BVN chỉ huy.
Khi tham gia hội nghị Paris, MTDTGP chưa lập chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Ngày 12-12-1968 MTDTGP đề cử Trần Bửu Kiếm, làm trưởng phái đoàn MTDTGP. Trần Bửu Kiếm là Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương kiêm trưởng ban Đối ngoại MTDTGP. Trần Bửu Kiếm tham dự hội nghị Paris từ 25-1-1969 đến 5-6-1969 (20 cuộc họp).
Để phái đoàn MTDTGP tương xứng với các phái đoàn khác, từ ngày 6 đến 8-6-1969, MTDTGP họp cùng với Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Việt Nam, tại mật khu gần biên giới Cao Miên trên quốc lộ 22, và bầu ra chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN), trong đó Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch (thủ tướng), Trần Bửu Kiếm làm bộ trưởng Phủ chủ tịch, Nguyễn Thị Bình làm bộ trưởng bộ Ngoại giao. Từ phiên họp thứ 21 ngày 10-6-1969, phái đoàn CPLTCHMNVN do Nguyễn Thị Bình dẫn đầu thay thế phái đoàn MTDTGP tại Paris. (Nguyễn Thị Bình và tập thể tác giả, Mặt trận Dân tộc Giải phóng – Chính phủ Cách mạng lâm thời tại hội nghị Paris về Việt Nam (Hồi ức), Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2001, tt. 53-54.)
2.- LẬP TRƯỜNG CĂN BẢN
Bốn phái đoàn tham dự hội nghị Paris dựa trên các lập trường căn bản như sau:
Dưới thời tổng thống Johnson, Hoa Kỳ đòi trở lại khu phi quân sự, BVN phải xuống thang chiến tranh, tương xứng với việc ngưng oanh kích BVN, để miền Nam cho người miền Nam tự giải quyết chuyện nội bộ. Khi ứng cử tổng thống, Richard Nixon chủ trương không giảm quân. (Đoàm Thêm, sđd. tr. 317.) Tuy nhiên, sau khi đắc cử tổng thống, Richard Nixon đưa ra kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh và chủ thuyết Nixon vào giữa năm 1969, thay đổi chiến lược quân sự, và thay đổi luôn chiến lược ngoại giao toàn cầu, bắt đầu thân thiện với Trung Quốc.
(Việt Nam hóa (Vietnamization) chiến tranh là chuyển gánh nặng quân sự cho quân lực VNCH, để quân đội Hoa Kỳ dần dần không tham chiến nữa, rút lui về nước. Chủ thuyết Nixon chủ trương rằng từ nay Hoa Kỳ sẽ viện trợ quân sự và kinh tế cho những nước nào chiến đấu bằng nhân lực của chính mình để tự bảo vệ mình, và Hoa Kỳ sẽ không gởi quân chiến đấu đến nước đó.)
Việt Nam Cộng Hòa chỉ chấp nhận nói chuyện với VNDCCH, không công nhận MTDTGP. Lập trường của chính phủ VNCH khá cứng rắn, đòi hỏi VNDCCH phải rút quân về Bắc, ngưng xâm nhập và đừng xen vào công việc nội bộ miền NVN. Tuy nhiên, do áp lực của Hoa Kỳ, VNCH đành phải tham dự hội nghị Paris, có cả sự hiện diện của MTDTGP. Năm 1971, khi vận động tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 2 nền Đệ nhị Cộng hòa, tổng thống Thiệu đưa ra lập trường “bốn không”: không liên hiệp, không cắt đất, không hòa giải, không chấp nhận cộng sản. (Chính Đạo, 55 ngày đêm cuộc sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, Houston, Nxb. Văn Hóa, 1999, tr. 404.)
Về phía CS, đại diện VNDCCH tại Paris đòi thực thi chương trình bốn điểm mà Phạm Văn Đồng, thủ tướng BVN, đã đưa ra trước quốc hội BVN ngày 8-4-1965, và nhấn mạnh hai việc chính: 1) Thứ nhất Hoa Kỳ phải dứt khoát vĩnh viễn ngưng oanh tạc BVN. 2) Thứ hai, Hoa Kỳ ngưng tất cả những hành động chiến tranh, rút quân về nước, ngưng yểm trợ cho NVN. Cộng sản không đề cập gì đến quân BVN vào NVN.
Mặt trận DTGP đương nhiên cùng lập trường với VNDCCH. Ngày 3-11-1968, MTDTGP đưa ra “Giải pháp 5 điểm” làm chính sách căn bản, đại để là: 1) MTDTGP phấn đấu thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất, 2) Mỹ phải chấm dứt xâm lược, rút quân khỏi miền NVN. 3) Công việc nội bộ miền NVN do nhân dân miền Nam tự giải quyết theo Cương lĩnh của MTDTGP. 4) Việc thống nhất đất nước sẽ do nhân dân hai miền giải quyết bằng hòa bình. 5) Miền Nam thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình, trung lập. (Nguyễn Thị Bình, sđd. tr. 38.)
Đó là lập trường căn bản của bốn bên tham dự khi hội nghị Paris bắt đầu. Lập trường cũng như chiến thuật và ngôn ngữ ngoại giao mỗi bên thay đổi tùy giai đoạn và hoàn cảnh chính trị.
Hội nghị dậm chân tại chỗ trong nhiều năm. Đến năm 1971, khi Hoa Kỳ làm thân với Trung Quốc, Henry Kissinger (cố vấn An ninh Quốc gia của tổng thống Richard Nixon) qua Trung Quốc, cho các lãnh tụ Trung Quốc biết Hoa Kỳ quyết định sẽ đơn phương rút quân khỏi Việt Nam. Quyết định nầy được tổng thống Nixon lập lại với các lãnh tụ Trung Quốc lần nữa trong chuyến viếng thăm nước nầy vào tháng 2-1972. Trình bày kế hoạch rút quân của Hoa Kỳ với các lãnh tụ Trung Quốc, chẳng khác gì Hoa Kỳ nhờ các lãnh tụ Trung Quốc nói lại và làm chứng với nhà cầm quyền BVN.
Sau khi Nixon về nước vào cuối tháng 2-1972, Chu Ân Lai đến Hà Nội ngày 4-3-1972, thuật lại cho giới lãnh đạo đảng Lao Động (LĐ) nội dung cuộc gặp gỡ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, đồng thời tái khẳng định sự ủng hộ của Trung Quốc đối với BVN. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 200.)
Biết được Hoa Kỳ dứt khoát bỏ rơi VNCH, đơn phương rút quân, BVN phản ứng bằng hai cách: 1) Mở cuộc tấn công “mùa hè đỏ lửa” từ cuối tháng 3-1972 để thử thách. 2) Tại Paris, dưới áp lực của Liên Xô, BVN bãi bỏ điều kiện tiên quyết của CSVN trong hội nghị là giải thể chế độ VNCH, để Hoa Kỳ chấp nhận và khai thông hội nghị Paris từ giữa năm 1972, đi đến ký kết hiệp định, trao trả tù binh cho Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ nhanh chóng rút lui. Khi đó, CSVN mới tiếp tục cuộc chiến tay đôi với VNCH.
Vì vậy, hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là các cuộc họp tay đôi giữa Hoa Kỳ và VNDCCH. Giai đoạn thứ hai là các cuộc họp bốn bên bị CS trì hoãn (1968-1972) và giai đoạn thứ ba là giai đoạn kết thúc (1972-1973). (Còn tiếp) (TríchViệt sử đại cương tập 7, sẽ xuất bản.)
(Toronto, 12-01-2013)
© Trần Gia Phụng
© Đàn Chim Việt
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
- Ai là tác giả hiệp định Paris
- Giai đoạn 1 và 2 Hội nghị Paris
- Hội Nghị Paris: Phái đoàn và lập trường
- Khoảng cách chạy tội – Sự thật phũ phàng về Hiệp Định Paris 1973
- Lược lại 39 năm Hiệp định Hòa Bình Paris dưới mắt người Mỹ
- Hiệp Định Paris, một bản án tử hình?
- Kissinger và Hòa đàm Paris
- Hiệp định hòa bình Paris và những “sự thật phũ phàng”
- Phục hồi Hiệp Định Paris 1973: Hoang tưởng hay hiện thực?
- Từ Paris thương về Hoàng Sa
- Hiệp định Paris 1973
- Hội Nghị Paris: Phái đoàn và lập trường
- Tổng thống Thiệu triệt thoái quân đoàn hai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét