Việt Nam là nơi thị trường thịt chó và nhà hàng ăn thịt chó đang phát triển mạnh vậy mà hôm 15/06 vừa qua, tại Hà nội, các nhà chủ chó lập đàng cúng cơm cho chó và làm lễ cầu siêu cho chó vô cùng trọng thể, với thầy chùa chủ lễ trong tiếng chuông mỏ trang nghiêm, không thua trai đàn cầu siêu cho con người. Kinh phí lên tới hàng tỉ đồng.
Nghĩa trang chó rộng hàng ngàn m2, với những ngôi mộ, những nơi giữ tro cốt, và lối đi lót đá hoa cương lộng lẫy, hương đăng hoa quả tươm tất. Ở đường Trương Định, Hà Nội, có cả khách sạn 5 sao dành cho giai cấp chó đại gia. Trong lúc đó một thầy giáo ở Nghệ An, quê hương Hồ Chí Minh, bị dân chúng bề hội đồng mang trọng thương còn nằm bịnh viện vì bị tình nghi trộm cho. Và một phụ nữ ngoại quốc suýt toi mạng vì tội đi điều tra « chó bị ăn thịt » cho tổ chức bảo vệ thú vật.
Chó vừa tạo ra thời sự nóng bỏng ở Thủ đô Hà Nội không thua hiện tượng “Dân biểu bỏ phiếu tín nhiệm nhơn viên Chánh phủ”. Ngoài ra ở Tàu, xứ “Đồng văn, đồng chủng” với việt cộng ở Hà nội, sẽ giết không dưới 10.000 con chó để tổ chức lễ hội Hạ chí vào ngày 21/06 này. Tổ chức “Nói không với thịt chó” (No to dog meat) gởi thư tới Tàu, Việt Nam, Triều tiên, Thái lan và các nước ăn thịt cho để phản đối.
Cỏ May tuần này chọn nói chuyện về chó cho phù hợp với tình hình mới.
Quan điểm về chó
Chó là con vật có nhiều tên hơn Mèo tuy cả hai đều sống thân cận với gia chủ. Tên ở đây không phải là tên gọi do gia chủ đặt riêng cho nó mà đó là những cách gọi khác nhau chủ yếu chỉ nhằm tránh phải gọi «chó». Người cựu học thâm nho thì gọi «mộc tồn» vừa cho có chữ nghĩa thánh hiền, vừa biểu lộ tính «cao quí» của một tầng lớp sinh vật. Phái tân học gọi «cầy tơ» chủ về nền văn minh phi vật thể ẩm thực của nhơn loại. Kẻ chủ trương hưởng lạc theo trường phái triết gia Épicure (Hy-lạp ở Athènes trước công nguyên) không ngần ngại quả quyết đó là «sống trên đời». Đến thời kháng chiến chống pháp, Việt minh cộng sản lập thành tích «hạ cờ tây» để chào mừng bác đảng! Nhân dân đồng bằng xứ Nam kỳ nói một cách đơn giản, mộc mạc dừa khô, nhưng rất gần gủi vừa phảng phất mùi quốc lủi «Nai đồng quê».
Cách gọi đã khác nhau thì khi đi vào thực tiễn, chó cũng cho loài người nhiều món nổi tiếng khác nhau. Chó có tiếng sủa vang. Loài người khi luận về chó cũng lắm ý kiến, quan điểm khác nhau, chống đối nhau ỏm tỏi.
Người phương Tây yêu quí chó vì chó là người bạn trung thành, thông minh, luôn được nhắc tới với ngụ ý tốt. Nhưng chó, theo quan niệm phương Đông hay Việt Nam nói riêng, không phải trường hợp nào cũng gợi tới điều hay, ý tốt. Điều đó được thể hiện khá rõ trong kho tàng tục ngữ, ca dao. Bên cạnh những thành ngữ ca ngợi đức tính trung thành của con chó như “nhứt khuyển nhì mã” thì cũng có những thành ngữ, tục ngữ với hình ảnh con chó hàm ý không tốt đẹp như “chó dại cắn càn” hay “ giỡn chó, chó liếm mặt ”. Nếu nói rằng người Việt ta ai cũng yêu mến, quý trọng chó thì không hẳn đúng . Đến như người Mỹ, Pháp, Anh, Đức, …có tiếng là thương chó «Gia đình thường gồm có vợ chồng và con chó» mà vào mùa hè họ vẫn đem chó vứt bỏ ngoài đường để đi nghỉ hè. Hết hè, trở về lại tìm mua chó nuôi nữa.
Yêu chó, quý chó hay ghét chó, khinh chó. Đó là quan điểm riêng của mỗi người. Nói ai đúng, ai sai, đều là cách phản ứng chủ quan, nặng tinh thần phe cánh. Tranh cãi nhau lại càng vô lý, vô duyên.
«Cẩu sự» là vậy . Còn «cẩu nhục» thì sao? Thịt chó đơn giản chỉ là một món ăn.
Trên thực tế sẽ không đơn gìản như vậy. Những người yêu chó, quý chó thì không nỡ ăn thịt chó. Chứ không vì mình là người văn minh, đầy tính nhân đạo. Còn người thích ăn thịt chó, thì bảo vệ quan điểm «sống trên đời không ăn thịt chó, mai kia xuống âm phủ, biết có hay không?»
Thịt cầy, lịch sử và đạo lý
Làm món thịt cầy (La cynophagie) là một bộ môn thuộc nghệ thuật làm bếp và văn hóa ẩm thực có từ xa xưa của nhiều xứ á châu như Việt Nam, Tàu, Triều tiên, …và Phi châu . Riêng ở Nam dương, dân công giáo hưởng ứng nền văn minh ẩm thực này. Phần còn lại, đại đa số là dân hồi giáo thì kiêng cữ như kiêng cữ thịt heo.
Nhiều nước Âu châu phản đối ăn thịt cầy vừa bày tỏ sự ghê tởm . Vào cuối thế kỷ XX, luật pháp còn ngăn cấm nghiêm ngặt việc giết cầy làm thịt. Nhiều Hội bảo vệ thú vật ra đời. Ở Pháp có nữ minh tinh Brigitte Bardot làm Hội trưởng APA hoạt động tích cực. Bà di chuyển bằng phi cơ. Tới kỳ bầu cử Tổng thống, bà ủng hộ ai, người đó sẽ có nhiều may mắn đắc cử.
Nhưng ăn thịt cầy lại rất phổ biến vào thời cổ đại La-mã và ờ vài nơi khác. Thịt cầy hầu như chưa bao giờ thật sự vắng bóng ở Âu châu. Vào đầu thế kỷ qua, người ta còn thấy vài tiệm thịt cầy ở Pháp. Ở cuối thế kỷ XIX, ở Paris đầy rẫy tiệm thịt cầy. Và chợ bán chó họp chợ ngay trên đường Saint Honoré, một đường phố sang trọng ngày nay.
Người ta không ăn thịt cầy từ khi những con vật được phân loại « thú rừng », « thú nhà » như heo, gà, vịt, … và « thú thân cận » như chó, mèo, …Tuy nhiên việc ăn thịt cầy dường như ngày nay vẫn còn duy trì trong chốn riêng tư. Như ở vài vùng quê hẻo lành ở Thụy sĩ. Trái lại, thịt cầy lại được ưu đãi ở Tàu, Triều tiên, Việt Nam. Ở Tàu, mỗi ngày có hơn 30.000 con chó bị làm thịt và mỗi năm có tới hơn 10 triệu con dùng tẩm bổ cho các chú Ba Tàu khá giả. Ở đây có cả trại chăn nuôi chó thịt. Riêng ở Hồng kông thịt chó bị cấm. Vì ảnh hưởng nền văn minh anh quốc?
Vài tôn giáo ở Á châu như Bà-la-môn, hồi giáo, cấm ăn thịt chó như thịt heo. Phật giáo ngăn cấm các thứ thịt do cấm sát sanh. Riêng các hệ phái thiên chúa giáo tỏ ra dễ dãi với việc ăn hay không thịt cầy và các thứ động vật khác.
Những vùng địa lý ăn thịt cầy
Ở Âu châu.
Nhắc lại việc ăn thịt cầy ở Pháp . Dân Gô-loa (Gaullois) ăn thịt cầy như các loại thịt khác. Tiệm bán thịt cầy ở Pháp chỉ mới đóng cửa vào cuối tiền bán thế kỷ XX. Ngày nay, dân Pháp hải ngoại như dân Tahiti làm thịt cầy ăn mừng Quốc khánh.
Hồi Đệ I Thế chiến, thịt cầy ở Pháp hãy còn thịnh hành. Thi sĩ Guillaume Apollinaire vìết:
“Một vài người vừa từ giã chúng ta
Trước một cửa hàng thịt chó
Đã mua ở đây bửa ăn tối của họ , … ”
Trước một cửa hàng thịt chó
Đã mua ở đây bửa ăn tối của họ , … ”
Trong nhiều bài viết của những đại văn hào pháp như Victor Hugo, Gustave Flaubert, …người đọc thấy mô tả những bữa ăn gồm có món thịt cầy.
Ở Đức, tiệm thịt cầy sau cùng đóng cửa năm 1940. Dân Đức tiêu thụ thịt cầy cho tới Đệ II Thế chiến vì Chánh quyền Đức quốc xã, năm 1943, kiểm soát vệ sinh việc buôn bán thịt cầy.
Ở Thụy sĩ, luật cấm buôn bán thịt cầy nhưng luật không cấm ăn thịt cầy trong gia đình hay giữa bè bạn. Ngày nay, dân Thụy sĩ cực kỳ văn minh, vẫn còn ăn thịt cầy và cả thịt mèo. Đây là thực tế làm cho Thụy sĩ trở thành bạn đồng hội đồng thuyền với Tàu và Việt Nam. Về cả hai mặt: mặt ẩm thực và mặt pháp lý. Ăn thịt cầy hay thịt mèo không có gì khác hơn thịt bò, thịt heo hay thịt gà. Vì thịt là thịt mà thôi. Một phụ nữ Thụy sĩ giải thích «nếu ăn thịt cầy bị cấm, thì chúng tôi cũng phải bị cấm ăn các thứ thịt khác, như heo, gà, bò, … ».
Một anh hàng thịt Thụy sĩ nói « Thịt cầy sấy khô, ăn, khó ai biết đó là thịt cầy. Nó ngon tuyệt vời. Nó là một thứ snack nhiều người ưa thích lúc giải lao».
Ngày xưa, không ai cảm thấy khó chịu khi thấy trên bàn ăn dọn món thịt cầy. Nhưng ngày nay, thịt cầy xuất hiện trên bàn ăn chắc khó tránh khỏi bị nhiều người phản đối. Do bị ảnh hưởng các hội bảo vệ thú vật hay vì có nhiều thứ thịt khác nhau để chọn lựa?
Ở Á châu
Ở các nước như Tàu cộng sản, Tàu đài loan, Triều tiên, Việt Nam, Phi-luật-tân, Lèo, Miến điện, …đều có truyền thống lâu đời ăn thịt cầy vì thịt cầy được xem như một thực phẩm giàu chất dinh dưởng, bổ thận, cường dương. Và chỉ dành riêng cho đàn ông vì nó còn chứa đặc tính kích thích mạnh.
Cùng ở Á châu nhưng Nhựt bổn lại không hưởng ứng món thịt cầy. Trong văn hóa nhựt bổn, con chó được quí trọng. Chỉ có nhà hàng đại hàn ở Nhựt có bán thịt cầy mà thôi.
Ở Việt Nam, nhà hàng thịt cầy và cửa hàng thịt cầy tươi hoạt động mạnh. Hằng ngày, ở Long Bình phân phối đi các nơi cả mươi tấn cầy sống . Con buôn phải qua tận Thái lan, Cao miên, Lèo lùng thu mua cầy sống chở về cho thị trường việt nam.
Ở Phi châu
Dân phi châu ở vài quốc gia ăn thịt cầy theo tập tục nghi lễ địa phương. Ở nơi khác, họ ăn thịt cầy như thịt heo, thịt gà.
Ở Burkina Faso, có nhiều nhóm dân ăn thịt cầy thường xuyên . Chợ bày bán thịt cầy cùng với thịt khác như heo, gà, bò, …
Ở Burkina Faso, có nhiều nhóm dân ăn thịt cầy thường xuyên . Chợ bày bán thịt cầy cùng với thịt khác như heo, gà, bò, …
Không ăn thịt cầy, không phải người Việt Nam
Trong tháng 4 vừa qua, xảy ra việc tranh cãi chung quanh một đĩa thịt cầy : 1/ Tại sao người Việt Nam ăn thịt cầy? 2/ Bạn (là người việt nam) có ăn thịt cầy không?
Vì người Âu châu ngày nay không còn mấy người ăn thịt cầy nữa nên câu hỏi đó đặt ra cho một người Việt Nam, nhứt là người Việt Nam đến từ Miền Bắc, không thể không hàm ý một biểu hiện kỳ thị.
Thật ra người Việt Nam ăn thịt cầy nhưng không phải ăn bất kỳ loại cầy nào. Họ chỉ ăn loại cầy thịt, tức loại cầy có vóc dáng nhỏ. Được cầy hương là ngon tuyệt. Thông thường thì vàng hơn mực. Nhưng không có thì cầy nào cũng được. Còn hơn không! Loại cầy to lớn của Âu châu, họ không ăn. Một phần vì thịt không ngon. Mặt khác, loại cầy này được nuôi để phục vụ đời sống con người nên chúng trở thành thân thiết và hữu ích. Như cầy đi săn, kéo xe, bảo vệ, chiến đấu, giữ nhà…
Về quan hệ giữa con chó với người Âu châu, người Việt Nam chúng ta có con trâu đi cày «Trâu ơi, ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta. Cấy cày vốn việc nông gia. Ta đây, trâu đó, ai mà quản công» nên người Việt Nam kiêng cữ thịt trâu cũng giống như người Âu châu kiêng cữ thịt cầy.
Nếu nói rằng người Việt Nam có tập quán ăn thịt cầy vì xứ thiếu chăn nuôi nên thiếu thịt là điều không đúng. Họ ăn thịt cầy vì sở thích ẩm thực mà không vì thiếu thịt. Đổi cái đùi cầy lấy cái đùi heo, chưa chắc họ chịu đổi. Đó là điều làm cho thấy người Việt Nam ăn thịt cầy khác với người Pháp.
Dân ăn thịt cầy sành điệu thường phân biệt «con chó với con má». Theo sự phân biệt này, con chó là con vật khôn. Nó không bao giờ ăn thịt đồng loại. Còn con má là con vật ngu, gặp thịt là ăn, không biết phân biệt. Ăn thịt cầy là ăn thịt con má này. Nhưng khi ăn thịt cầy, có ai biết phân biệt không?
Ở Sài Gòn sau 30/4, người dân thường chửi đổng, nhắm vào VC, những lúc bất mãn «Nay là thời chó đẻ». Nhưng bị sửa lại «Thời chó chết » mới đúng vì «chó đẻ » là chó còn sống được nên mới đẻ.
Giám mục Seitz phục vụ ở Việt Nam, đặc biệt vùng Cao nguyên, ghi hồi ký gồm 93 trang, hai Phần. Ông bắt đầu ngày 7 tháng 4/1975 với tựa sách «Thời chó câm» (Le Temps des chiens muets). Sau đó, ông bị trục xuất về Pháp và ông điều khiển một Chủng viện ở ngoại ô Paris, vùng Marne la Vallée, đem theo vài chủng sinh gốc Thượng. Trong số chủng sinh này, có người đậu Cử nhân Triết ở Sorbonne hiện có vợ đầm, sanh sống ở Vendée, miền Tây-Bắc nước Pháp. Có ngưòi làm thợ Điện tử nhưng lúc nào cũng chờ để trở về xứ. Người sau cùng trở thành Linh mục và hiện phục vụ tại một giáo xứ của Paris XV.
Ai cũng biết cộng sản tới, chó không dám sủa. Không riêng gì chỉ có con người!
© Nguyễn Thị Cỏ May
© Đàn Chim Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét