Văn hóa LỪA HIỆN ĐẠI kiểu Ba Tàu
Nhóm chúng tôi có
12 người đi du lịch Trung Quốc, khởi hành từ Sài Gòn, theo chương trình sẽ đi
thăm Bắc Kinh, Tô Châu, Quế Lâm. Hầu hết thành viên trong nhóm đều là cán bộ
nghỉ hưu, gom góp mấy đồng tiền còm trong sổ tiết kiệm, và con cái phụ thêm cho
chuyến tham quan. Người “có máu mặt” nhất là chị Lâm, vợ một ông tướng công an
đương chức. Chị bao cho mẹ đẻ và mẹ chồng trong chuyến đi dối già.
Đến Bắc Kinh nhóm chúng tôi nhập vào một nhóm du
lịch khác cũng từ Việt Nam sang hơn hai chục người, được một hướng dẫn viên
người Trung Quốc đưa đi tham quan các nơi theo chương trình.
Phải nói Bắc Kinh là một thành phố vĩ đại, giàu bản
sắc văn hóa Trung Quốc, nhiều công trình kiến trúc đẹp, nhiều di tích lịch sử
rất đáng được chiêm ngưỡng và suy nghiệm. Thành phố này trật tự, nền nếp hơn
Sài Gòn, Hà Nội, không chen chúc xe máy, không có người ăn xin, chụp giựt níu
kéo du khách chặt chém từ vài quả cóc, lon nước đến bịch lạc rang như ở bờ Hồ
Gươm.
Nói như vậy không phải người Trung Quốc thật thà,
mà họ thuộc hạng siêu lừa. Họ lừa có bài bản, lừa theo kiểu “kích dục mê tâm” –
kích thích cái tham, làm cho lòng người mê mẩn thiếu sáng suốt rất dễ bị lừa.
Phải thừa nhận là họ có “văn hóa lừa” hẳn hoi, ăn sâu, ăn đậm, không ăn vặt.
Khi chúng tôi lên xe đi thăm Cố Cung, tay hướng dẫn
viên du lịch nói nói:
- Thưa các bạn Việt Nam, Cố cung, là nơi các triều
đại nhà Minh, nhà Thanh ngự trị suốt mấy trăm năm, lịch sử Trung Quốc trải qua
bao thăng trầm xuất phát từ chốn cung vàng điện ngọc này… Viện bảo tàng Cố
Cung.
Tay hướng dẫn viên nói như hát. Hắn mới khoảng hai
nhăm tuổi, ăn mặc lịch sự, nói tiếng Việt làu làu, nhớ không ít tục ngữ ca dao
Việt Nam, biết cả chửi thề, khoe rất thích ăn món thị chó rựa mận rìa đê Yên
Phụ, Hà Nội và món cà pháo canh cua quán cơm bà Cả Đọi, Sài Sòn.
Nghe hắn nói Cố cung hấp dẫn, ai cũng háo hức,
nhưng hắn không cho vào thăm ngay, mà cho xe chạy qua cổng Bắc thành. Tôi hỏi
sao lại đi vòng thế, hắn nói:
- Muốn vào thành phải được sự chấp thuận của các
quan gác cổng, hôm nay tôi dẫn đoàn qua cổng Bắc, vượng khí đang ở hướng đó.
Nghe hắn như rót mật vào tai, ai cũng gật gù.
Vừa tới cổng thành, đã thấy bộ tứ linh Long, Ly,
Quy, Phượng rực rỡ nhảy múa đón rước. Rồi cả một ban tiếp tân, ăn mặc chỉnh tề,
ân cần mời đoàn thăm quan lên lầu. Một căn phòng sang trọng, những dãy ghế đánh
vec-ni bóng nhoáng. Các du khách vừa an vị, tay hướng dẫn viên trịnh trọng giới
thiệu vị giáo sư lịch sử ra nói chuyện với đoàn. Nhìn vị giáo sư, thấy nghi
nghi, hình như đây là một diễn viên đóng thế, bởi gương mặt non choẹt. Nhưng
anh ta tỏ ra một diễn viên có tài, từ điệu bộ đến lời nói rất đĩnh đạc, nghiêm
trang. Hắn nói một mạch về lịch sừ Cố cung, về các triều vua, rất uyển chuyển
không hề vấp váp, rồi chốt lại bằng câu chuyện con Tủy Hưu thật hấp dẫn. Hắn
nói:
- Thưa quý vị, đời vua Minh Thái Tổ, giữa lúc quốc
khố bị rỗng, một đêm ngài nằm mơ thấy một con vật mình rồng, đầu to, ngực to,
mông to, có sừng nhọn, lông dày, đứng hút nhanh từng thỏi vàng sáng chói vào
bụng. Sau giấc mơ đêm ấy, nhà Minh hưng thịnh, quốc khố đấy vàng, nhà vua cho
làm con đường vào thành theo trục Bắc Nam, hướng tài lộc, cho xây cồng Bắc
thành này và dùng ngọc phỉ thúy tạc tượng con vật trong mơ, gọi là Kỳ Hưu,
nghĩa là kỳ diệu, sau gọi là Tỳ Hưu , đặt tại đây, gọi là tài môn, cổng tài lộc.
Hôm nay may mắn đoàn du khách Việt Nam được qua cổng tài lộc vào Tử Cấm thành,
may mắn hơn vì quý vị sẽ được chiêm ngưỡng con Tỳ Hưu bằng ngọc phỉ thúy, tạc
từ thời Minh Thái tổ…
Mọi người vỗ tay rào rào. Vị “giáo sư” mỉm cười nhã
nhặn, ra hiệu mọi người ngồi xuống, nghe nói tiếp về sự mầu nhiệm của Tỳ Hưu.
- Tỳ Hưu là một con vật cực kỳ linh thiêng, mầu
nhiêm, có đầu to, ngực to, mông to, nhưng bụng nhỏ và không có hậu môn, chỉ hút
vàng bạc châu báu của trời đất vào mà không nhả ra, chỉ làm giàu cho chủ mình
chứ không để thất thoát đi đâu một đồng nào. Vì thế người đời xưa gọi là con
Thiên Lộc. Từ đời nhà Minh đến đời nhà Thanh, vua ban sắc lệnh chỉ có vua và
Hoàng hậu mới được thờ Tỳ Hưu, các hoàng tử, công chúa không được thờ. Đặc biệt
nghiêm cấm các quan trong triều tuyệt đối không được thờ Tỳ Hưu, vì sợ quan sẽ
giàu hơn vua .
Có một người dấu vua thờ Tỳ Hưu, là Hòa Thân, thời
Mãn Thanh, đời Càn Long. Hòa Thân, tạc một con Tỳ Hưu bằng ngọc phỉ thúy, to
hơn con Tỳ Hưu của vua, trưng trong biệt phủ của mình. Nhờ con Tỳ Hưu ấy Hòa
Thân làm quan đến tột đỉnh, chỉ dưới một người trên muôn người, vơ vét hết của
cải thiên hạ. Theo thống kê thời ấy, Hòa Thân có biệt phủ 3.000 phòng, 606 gia
nhân, 600 thê thiếp, 32 km2 đất, 42 ngân hàng, 75 tiệm cầm đồ 600 cân sâm Cát
Lâm, 60.000 lạng vàng, 100 thỏi vàng lớn mỗi thỏi 1.000 lạng, 56.000 thoi bạc
mỗi thỏi 100 lạng, 90.000.000 lạng bạc lẻ .v..v.. Ưóc tính tài sản của Hòa Thân
gấp 15 lần ngân quỹ quốc gia.
Có tiếng xuýt xoa của du khách. Mấy người cười khúc
khích, nói với nhau: “Việt Nam mình cũng có vài Hòa Thân rồi đấy!”. Vị “giáo
sư” ra hiệu mọi người im lặng rối nói:
- Không chỉ có Tỳ Hưu sinh tài, còn nhiều loại Tỳ
Hưu khác mầu nhiêm không kém, như Bồ Lao, Trào Phong, Toàn Nghê, Bi Hi, Bế
Ngạn, Phu Hi… Ai muốn con cháu văn hay chữ tốt thì thờ Phu Hi, muốn yên ổn bình
an thì trưng Tiêu Đồ, muốn quyền cao chức trọng tiếm loát thiên hạ thì trưng Bế
Ngạn…
Mấy vị du khách, mắt sáng lên, lấy sổ tay ghi tên
loại Tỳ Hưu hợp với mình. Bà vợ ông tướng công an, không ghi kịp hỏi tôi:
- Cái con gì giữ quyền cao chức trọng anh nhỉ?
Tôí nói:
- Tên nó là Bế Ngạn chị ạ! Hình dáng nó như con hổ,
loài chúa sơn lâm đấy.
Vị “giáo sư” đưa mắt nhìn khắp lượt, rồi bằng một
thái độ hết sức trịnh trọng, anh ta mời mọi người qua phòng bên xem con Tỳ Hưu
ngọc phỉ thúy, anh ta nhắc đi nhắc lại, chỉ được đi lướt qua, liếc mắt nhìn,
tuyệt đối không sờ tay vào con vật linh thiêng. Tay hướng dẫn viên cúi rạp
người xuống cám ơn vị “giáo sư”, rồi dẫn mọi người qua cái cửa hẹp vào phòng
lớn.
Bốn người mặc quần xanh nẹp đỏ, đội mũ quan thời
Minh, đứng canh cái bệ gỗ, trên bệ phủ mảnh vải đỏ. Sau khi thắp hương vái, bốn
người cầm bốn góc tấm vải hất lên, phía dưới hiện ra con Tỳ Hưu lung linh dưới
ánh đèn mầu nhấp nháy. Mọi người không được nhìn kỹ, nên chả biết con Tỳ Hưu
bằng ngọc hay bằng đá? Tay hướng dẫn viên hối sang phòng bên.
Căn phòng rộng thênh thang, bày la liệt đủ các loại
Tỳ Hưu to nhỏ lớn bé, trên kệ gỗ, trong tủ kính. Gần chục cô gái bán hàng sốt
sắng chào mời khách. Tay hướng dẫn viên nói, chỉ ở đây mới có các loại Tỳ Hưu
thứ thiệt, mỗi con vật linh thiêng này được đưa vào Cố cung bày trước anh linh
vua Minh Thái Tổ xin ban phúc lộc, rồi mới mang ra đây bán cho du khách.
Mọi người như bị mộng du, bước chân đi rón rén,
không giám nói cười, và cứ ngoan ngoãn móc ví đếm tiền mua Tỳ Hưu. Bà vợ tướng
công an mua một lúc bốn con Bế Ngạn bằng ngọc, giá mỗi con 9.000 tệ. Bà ta nói
với tôi:
- Trưng ở nhà hai con, chỗ làm việc cùa nhà em hai
con bác ạ!
Một con Tỳ Hưu nhỏ nhất ở đây có giá 3.200 tệ,
tương đương 500 đô la, tức 11.000.000 đồng Việt Nam. Tôi nói nhỏ với ông bạn đi
cùng nhóm:
- Hình như không phải bằng ngọc ông ạ? Tôi trông
giống hệt mấy con Tỳ Hưu bán ở Hà Nội, Sài Gòn, giá chưa đến một triệu một con?
Ông bạn vênh mặt lên:
- Không có tiền nên nói thế !
Ông rút một nắm tiền ném lên mặt tủ kính. Tôi vội
lánh sang chỗ khác, nhìn những cô gái tíu tít đếm tiền, miệng cười tươi như
hoa.
Khi đã bán được 26 con Tỳ Hưu, thấy không ai mua
nữa, tay hướng dẫn viên du lịch mời mọi người lên xe vào Cố cung.
Đến đây mọi người chỉ được xem qua, vì kỷ luật bảo
vệ di tích của Trung Quốc rất nghiêm khắc, hơn nữa theo chương trình còn đi
thăm Vạn Lý Trường Thành.
Cách điểm thăm quan Vạn Lý Trường Thành không xa,
tay hướng dẫn viên nói với du khách:
- Thưa quý vị, Vạn Lý Trường Thành được Hoàng đế
Tần Thủy Hoàng xây dựng từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, dài 3.980 dăm, nơi
đây, Mao Chủ tịch đã đến khắc bảy chữ vàng “Bất đáo trường thành phi hào hán”
nghĩa là chưa đến Vạn lý trường thành thì chưa phải là một anh hùng. Muốn lên
Vạn Lý Trường thành phải có sức khỏe tốt, vì vậy cơ quan y tế Trung Quốc đã
thành lập một Trung tâm khám sức khỏe miễn phí cho du khách. Hôm nay trước khi
lên Vạn Lý Trường Thành tôi xin giúp quý vị kiểm tra lại sức khỏe, cô bác nào
có bệnh sẽ được điều trị ngay tại chỗ.
Cái trung tâm ấy là một tòa nhà bốn tầng, khang
trang. Cũng như ở cổng Cố cung, các bác sỹ ra tận cửa đón rước, mời chúng tôi
lên phòng khám bệnh thênh thang, từng hàng ghế kê ngay ngắn. Các nhân viên mang
nước mời mọc ân cần. Rồi năm, sáu người mặc blu-trắng xuất hiện, giới thiệu rất
trịnh trọng, đây là giáo sư tiến sỹ Lu Zeng Ung nổi tiếng nhất Trung Quốc, đây
là bác sỹ Hua Twen Xuang nổi tiếng nhất Bắc Kinh.
Những vị giáo sư, bác sỹ vạch miệng, vạch mắt, nghe
tim phổi và bắt mạch cho từng người trong hai nhóm du khách với thái độ rất
thân thiện, khi nheo mắt tỏ vẻ lo lắng, khi mím môi tỏ vẻ nghiêm trọng, rồi
nhoẻn miệng cười đầy vẻ cao đạo. Khốn nạn thân chúng tôi, ở nhà khỏe re, mà đến
đây ai cũng có bệnh. Không cao huyết áp thì phù thận, suy tim, có người bị
chứng xơ gan mới khiếp chứ!? Nhưng lại mừng vì phát hiên ra bệnh sớm và vị giáo
sư, tiến sỹ nói, đã tới đây thì bách bệnh sẽ được tiêu trừ hết, bởi Trung tâm
này đã từng chữa bệnh cho nhiều vị nguyên thủ quốc gia Trung Quốc và thế giới.
Chúng tôi được kê đơn thuốc, có chữ ký của vị giáo sư tiến sỹ đàng hoàng, có
con dấu của Viện Đông y thế giới Bắc Kinh đỏ choét. Ai cũng cảm thấy hả hê vì
may mắn. Ở nhà đi bác sĩ tư thì bị chặt chém, đi bệnh viện công thì bị hành,
chuyến đi này, vừa được thăm quan du lịch vừa khám chữa bệnh bốc thuốc, được
tiếp đón ân cần như bố người ta thì còn gì sướng bằng?
Nhưng ít phút sau thì mọi người hơi ngán, bởi các
giáo sư, bác sỹ, chỉ khám miễn phí, còn thuốc phải mua, mà đây là một Viện y
học nổi tiếng, nên thuốc rất đắt. Mỗi bịch thuốc theo toa của “giáo sư, bác sĩ”
rẻ nhất là 1.000 tệ tương đương 160 đô la Mỹ.
Như bị ma ám, ai cũng bỏ tiền ra, ôm một mớ thuốc
nam và mấy hộp cao đơn hoàn tán. Các vị giáo sư tiến sĩ Trung tâm y dược vẫn
chưa chịu buông tha các con mồi. Họ kéo mọi người sang phòng bên ngồi xung
quang cái sân khấu hình tròn.
Một anh chàng nhảy lên sân khấu, hung dữ như một
thằng du đãng. Hắn hét toáng lên, rồi chạy xuống lôi một thanh niên đang ngổi
lẫn trong đám du khách lên sân khấu. Chả rõ nguyên cớ vì sao, thù hằn gì mà hắn
thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh anh thanh niên ghê thế. Đến nỗi du khách
phải la lên phản đối. Thằng du đãng bỏ anh thanh niên nằm lăn lóc, lủi mất. Bấy
giờ một bác sỹ chạy, tới vén quần, vén áo anh thanh niên lên. Ôí cha mẹ ơi, từ
ngực trở xuống, từ đít trở lên thâm tím như những quả đa mồi. Anh ta không ngổi
dậy được, rên ư ử như sắp chết. Bà bác sỹ lấy một viên thuốc cho anh ta uống,
lấy một lọ thuốc nước đổ lên các vết thương, và, thật kỳ diệu, thuốc chảy đến
đâu vết thương lành đến đấy. Chai thuốc hết, anh thanh niên đừng dậy, khỏe re,
toe toét cười. Tiếng vỗ tay vang lên và sau đó, tiếng xuýt xoa thán phục râm
ran trong nhóm du khách.
Tiếp theo, một phụ nữ lên sân khấu, đổ cồn vào tay,
châm lửa cháy đùng đùng. Khi lửa tắt bàn tay chị phồng rộp lên, Vị giáo sư liền
mang lọ thuốc nước trong suốt ra, rưới vào tay chị, và chao ơi thuốc thần thuốc
thánh cũng không hiệu nghiệm bằng, rưới đến đâu da tay chị phụ nữ hết phồng,
trắng hồng trở lại đến đấy.
Thế là mọi người nhắm mắt, nhắm mũi, xỉa tiền mua
thuốc bỏng, thuốc trị thương. Tôi thách bạn nào đi trong nhóm du lịch ấy, trong
hoàn cảnh ấy, mà không mua một thứ gì. Mình cũng được khám bệnh như mọi người,
bác sỹ nói mình có bệnh, kê đơn đàng hoàng sao mình không mua thuốc. Nói không
có tiền giữa đám khách du lịch với nhau thì mắc cỡ lắm. Tôi đã bị người đàn ông
trong nhóm khinh thường nên vội tránh đi nơi khác.
Lên Vạn Lý Trường Thành, nhìn núi non trùng điệp
bao la, hiểu thêm, đất nước Trung Hoa vĩ đại bao nhiêu thì ta càng thấy tham
vọng của Trung Nam Hải càng dữ dội bấy nhiêu, mưu sâu kế hiểm bấy nhiêu, lừa
lọc, lòng dạ rất hẹp hòi, lừa đảo như chớp, không rộng rãi như miệng lưỡi họ
nói.
Những người đóng vai quân lính, người hầu cận vua
chúa ngày xưa đứng bên những chiếc kiệu, sẵn sàng phục vụ du khách, những nhiếp
ảnh viên đon đả mời chụp ảnh kỷ niệm, ân cần lắm, nhưng nhìn sâu vào mắt họ
không có chút chân thành nào. Một người ra dáng thi nhân ngồi sau cái bàn viết
thi pháp bán cho du khách.
Tôi mua tờ giấy hoa văn hai mươi tệ, mượn bút viết
mấy câu bằng chữ Hán: “Thử địa nhược đại mông. Bá đạo nhân thực nhân” - Nơi này
ôm mộng lớn, toàn quân ăn thit người!. Tôi tặng lại người viết, anh ta vái một
vái, rồi gập tờ giấy lại đút vào túi.
Nhóm chúng tôi đến Tô Châu vào một buổi chiều.
Thành phố cồ kính nổi tiếng bởi nhà thơ Trương Kế, thời vua Đường Túc Tông, với
bài Phong kiều dạ bạc:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cộ tô thành ngoại hàn sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Cụ Tản Đà đã dịch cực hay là :
Đêm tàn tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cậy ánh sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
Trước khi được đi thăm Hàn sơn tự, xây dựng 70 năm
trước khi Trương Kế ra đời, để viết Phong kiều dạ bạc, chúng tôi được “mời”
uống trà Loa Xuân, nổi tiếng Tô Châu. Hướng dẫn viên du lịch là một cô gái trẻ,
miệng lưỡi không thua kém anh chàng Bắc Kinh, lại hấp dẫn hơn bởi sự duyên
dáng. Cô nói:
- Mời các anh các chị, các chú các bác vào uống
trà, tại nơi sản xuất loại trà Loa Xuân, nổi tiềng Trung Quốc .
Trong hoa viên lộng lẫy, ban giám đốc và nhân viên
xếp hai hàng, ăn mặc chình tề đón tiếp khách du lịch như đón nguyên thủ quốc
gia. Một dãy sa lon bọc vải đỏ chót trong căn phòng mát lạnh. Uống trà khác với
uống cà phê, càng khác với cà phê đá, trà đá, ở chỗ tĩnh, mát . Người Tô Châu
hiểu như vậy, nên làm phòng trà mát lạnh. Khách vừa ngổi ấm chỗ, nước được bưng
lên, những gói trà được mang tới, và những cô gái trẻ trang phục bằng loại lụa
tuyệt đẹp xứ lụa Tô Châu, nhanh nhẹn pha trà bằng các động tác chuẩn xác đến
mức, một cô cầm chiếc ấm có cái vòi dài gần hai mét rót nước vào miệng cái bình
trà nhỏ xíu mà không rớt ra ngoài giọt nào. Hàng chục cặp mắt cứ trố ra nhìn,
tấm tắc khen, sao họ khéo thế.
Từng ly trà được mời từng vị khách. Giám đốc nhà
máy cúi gập đầu chào mọi người, rồi nói xuất xứ loại trà Loa Xuân, sự kỳ công
trong trồng tỉa, chế biến và tác dụng của nó. Kết thúc câu chuyện, là mời du
khách mua trà với khuyến mãi đặc biệt.
Được tiếp đãi như thượng khách, đã uống trà của
người ta mời, chả nhẽ nhổ đít bước ra tay không? Có mà ế mặt! Hơn nữa lại là
khách đi theo đoàn, đoàn Việt Nam hẳn hoi, chơi không đẹp ảnh hưởng quốc thể
chứ đâu bỡn. Lại sợ người cùng đi nhìn mình, khinh mình kẹt sỉn, thế là đồng
loạt rút ví. Cũng phải thừa nhận uồng tách trà họ vừa pha ngon thật, bập vào
môi có vị hơi đắng , mùi thơm thoảng, uống vào có vị ngọt trong cổ họng. Tôi
nói với người giám đốc, xin mua những gói trà vừa bóc ra pha cho chúng chúng
tôi uống, hắn ta “hảo hảo” rồi lánh đi , không tiếp chuyện nữa!
Từ Tô Châu vế Quế Lâm, ăn món tương ớt và món mỳ
thịt ngựa nổi tiếng, nhưng sau mới biết bị lừa , ăn phải mỳ thịt chuột. Nhưng
rồi cũng cho qua chuyện để đi thăm công viên Thất Tinh, núi Tượng tị , đồi
Trăng Khuyết…
Đến mả Mã Viện, thấy tượng hắn đúc bằng đồng, cưỡi
trên lưng con ngựa chiến, mặt hắn vênh lên, hai con mắt trừng trừng, miệng như
đang gào thét, chằng biết muốn đâm chém ai, hay đang dau đớn vì bệnh ỉa chảy, tôi
vụt nhớ câu thơ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi tới đây gần nửa thế kỷ trước:
“Trăm năm mới đến nơi này, Ngàn năm mới thấy mặt mày ở đây!”.
Chúng tôi chia tay nhau ở sân bay Tân Sơn Nhất. Hầu
như các loại thuốc quý đều vứt lại khách sạn bên Trung Quốc. Bà vợ viên tướng
công an nói với tôi:
- Bác Minh Diện ơi , mấy sợi dây chuyền ngọc trai
là đồ dỏm bác ạ, cái con Tỳ Hưu tử tiệt cũng dỏm. Sao bác biết mà không bảo em?
Tôi đưa mắt nhìn ông bạn cùng nhóm, ông nhếch miệng
cười như mếu:
- Nó lừa mình khéo quá anh ạ! Mả cha cái bọn Tàu!
Minh
Diện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét