Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Những vòng kim cô của nền Sử học Việt Nam



Nhà sử học Tạ Chí Ðại Trường (Hình: Uyên Nguyên)
Lời Tòa Soạn DĐTKNhà sử học Tạ Chí Đại Trường hiện cư ngụ tại miền Nam California vừa rồi đã được Quỹ Văn Hóa Phan Chu Trinh tại Việt Nam trao giải thưởng hằng năm về công trình văn hóa của ông. Không về nước được để nhận giải thưởng, ông đã viết bài Những Vòng Kim Cô của Nền Sử Học Việt Nam gửi về ban tổ chức để được trình bày trong buổi lễ trao giải. Mời quý độc giả theo dõi bài viết sau đây.

*

GARDEN GROVE ngày 12 tháng Ba năm 2014.
Kính thưa Bà Chủ tịch Quỹ Văn hoá Phan Châu Trinh,
Kính thưa Quý vị trong Ban Ðiều hành Quỹ Văn hoá Phan Châu Trinh,
Kính thưa Quý vị hiện diện,

Trước hết tôi xin được tỏ lòng biết ơn với tất cả những ai có lòng đề cử tôi vào việc nhận Giải của Quỹ Văn hoá Phan Châu Trinh lần thứ VII này. Tôi đã có lần nhắc đến câu Tái ông thất mã cho trường hợp viết một quyển sách của mình. Ðến nay, tuy không muốn cho ý tưởng mang tính định mệnh tiêu cực của câu nói trên chen vào quyết định đầy hướng vị tha nhưng chắc cũng phải gặp nhiều trở ngại này của Quý vị, tôi cũng vẫn cứ muốn nhắc lại nó để giữ vị trí kẻ bên lề của tình hình nghiên cứu sử học trong một nước mà tôi không được quyền tham dự. Theo tôi, có như thế, một kẻ suốt mấy mươi năm không bước chân vào một thư viện lớn nhỏ nào, không chịu sự kềm thúc của một cơ quan nghiên cứu nào như tôi mới có thể vượt, ít ra là một chút mất lòng, khi nhìn lại những vướng mắc cụ thể ngay từ trong quá khứ đến những hiển hiện trước mắt của một nền sử học muốn là khoa học cho Việt Nam. Xin Quý vị cho tôi tỏ bày:

NHỮNG VÒNG KIM CÔ CỦA NỀN SỬ HỌC VIỆT NAM

Một nền sử học truyền thống khu vực chưa qua...
Việt Nam có một nền sử học lâu đời lấy từ truyền thống viết sử khu vực Ðông Á, điều này không phải gây tranh cãi. Chứng cớ còn đó: Ðại Việt sử kí toàn thư, (Ðại) Việt sử lược, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Thực lục của nhà Nguyễn... Nhưng nằm trong phát triển riêng biệt của khu vực, các công trình ghi nhận quá khứ ấy cũng phải chịu nhiều ràng buộc từ thể chế chính trị, áp lực văn hoá sản sinh ra nó, chuyển biến từ trung tâm Trung Hoa lan ra vùng ngoại biên, ở đây là Việt Nam với tính chất riêng của vùng thụ nhận.

Trước tiên việc viết sử nước, với khởi thuỷ là của triều đại, là do một cơ quan chuyên trách ăn lương nhà nước, được gọi là Quốc sử quán, Quốc sử viện... tuỳ thời vụ. Tuy khi thiết lập thể chế, hoặc được thúc đẩy bởi những lí tưởng cao cả, hoặc từ thực tế muốn tạo sự quân bình quyền lực, người ta đã đưa ra cả một khuôn mẫu lí thuyết và thực hành để người viết sử có thể thực hiện nhiệm vụ của mình nhưng mối tương quan bất bình đẳng giữa người chủ làm-lịch-sử có quyền lực và kẻ làm công viết-lịch-sử vẫn là điều không tránh khỏi. Ở Trung Quốc, các ông sử quan ươn ngạnh hùng hổ xuất hiện trong các đời Xuân Thu Chiến Quốc mờ mịt, nhưng sự thực có thể kiểm chứng được là trường hợp Tư Mã Thiên bị thiến và Ban Cố nằm ngục của triều đại Hán. Ðịa vị người cầm bút ở Việt Nam càng thấp kém hơn khi đối với giới cầm quyền, họ chỉ là kẻ phụ thuộc với chỉ danh chung, “thư gia” còn mang chút nể trọng của Lí, đến sỗ sàng: “thư nhi”, “gia thần” của các hoàng tộc Trần trong tiếng gọi thường tình, và chỉ hẳn là “nô” khi cần phải trừng trị... Cho nên nho sinh Ðoàn Nhữ Hài sửa thực lục, đốt bỏ bản cũ hẳn là đã làm đúng chức phận của tầng lớp mình. Có tổ chức lại cho hợp với đời mới thì bầy tôi của vua, “quốc thần” cũng vẫn bị Lê Thánh Tông mắng sa sả như thường.

Cái luỵ vì làm kẻ đi sau, có khuôn mẫu để ngưỡng mộ đã khiến cho sử Việt có dấu vết được chép qua những hình ảnh xuất hiện ở phương Bắc trước đó. Ví dụ chuyện giữa Ðinh-Ngô với vai trò trung gian Ðinh Liễn có dáng của Lưu Bang, Hạng Vũ, chuyện Trần Thánh Tông đốt bỏ hòm sắc đầu hàng đã thấy ở Tam Quốc chí diễn nghĩa. Hoàng hậu Trần che cho chồng tránh con báo sỗng chuồng như chuyện trên một họa đồ cũ của Hán. Và điều này thì không phải là chuyện thóc mách của người đời nay: Nguyễn Nghiễm đã từng thắc mắc chuyện Lê Hoàn cướp ngôi Ðinh quá giống màn Binh biến Trần Kiều của Triệu Khuông Dẫn... Có thể coi những ghi chép này chỉ là kết quả vài trường hợp cụ thể của đường nét tiến triển chung học được về quan niệm thịnh suy của triều đại, như khi Ngô Sĩ Liên mượn nói về sự suy sụp đời thượng cổ, “chỉ vì vua Hùng say sưa, bỏ việc nước”! Cái “nước” đó cũng có khuôn mẫu là một hệ thống cai trị chuẩn mực quyền hành sâu sát từ trung ương đến địa phương, đầy tự tín cho sử thần!

Tai hoạ xảy ra cho tình trạng quá khứ Việt xuất hiện không đúng với sự thật, có phần cũng chỉ vì sử được viết bằng chữ nước ngoài, một điều kiện bất khả kháng của tiến triển dòng tộc cai trị trong suốt thời gian dài. Bố cáo của triều đình phải có người “dịch” ra cho dân chúng hiểu. Ngoại ngữ Hán đã khiến sử quan không đủ chữ để diễn tả các sự vật, sự việc chung quanh, nhất là khi tầng lớp cai trị trên cao còn có sinh hoạt gần với dân chúng, như trong thời gian của những thế kỉ đầu độc lập. Còn khi đã chen được vào các sinh hoạt của khuôn mẫu thì sự ghi chép lại trở nên nhàm chán vì quen thuộc như chứng dẫn ở giai đoạn Lê Trung hưng trong Toàn thư. Người học, học xong đã đuối thì thấy gì tương tự dễ  chộp ngay làm của mình cho khoẻ.
Một khuôn mẫu có sẵn phát triển trên một vùng đất chật hẹp không tạo ra nhiều tình huống phức tạp cũng là nguyên nhân khiến cho phần sử cổ, trung đại Việt Nam bị bó gọn trong một quyển, gom lại có tên rút gọn ngày nay là Toàn thư, được coi như là bằng cớ chắc nịch của quá khứ, chỉ để noi theo, xê xích thêm bớt, tán rộng chứ không phải là những chứng dẫn để chịu đựng sự tra xét nghiêm ngặt khi muốn tìm hiểu quá khứ như đối với bất cứ tài liệu nào có dưới tay sử gia. Thái độ đó đã thấy ở người xưa, với Ngô Thì Sĩ trong Ðại Việt sử kí tiền biên, và, thật tội nghiệp, như vẫn thấy hầu hết ở “công trình sử học” của các danh gia lớn nhỏ bây giờ. Quyển thông sử cương mục của nhà Nguyễn chỉ nổi bật ở phần chú dẫn địa lí, tuy muộn màng nhưng cũng là mang lại thành công đáng kể ở khía cạnh mới. Lỗi lặp lại, ghi chép qua loa không phải ở sử quan Nguyễn bởi vì phần lớn họ cũng xuất thân từ đất của các vương triều Lí, Trần, Lê, nơi cũng chỉ để lại trong quá khứ chừng ấy chuyện, không biết phải tìm thêm ở đâu khác, bởi vì những người đồng sự bậc tiền bối của họ không chịu khó làm việc chữ nghĩa ngoài phận sự “dân chi phụ mẫu” trên trước. Một số ít công trình lạc loài đâu đó về những sắc màu biến chuyển của những thành phần bên ngoài nơi chốn cung đình, hay cả những sự kiện nằm trong triều đình, hình như đã không đủ mức độ uy tín khiến cho các sử quan khi sử dụng chúng phải dồn vào trong hình thức chứng từ mơ hồ “dã sử”, rõ ràng là mang tính coi nhẹ ngay từ khởi đầu. Cái khuôn khổ chật hẹp được định hình rốt lại đã gây khó khăn cho các ý thức cởi mở khi đất nước lớn rộng, chứa chấp các đối tượng mang nhiều màu sắc phức tạp, khó nắm bắt.

Tính chất “độc quyền” lưu giữ quá khứ của quyển Toàn thư có nguyên nhân bởi chính thể chế đã tạo ra nó, lại vẫn chứa đựng những yếu tố lâu dài chực chờ yểm trợ hay biện minh cho những diễn biến tiếp nối. Quan niệm vể lịch sử duy trung tâm có thể xuất hiện bất cứ ở đâu có một chính quyền mạnh nhưng ở vùng Á Ðông thì đã có tên riêng khởi đầu trong vùng châu thổ Hoàng Hà với một Trung Quốc văn minh, bao quanh bằng một lũ Di Man phải được nâng cấp cho theo kịp vùng trung tâm, tất cả theo một tiến trình mang tên là Vương hoá. Rồi đi theo với sự lan truyền trong thời gian, trên đất cựu thuộc địa của đế quốc Hán, Ðường trở nên độc lập, lại có thêm một khuôn mẫu Trung Quốc tự xưng khác mang những tên An Nam, Ðại Việt, cũng coi những tập đoàn chung quanh là Di Man với các tên riêng biệt của họ: Nùng, Thổ... Lâm Ấp, Chiêm Thành, Chân Lạp, Cao Miên (Khmer). Quan niệm về trung tâm ưu việt và tính chính nghĩa của quyền lực nằm ở trung tâm ấy đã khiến xảy ra những cuộc tàn phá, huỷ hoại chứng tích của những tập đoàn yếu thế, cùng chủng tộc hay không, như Việt đối với Chiêm Thành, Trịnh Lê đối với Mạc, Nguyễn Gia Miêu đối với Tây Sơn. Quan niệm trung tâm ưu việt đó vẫn thấy tiếp nối đến ngày nay với những huênh hoang dù có lúc ngượng ngùng: Ta là Nhất, là Riêng Biệt.

Sử sách Việt được viết tiếp nối theo quan niệm ứng xử đó với các dân tộc lân bang, cũng lại tiếp tục được đem dùng với cả những người ở xa, với bọn Dương Di “mắt xanh như của những xác chết trôi”, bị ghê tởm dù đã đi trên những tàu chiến áp đảo. Thực tế tương quan quyền lực dễ dàng làm thay đổi cách đối phó với nhóm người này nhưng sự tiếp xúc với thế giới to rộng cũng gây một chút điều chỉnh lúng túng với nhóm người cũ. Vào thời cổ động một thế giới đại đồng, chống đối thực dân xâm lược, quyển sử của VNDCCH, ngoài những nguyên nhân khác, đã né tránh đến việc phát triển phần đất phía nam trên chủ quyền của dân tộc Chiêm Thành. Công cuộc kinh dinh của một chúa Nguyễn bị thù ghét, đem lại một nửa diện tích cho đất nước ngày nay lại chỉ được trình bày trong vài chục trang ngắn ngủi. Và khi sửa lại sách của Trần Trọng Kim, tái bản năm 1999, người ta không nệ vấn đề tác quyền, đã bỏ cả vài  mục “nhạy cảm” trong quyển sách. Nhưng những điều chỉnh lặt vặt đó không ngăn chặn được vai trò to lớn của quyển Toàn thư vì sự độc quyền chép sử khu vực khá liên tục lâu dài trên phần đông bán đảo Ðông Dương. Nó được khai thác theo với sự thành lập nước Việt Nam độc lập mới, không những mang những kiến giải huênh hoang khá lạ lùng mà còn đang được sử dụng theo hướng thành lập một nền Quốc giáo, cho là dựa trên các sử liệu chắc nịch cũ để đảm bảo cho một chủ nghĩa dân tộc thần thuyết dẫn vào tương lai.

Sự đứt đoạn cũ, mới
Những ràng buộc cụ thể hay vô hình, khắc nghiệt hay lơi lỏng tưởng có thể mất đi với sự sụp đổ của triều Nguyễn, triều đại gắn liền với một truyền thống viết sử mang nhiều hệ luỵ vật chất, tinh thần mà người viết sử phương Ðông phải gánh chịu qua nhiều ngàn năm. Bởi vì người Pháp xâm lăng Việt Nam không phải chỉ tước quyền một triều đại mà còn đem lại một vũ trụ quan, một nhân sinh quan mới trong đó có chỉ ra cách nhìn, cách viết về quá khứ theo đường lối phát triển của họ.

Nói đúng ra, ngay cả khi mất quyền cai trị đất nước, triều Nguyễn vẫn còn giữ được một dáng hình phụ trợ cần thiết với hệ thống vua quan, cả đến tận chức quyền xóm làng để có thể lưu giữ những cơ quan vô hại như Quốc sử quán, được tiếp tục làm công việc trong thầm lặng của mình. Các sách địa chí lịch sử đề xướng từ đầu đời, viết về thời gian còn chủ quyền, mãi đến gần cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX mới thấy đem ra in ấn chính thức, mà theo lối cũ, nghĩa là bằng bản văn chữ Hán, in mộc bản. Trong giai đoạn mất quyền thực sự của các đời cuối, vua quan gần như hết chuyện làm, đã cố vớt vát ghi thực lục trong vài mươi trang bản thảo lưu lạc chìm lấp, chỉ mới trở lại in, dịch trong thế kỉ XXI.

Dòng sử kí âm thầm, nuối tiếc ghi chép với một chút ấm ức đối với người cai trị mới đó, rõ ràng không đủ biểu hiện những biến chuyển đã xảy ra trên toàn đất nước trong cùng thời gian. Người Pháp đã đem lại một quan niệm mới về cách nhìn quá khứ của dân chúng trên phần đất họ chiếm được, ghi chép từ những sự việc vừa xảy ra, mới xảy ra cho đến việc tìm tòi đi sâu vào những mù mờ, tối tăm của lịch sử, đầu tiên là họ tự làm, nơi thường được gọi là Trường Viễn Ðông Bác Cổ đặt ở Hà Nội, và hội đoàn Les Amis du Vieux Hue nằm ở xứ Huế, hội Khảo Cổ Ðông Dương ở Sài Gòn. Người cai trị lo giữ gìn sự trị an, ép buộc dân chúng thuộc địa chuyển đổi theo cách cắt đứt quá khứ, bỏ chữ Hán thay bằng “quốc ngữ”, xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập các thể chế xây dựng kinh tế, cai trị theo thời mới, từng bước chuyển đổi giáo dục... khiến dân Việt dù muốn hay không cũng phải đi vào sinh hoạt toàn cầu, dứt khoát không có đường trở về lối cũ. Người Pháp chưa phải quan tâm tới việc đào tạo một thế hệ sử quan mới, sử quan khoa học nhưng chính những thay đổi mang tính “cách mạng” (đổi đời) của chế độ thuộc địa cũng mang lại một lớp người nhiều sắc màu, có lúc nhìn về quá khứ dân tộc, đất nước theo cách phản kháng nhưng vẫn khuất lấp chấp nhận những ân huệ từ cung cách thay đổi đất nước của những người cầm quyền thực dân.

Cũng có thể kể trường hợp riêng biệt về Trương Vĩnh Ký như một sử gia Việt (tự do) đầu tiên nằm trong giao thời nhưng với những ồn ào tranh chấp nghiêng nhiều về tính chất chính trị, kèm cặp với thành phần tôn giáo của ông, khiến hình như chưa ai có nhận định kĩ xem quyển sử Việt viết bằng tiếng Pháp của ông đã mang tính chất gì trong dòng sử học chung. Theo kịp với cải cách giáo dục mới, nhà giáo Trần Trọng Kim đã nhanh chóng khai thác sử liệu cũ, mới tập họp thành quyển An Nam sử lược (1918) nhưng có vẻ lạc loài trong tình hình kiến thức chung, chứng tỏ là nó chỉ nổi bật trong quần chúng theo tên sửa lại Việt Nam sử lược đi theo với khuôn khổ chính trị mang tên Quốc gia Việt Nam của thời Hoàng đế Bảo Ðại trở lại chính trường. Tất nhiên là ta chưa nói đến những người được đào tạo chính danh về sau qua các trường Ðại học mở ở Hà Nội hay dạy du học sinh tại Pháp, đã trực tiếp đào tạo Nguyễn Văn Huyên, Trần Văn Giáp... gián tiếp gây thành tựu cho một Hoàng Xuân Hãn. Nhưng một tinh thần khoa học mới thấm nhuần qua nền giáo dục cải cách cũng có tác động lên tầng lớp trí thức An Nam làm việc trong công quyền, chuyên môn hay không. Không những có một Nguyễn Văn Tố với vai trò trưởng ngành hành chính của Viễn Ðông Bác Cổ, vượt được công việc giấy má chắc là cồng kềnh nhàm chán, để tỏ bày thêm khả năng sửa chữa văn từ cho ông Viện trưởng mà còn thoát thân ra ngoài xã hội làm cây bút chính của tờ Tạp chí Tri Tân, nghiên cứu sử Việt phần lớn còn rụt rè theo những văn bản, thư sử cũ. Cả những người đến Trường Viễn Ðông Bác Cổ, thoảng qua so với thời gian lập nghiệp to lớn, như Phạm Quỳnh mà cũng thấy thâm nhập quan điểm mới để nghi ngờ rằng thời đại Hai Bà Trưng chắc không vĩ đại như hình ảnh “đầu voi phất ngọn cờ vàng” đi trả thù chồng, hùng dũng trong sử sách thơ ca hoà nhịp với những diễn tập ồn ào hàng năm ở các hội làng. Nhưng tất cả những người ấy sẽ lại trở thành những nạn nhân của một thời mới không thành hình của một đường hướng lịch sử khác, bắt nguồn từ tính chất bảo thủ truyền thống trong khu vực, mà lạ lùng thay, có sự đóng góp của những người cai trị thực dân đang muốn chuyển đổi truyền thống như đã thấy.

Khởi xướng đầu tiên là thành phần ưu tú chống đối chế độ thuộc địa. Lúc nào cũng cần phải có người cầm đầu nên phong trào Cần vương xuất hiện trong thời gian xung đột mất chủ quyền đầu tiên. Trước sức mạnh không chối cãi được của súng đạn, người ta không tin vào thế lực thế tục của chính mình nữa nên phải viện dẫn đến thần thánh. Ở cuối phần đất phương nam, thêm vào hình ảnh một ông Gia Long tẩu quốc / phục quốc có một ông Minh vương được chờ đợi xuất thế, đôi khi dưới dạng ông Minh Mạng có chữ “minh”! Trên phần đồng bằng phía Bắc, người ta không cần đến dạng hình mơ hồ Minh vương, lại đang sẵn căm ghét một Minh Mạng “cấm quần không đáy”, gợi đến một triều đình với người khai sáng chiếm đất vua cũ của họ mà tội lỗi “cõng rắn cắn gà nhà” hiện hình ngay trong hiện tại với xác thân dòng dõi: “Ai về điện phủ hỏi Gia Long, Khải Ðịnh thằng này phải cháu ông?” (Ngô Ðức Kế). Các nhà trí thức chống đối ở đây đã đi tìm đấng thiêng liêng ngay trong hình ảnh được ghi chép trên quyển sử độc nhất có thẩm quyền như đã nói. Và vua cũ đã xa đời, quá mờ mịt thì hình ảnh ông tổ đất nước, dân tộc càng đậm thêm nhiều thắm thiết, ước ao.

Ðã nói đến cái lối nhìn Toàn thư như hình tượng chân thật của quá khứ chứ không phải như một chứng từ còn gây tranh luận, nay thêm với tình cảm thúc đẩy, người ta đã coi chuyện Ngô Sĩ Liên đem kỉ Hồng Bàng vào phần mở đầu lịch sử nước như một xác nhận không phải bàn cãi, quên rằng ông sử quan cũng có lúc ngờ vực, phân vân, thấy có quái đản nên nhắc câu Dĩ nghi truyền nghi, như bất cứ ông nho sĩ nào của thời đại ông, giống như đã bắt gặp luôn cả ở các ông sử quan Triều Tiên / Ðại Hàn khi họ nói về khởi thuỷ của đất nước mình. Cũng có việc biện minh về sự kiện “truyền miệng” để Ngô Sĩ Liên làm cớ che chắn nhưng câu chuyện Hồng bàng thị rõ là một thứ tập họp bát nháo, xáo trộn từ  những quyển sách gốc Trung Quốc, có tác giả, chỉ về một khu vực chẳng dính dáng gì đến lưu vực sông Hồng không dễ dàng di chuyển đến khi chưa có máy bay. Sách có căn cước sai lầm chỉ rõ được, không phải đợi đến một vài tác giả ngày nay bài bác để bị mắng chửi mà ngày xưa ông Ngô Thì Sĩ cũng thấy ra rồi! Nhưng không hề gì, còn có trong khu vực một cái đền của thủ lĩnh địa phương Tày Thái nào đó, nối kết tên Hùng Vương lẫn lộn Lạc Vương còn lưu vài dòng chữ của khoảng thế kỉ V, VI đủ để các nhà nho Việt thế kỉ XIV cho nối cánh tay dài lên đến tận hồ Ðộng Ðình, để lập một phả hệ cho đất nước, với tâm ý có lẽ như một sự tự hào trong sự tranh đoạt vai trò Trung tâm / Trung Quốc. Nhưng chút ít như thế cũng là đủ cho các nhà nho, các người chống đối chế độ thuộc địa viện dẫn thành ưu thế tinh thần trong cuộc chiến đấu bất cân xứng, mà với đương thời của họ cho thấy toát ra một chút hụt hơi tuyệt vọng...

Sự cố gắng kêu gào đến quá khứ con Rồng cháu Tiên cũng đến tai người cầm quyền mới để, với sự tinh ranh quen thuộc của nhà chính trị, họ đem ra khai thác lấy lợi về phần mình. Ðã có cái quảng cáo Rồng Nam phun bạc, đánh đổ Ðức tặc trong Thế chiến I, nhắc mãi về sau thành chứng cớ tội lỗi tầy đình cho một con người nổi tiếng. Và thật đúng,  những lối tuyên truyền vỗ về dân chúng như thế cũng mang lại hiệu quả là người Pháp đã giữ yên được thuộc địa Ðông Dương có khoảng 15 triệu người Việt, với chỉ vài ngàn quân trấn giữ, cùng một hệ thống hành chính xộc xệch vì đã mất nhiều cán bộ phải lâm chiến ở chính quốc. Hết chiến tranh, tuy ở phe thắng nhưng quyền lực vẫn mong manh, người Pháp lại phải o bế tiếp dân thuộc địa, và có vẻ vì thấy hiệu quả của món hàng con Rồng cháu Tiên, họ lại chăm chú khai thác tiếp. Họ để vua bù nhìn Khải Ðịnh vươn cánh tay dài ra đất Bắc, mang tiền của dồi dào tu sửa đền Hùng, dựng bia kỉ niệm, đặt mốc ngày tế hàng năm khiến cho một lễ hội mùa xuân co dãn trở thành có tính cách chính quy: ngày 10 tháng Ba, chọn lựa tình cờ trong khoảng mươi ngày hội lễ hàng năm ở đấy, sẽ mở đường cho sự thành hình cố định một Quốc lễ. Người ta đã thấy trong những năm 1920 sự thờ cúng Hùng Vương trên đất Bắc nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Sự phồn tạp của hình tượng đền đài phải dẫn đến một nội dung phong phú của đối tượng tế lễ. Cho nên có thể nói là các ông Hùng Vương xưa, với các thứ bực theo số lượng, trải qua đến cuối mùa Nguyễn vẫn chỉ có hai thuỵ hiệu Hùng Duệ Vương, Hùng Hiền Vương trên bia đá, chắc chắn là có đủ tên 18 ông ngay trong bản gốc Ngọc phả được sáng tác vào thời kì phục dựng này, trong hai hay ba dị bản mà người ta còn giữ để đem trưng dẫn trong các cuộc hội thảo ngày nay. Cho nên dù đã được Lê phong là Thánh tổ, ông thần đền Hùng đến giữa thế kỉ XX mới thâu lượm đủ uy thế quần chúng để làm mưa làm gió trong tiến trình tranh đấu cho nền độc lập thống nhất mới. Và chồng chất cho nền sử học nước nhà những hệ luỵ trên những vòng kim cô cũ nặng áp lực mới hơn.

Và một thời đại sử học khoa học nhiều ngáng trở
Tình hình chuyển biến trên thế giới đến mùa thu 1945 mở ra một nước Việt Nam độc lập, kéo dài phức tạp trong sự tranh chấp quyền hành với chính quyền cai trị cũ, với các phe phái trong ngoài. Tuy nhiên nước đã có thì việc nhìn lại quá khứ quốc gia dân tộc không phải chỉ bàng bạc trong tâm ý một số người mà còn được cố định bằng những cơ quan chuyên trách, nhất là khi đất nước Việt Nam độc lập, ngay từ lúc đầu đã nằm trong sự quản lí của một nhóm lãnh tụ đi theo một ý thức hệ không chừa cho một sự buông lỏng nào hết. Thế là mối tương quan giữa người làm lịch sử và người viết lịch sử trở lại theo chiều hướng xấu, càng lúc càng đem đến sự đổ vỡ không cơ cứu vãn cho một nền sử học khoa học vẫn phải len lách chật vật cho hợp thời đại.

Ðã thấy người Pháp, trong khi cai trị thuộc địa, mang đến một lề lối suy nghĩ theo hướng thực nghiệm, không phải chỉ lan toả dần bên trong đất nước mà còn có cơ hội mời gọi từ ngoài thế giới văn minh, qua sự trung gian của tiếng Pháp (trước khi là của tiếng Anh), giống như ngày xưa, qua văn tự Hán mà nhà nho Việt đã bước ra khỏi cổng làng mình. Ông Hoàng Xuân Hãn không tốt nghiệp một trường Ðại học Khoa học Xã hội Nhân văn nào hết mà viết được quyển Lý Thường Kiệt hẳn là từ cung cách thu nhận bài vở, lời giảng dạy trong ngôi trường không có thầy đồ bình văn và môn sinh ê a sách thánh hiền cũ. Mẫu hình làm việc cho sử Việt có thể tìm ngay trong các bài vở tiếng Pháp của nhân viên Viện Bác Cổ hay của Hội Ðô Thành Hiếu Cổ chẳng hạn. Rõ rệt hơn hết là trường hợp trưởng thành của học giả Ðào Duy Anh. Và ảnh hưởng không thú nhận từ các tên thực dân đáng căm ghét kia đã bàng bạc trong lớp người xây dựng nền sử học của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dù vẫn có những tiếp tay của thế giới xã hội chủ nghĩa đồng thời.

Chỉ vì trong giai đoạn đầu của thời kì giành độc lập, các cán bộ sử ăn lương nhà nước đã có cơ hội thực hành chuyên môn của mình ít gặp xáo trộn như ở những bộ phận khác. Tất nhiên khi tổ chức thành hình thì người cầm quyền cũng không chịu đánh mất sự hiện diện của mình, như đã thấy trong một vài bài mang hơi hướng chỉ dẫn đường lối của ý thức hệ mới. Nhưng có lẽ vì thực tiễn ở một nước thuộc địa khuất lấp không hề có trong đầu óc của các lãnh tụ khởi xướng mácxít, các đồ đệ ở xứ tư bản cũng chưa kịp định hình để khai thác loại lí thuyết Phương thức sản xuất châu Á cổ đại chẳng hạn, còn các nhà macxít Trung Hoa thì cũng chưa nghĩ ra cách thức Hoa hoá lí thuyết cộng sản, nên chuyện vạch ra một đường lối sử học xã hội chủ nghĩa cho lớp người mới đào tạo ở Việt Nam có lẽ chỉ dừng lại nhiều ở các cuộc họp hành đảng bộ hoặc đoàn thể mà thôi. Vả lại thời thế còn dành chỗ khá rộng cho các nhà nghiên cứu mới có công ăn việc làm với đề tài trước mắt về công cuộc chống ngoại xâm xưa và nay, và đi xa hơn, hứa hẹn mang nhiều hãnh diện là khai thác vấn đề nguồn gốc dân tộc tiếp theo công trình của học giả Viễn Ðông Bác Cổ.

Và đến đây thì có sự hội nhập với quá khứ, để truyền thống được tân trang bằng khoa học, một ngành khoa học thực nghiệm mới: khoa khảo cổ học. Ngành mới, người mới thật dễ dàng cho một sinh hoạt gây nhiều tự tín và nhà nước đổ tiền của, vun bồi khuyến khích cũng không thấy phải uổng công. Kết quả là một tập họp bốn tập Hùng Vương dựng nước ra đời làm căn cứ cho niềm tự tin về một quá khứ lâu đời của quốc gia dân tộc, mang chứng cớ vật chất dồi dào qua những giai đoạn văn hoá có tên Ðông Sơn, Phùng Nguyên, Ðồng Ðậu, Gò Mun tạo hấp dẫn cả trên phần đất phía Nam đang đắm chìm trong khói lửa. Dù ngay đương thời các công trình đó cũng đã lộ ra những sơ hở, rồi về sau xuất hiện sai sót càng nhiều nhưng quan điểm thành hình về một ông vua Hùng thời cổ đại được chứng minh, đã trở thành “di sản thiêng liêng của dân tộc”,  nói như một quan chức sử học đương thời (Phạm Huy Thông 1985) “không cho phép ai lấy danh nghĩa khoa học mà phát ngôn tuỳ tiện”. Chỉ có trong riêng tư người ta mới xì xầm về những kết quả giả tạo của đường hướng sử học mới, mang những lấn át, có khi trấn áp thô bạo đối với những ý kiến khác biệt.

Có điều khó thật khó chấp nhận với nhiều người ngày nay, là sử Việt thật nghèo nàn tài liệu để có thể kéo dài một bộ thông sử từ một tập của Trần Trọng Kim ra hai tập của Việt Nam DCCH thế kỉ XX, ba tập của CHXHCN Việt Nam đầu thế kỉ XXI, với dự tính 15 tập chưa thực hiện đủ ở thập niên trước và 24 tập, nhất định hoàn thành theo tuyên bố mới đây (BBC 15-2-2014). Ít tài liệu không phải chỉ là lời nhận định bi quan của triết gia Kim Ðịnh. Ít tài liệu mà không thể dừng lại việc “bàn sử” thì phải kéo dài nó ra, “vẽ” thêm tài liệu mà khôn ngoan che giấu bằng luận thuyết, gọi là sử dụng “huyền sử”. Ðúng ra thì cũng không có gì sai sót nặng nề ở ông linh mục triết gia này nếu ông vẫn dừng lại bên mép bờ huyền sử như ông đã quen với các hình ảnh ẩn dụ trong sách Cựu ước của ông để “lâu lâu nói chơi cho vui” với các nhân vật huyền sử Việt, hay đẩy đưa tìm tòi về một nền tảng uyên áo nào đó trong lề lối suy nghĩ của người dân cùng tổ quốc với ông. Có điều những biến động mang tính toàn cầu dồn dập xảy ra trên đất nước đã tạo ra ảo tưởng quá phận về những ý tưởng bất chợt lại tìm được quần chúng, khiến cho kết luận “Việt vào Tàu trước” của ông đã mở đường cho những khai thác được gọi là sử học có thể nhìn theo hai hướng. Một hướng của những kẻ liều lĩnh, nói huyên thiên, không cần chứng minh, “không chịu trói mình vào văn bản” – “có thế mới gọi là huyền sử”, viện dẫn những bằng chứng do nghe ngóng, càng cao cấp càng tốt, càng dễ đem ra hù doạ, phát xuất từ những kẻ tìm cách chòi đạp để hiện diện bên cạnh những người có đôi chút tiếng tăm. Cung cách ăn nói mạnh bạo, hùng hổ đòi san bằng, xoá bỏ toàn bộ kiến thức cũ để đem đến một thứ Copernic mới, tuy chỉ là một lối ghép-chữ của những người Cứ tưởng biết được chữ là viết được sử, nhưng vì có ẩn giấu một thứ mặc cảm bị trị chống thực dân vẫn còn bị chèn ép nên những bài vở loại này cũng được xuất hiện cả trên những đối đáp học thuật được nhún nhường trước, gọi là “trao đổi”, “phản biện”. Hướng thứ hai của những người kín đáo hơn -- để khiến có kẻ phải lên tiếng chỉ trích, tố cáo -- nhằm khai thác đại loại những thứ “Việt lí tố nguyên” trong lí số tử vi, trong khái niệm âm dương, Dịch lí để tìm ra, ví dụ tính chất “trọng âm”, “âm tính” trong văn hoá người Việt, hay chuyển qua loại đề tài Bách Việt, luồn những Viêm Ðế, Xi Vưu, Câu Tiễn, Triệu Ðà... dưới dạng hình map-Google tân thời.

Phải chịu dừng lại ở “huyền sử” vì Kim Ðịnh chỉ là một ông thầy giáo của phần nửa phía nam Việt Nam, nơi cũng nhận được phần truyền đạt mơ hồ lãng mạn về nguồn gốc con Rồng cháu Tiên, hay vừa mới cụ thể hoá bằng câu “ca dao”: Mồng mười tháng Ba... từ nhóm người di cư đầy quyền lực quần chúng mang vào sau năm 1954. Tiếp theo, đối với tập đoàn chiến thắng 1975 gồm những người từng khai thác hiệu quả khẩu hiệu “4000 năm giữ nước và dựng nước” và lớp người kế tiếp xuất thân đồng quê, tách biệt đến vài thế hệ với quan niệm về chứng nghiệm khoa học của thế giới mới, đối với những người này, huyền sử là sự thật lịch sử không còn phải phân vân gì nữa. “Người dân Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc. Vua của Việt Nam cũng khởi tổ từ Trung Quốc, coi vua Trung Quốc như anh như cha...” Câu nói gây phản ứng ồn ào của Ðỗ Ngọc Bích (17-10-2010) không phải chỉ là lời thất thố vụng dại mà rõ ra là được un đúc từ sinh hoạt cổ sử đã trở thành bình thường trong nước, trong đó dấu ấn địa danh Trung Quốc (Ngũ Lĩnh, Ðộng Ðình), nhân danh anh/em Ðế Nghi / Lộc Tục của Hồng Bàng thị đã thấm vào tận tâm ý nhà khoa bảng.

Hướng vọng xã hội chủ nghĩa cụt đường cũng mở lối cho ý định tìm một căn bản sâu thẳm nhằm kết tập toàn thể dân chúng dưới tay. Thế là có sự chuyển hướng chính sách của Ðảng, của Nhà nước nhắm vào việc phục hồi “có chọn lọc” các giá trị truyền thống, công nhận những lễ hội trong đó có ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Những xây cất dồn dập tạo cơ sở vật chất để quyết định năm 2007 của Quốc hội CHXHCN VN mang tính chính thống mới đối với dân nước, tiếp theo bằng sự chuẩn nhận Lễ hội của quốc tế năm 2013, đóng thêm dấu ấn quyền lực trên sử gia thời mới về một vấn đề sử học vốn thuộc về quá khứ mà theo họ, vẫn phải chỉ được nhìn theo hướng chứng nghiệm đã qua mà thôi.

Những người làm lịch sử hiện tại như thế đã tạo được, không biết kéo dài trong bao lâu, mối tin tưởng vế một lịch sử thần thuyết của dân tộc để trang bị cho một chủ nghĩa huyết thống tập thể cần thiết cho sự cai trị dân nước dưới tay. Lí thuyết đó có quyền lực chính trị bên trên, có sự ủng hộ của quần chúng bên dưới vẫn mang tâm hồn nhiều thế kỉ truớc, không cần và cũng không màng đến một sự biện biệt nghiêm túc. Tất nhiên chính quyền cũng thấy cần có những lí thuyết gia để, trước hết là phải đánh bạt các quan điểm cũ, mới nâng cấp được hệ thống thần thuyết của mình. Nhưng bởi tính chất của một đất nước đắm chìm lâu dài vào một nền văn chương rổn rảng, mớ triết lí thu thập ở mức trung bình, với những người chưa từng nghe đến tinh thần thực nghiệm, vẫn hiểu sử như lúc đang bàn sử, nên các trí thức này, hoặc thốt ra những lời bài bác thô lỗ cục cằn, hoặc ba hoa những lí thuyết lạc đề sử sự. Nghe họ nói, viết thấy cứ như người lên đồng trên giảng đường, trước đám quần chúng vô danh trong những cuộc mit tinh chính trị, hay ở tập họp quần chúng vô hình thời đại internet. Không hề gì, họ vẫn hiện diện, đầy uy thế.

Tạ Chí Ðại Trường 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét