Bán nguyệt
san Tự do Ngôn luận
Số 174 (01-07-2013)
1- Chủ tịch
nước VNCS Trương Tấn Sang hôm 21-06-2013 đã kết thúc chuyến thăm Trung Quốc
theo lời mời của Chủ tịch TQCS Tập Cận Bình. Lãnh đạo hai nước đã ra Tuyên bố
chung Việt-Trung bao gồm 8 điểm.
Mở đầu, vẫn là giọng điệu “môi hở răng lạnh” có từ thời Việt
cộng khấu đầu bái phục Tàu cộng tại Thành Đô năm 1990:
“Hai bên đã nhìn lại quá trình phát triển quan hệ Việt-Trung,
nhất trí cho rằng tình hữu nghị Việt-Trung là tài sản chung quý báu của nhân
dân hai nước, khẳng định sẽ tuân theo các nhận thức chung quan trọng mà Lãnh
đạo hai nước đã đạt được trong những năm qua về phát triển quan hệ hữu nghị
Việt-Trung, tiếp tục kiên trì phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn
bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, không ngừng tăng cường tin cậy chiến lược,
làm sâu sắc thêm hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, xử lý thỏa đáng các vấn
đề còn tồn tại, tăng cường điều phối và phối hợp trong các vấn đề quốc tế và
khu vực, thúc đẩy quan hệ Việt-Trung phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài”.
Với câu dẫn khởi xác định tinh thần và nguyên tắc như
thế, đương nhiên tiếp đến là “nhất trí hợp tác chiến lược toàn diện” trong
các lĩnh vực :
1- “duy trì tiếp xúc cấp cao thông qua các hình thức linh hoạt,
đa dạng”;
2- “thực hiện tốt quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện
Việt-Trung”;
3- “làm sâu sắc thêm hợp tác giữa hai Đảng, thúc đẩy cơ chế giao
lưu hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại và Ban Tuyên giáo Tuyên truyền”;
4- “tăng cường hợp tác giữa Bộ Ngoại giao hai nước, thực hiện
tốt Nghị định thư hợp tác giữa hai Bộ”; 5- “duy trì tiếp xúc cấp cao giữa quân
đội hai nước, phát huy tốt vai trò cơ chế Đối thoại chiến lược quốc phòng”;
6- “hợp tác trong lĩnh vực thực thi pháp luật và an ninh, phát
huy đầy đủ vai trò của cơ chế Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm giữa Bộ
Công an hai nước”;
7- “tăng cường điều phối chiến lược phát triển kinh tế, thực
hiện tốt Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai
đoạn 2012-2016”;
8- “hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, hoàn thiện cơ chế hợp
tác song phương về nông nghiệp”;
9- “tăng cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh vực văn hóa, thực
hiện tốt Thỏa thuận hợp tác giáo dục giai đoạn 2011-2015”;
10- “giao lưu hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ, phát
huy vai trò của Ủy ban hợp tác về khoa học công nghệ giữa Chính phủ hai nước”;
11- “tăng cường hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai
nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc”;
12- “thực hiện Kế hoạch công tác năm 2013 của Ủy ban Liên hợp
biên giới trên đất liền hai nước; đánh giá tích cực việc thành lập Ủy ban hợp
tác quản lý cửa khẩu biên giới”;
13- “thực hiện tốt “Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc
Bộ”; tích cực nghiên cứu phương thức kiểm tra liên hợp mới tại khu vực đánh cá
chung ở Vịnh Bắc Bộ”.
Ngoài
ra, hai bên còn “nhất trí gia tăng cường độ đàm phán của Nhóm công tác về vùng
biển”, nhất trí “khai thác dầu chung trên vịnh Bắc Bộ”, nhất trí “thực hiện
chính sách một nước Trung Quốc, phản đối hành động chia rẽ: Đài Loan độc lập”,
“nhất trí tăng cường điều phối và phối hợp tại các diễn đàn đa phương như Liên
Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương, Diễn đàn hợp tác Á-Âu…” và cuối cùng là nhất trí ký vào 10 văn kiện
quan trọng chỉ 3 ngày sau khi Trương Tấn Sang và đoàn tùy tùng có mặt.
Tóm
lại, với 60 chữ “hợp tác”, 29 chữ “nhất trí” và 7 chữ “toàn diện” (nhưng lại
chẳng hề có một câu chữ nào nói đến bộ luật về ứng xử COC và Công ước LHQ về
Luật biển UNCLOS), Tuyên bố chung trên đây rõ ràng là một kỷ lục vô tiền khoáng
hậu trong lịch sử ngoại giao nước Việt cũng như của toàn thể nhân loại từ xưa
tới nay.
Nó cho
thấy VN hoàn toàn nằm trong vòng tay mạnh mẽ lẫn thô bạo của TQ.
Nó cũng làm người ta liên tưởng tới hội nghị bí mật tại Thành Đô
năm 1990 trong đó lãnh đạo Việt cộng -trong thế yếu đầy tuyệt vọng và với
ý muốn tìm chỗ dựa cuối cùng nơi kẻ thù xưa cũ, thậm chí kẻ thù truyền
kiếp- đã hoàn toàn chấp thuận tất cả những gì Tàu cộng áp đặt, khiến thứ
trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ phải chua chát ghi lại trong Hồi ký:
“Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9-90 hoàn toàn không phải
là một thành tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc
về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với TQ, đoàn ta đã hành động
một cách vô nguyên tắc. Tưởng rằng thỏa thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh
nhưng trái lại…”.
Ông cũng ghi lại lời hối tiếc của chính Phạm Văn Đồng: “Mình
bị hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay
không thì chẳng sao… Nhưng tôi không nghĩ vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ
người lãnh đạo nên làm như vậy.”
Những sự kiện xảy ra từ sau cái hội nghị khốn nạn (với dàn lãnh
đạo khốn khiếp) đó tới hôm nay đã cho thấy TQ đúng là một đe dọa cực kỳ nguy
hiểm, gây tổn hại sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, làm tiêu tan
con đường tiến lên của dân tộc. Thành ra chẳng lạ gì mà hội nghị Bắc Kinh lần
này được gọi là Thành Đô 2 và Tư Sang qua đó chỉ làm có một việc là nhận chiếu
chỉ.
Tuyên bố chung trên đây chỉ là sự hợp thức hóa mối lệ thuộc toàn
diện từ lâu của Ba Đình và sự khống chế lẫn xâm nhập toàn diện của Trung Nam
Hải. Khống chế trên mọi lãnh vực từ chính trị đến kinh tế, từ văn hóa tới giáo
dục, từ thương mại tới công nghệ, từ nội an tới quốc phòng… Xâm nhập từ Bộ
Chính trị đến mọi bộ khác trong chính phủ, từ đất liền đến hải đảo, từ biên
giới đến cao nguyên, từ phố thị tới thôn làng, từ rừng đến mỏ, từ cảng đến
vịnh...
Bằng chứng nhức nhối là những công dân Việt phản đối sự khống
chế lẫn xâm nhập của TQ từ bao lâu nay (dù viết bài, ra sách, lên tiếng, đặt
nhạc, xuống đường, rải truyền đơn, giăng biểu ngữ…) đều bị thóa mạ, sách nhiễu,
cấm cản, đánh đập, tù tội. Là những ngư dân Việt đã và đang làm mồi cho trò
ngăn chận, cướp bóc, bắn chết, phá hoại, bắt nộp tiền chuộc của bọn Ba Tàu. Là
những sản phẩm văn hóa, kỹ nghệ, lương thực, y dược độc hại và giả dổm từ
phương Bắc lan tràn đất Nam .
Bằng chứng mỉa mai là cờ 5 sao xuất hiện đầy dẫy trong sách mẫu giáo, cờ 6 sao
xuất hiện bao lần trên tivi, trong các cuộc tiếp rước quan lại Bắc Kinh, là kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long khai mạc đúng ngày quốc khánh Tàu cộng. Mới đây là vụ
TQ in sách về Tam Sa ngay trong thời gian đón tiếp và đàm phán với Chủ tịch
nước Việt, rồi Tư Sang lại chọn đúng thời điểm TQ kỷ niệm một năm ngày thành
lập thành phố Tam Sa phi pháp để sang thăm. Chưa hết! Để chào mừng viên thái
thú đội lốt Chủ tịch nước này, TQ còn điều 2 tàu hải tuần ra Biển Đông, tăng
cường xây dựng trên phần đảo chiếm đóng trái phép, còn đe dọa “Biển Đông
hữu sự” sẽ phái phi cơ J-20 ra bãi Tư Chính, Trường Sa nữa,…
Rõ ràng đây chính là và chỉ là sự liên kết ma quỷ giữa hai đảng
CS tàn quân của lịch sử nhằm hỗ trợ nhau, giúp nhau tồn tại, bất chấp ích lợi
của quốc gia và sự mất còn của đất nước. Với bọn vô tổ quốc, vô đồng bào, điều
này chẳng có gì lạ lùng hay đáng ngại!
2- Tuy
nhiên, gần đây cũng thấy xuất hiện trong nước một liên kết mới, đúng ra là một
nỗ lực liên kết giữa 5 Giáo hội theo nguyên tắc: “Vì đời, liên kết đạo! Vì
dân tộc, hiệp thông tôn giáo” để hình thành một Hội đồng Liên tôn.
Lấy kinh nghiệm từ Liên Xô và Đông Âu thập niên 80-90 của thế kỷ
trước, nơi mà các tôn giáo và mối liên kết tôn giáo đã đóng một vai trò quan
trọng trong việc xóa bỏ độc tài, khôi phục tự do, xây dựng dân chủ, Hội đồng
Liên tôn này thực ra đã hình thành từ tháng 12-2000 với hòa thượng Thích Thiện
Hạnh, hội trưởng Lê Quang Liêm, hai linh mục Chân Tín và Nguyễn Văn Lý với văn
kiện mở đầu: “Tuyên bố về Chính sách Tôn giáo của CS tại VN” ngày 27-12-2000.
Trong đó các vị yêu cầu nhà cầm quyền phải tuyệt đối tôn trọng
quyền Tự do Tôn giáo, hoàn trả tài sản cho các Giáo hội, chấm dứt mọi âm mưu
thủ đoạn bóp chết Tôn giáo, trả tự do cho các thành viên tôn giáo bị giam giữ
và phải tôn trọng các điều khoản qui định trong Công ước Quốc tế Nhân quyền.
Thế nhưng, vì sự đàn áp của CS, Hội đồng này đã sớm tê liệt. Đến
tháng 4-2008, lại một nỗ lực thành lập Hội đồng Liên tôn mới với 5 chức sắc của
5 tôn giáo. Các vị đã ra “Lời Kêu gọi cho Dân chủ VN” ngày 30-04-2008,
kêu gọi
(1) toàn thể nhân dân không phân biệt thành phần tôn giáo, đảng
phái, chính kiến, sắc tộc, Bắc Nam, già trẻ, trong hay ngoài nước, hãy tích cực
và công khai vận động cho việc thiết lập một xã hội dân chủ tự do, tôn trọng
nhân quyền và nhân phẩm;
(2) đảng CS cùng Quốc hội hãy chính thức chấp nhận sự hiện diện
của các lực lượng đối lập, lắng nghe các tiếng nói phản biện để tìm sự đồng
thuận chính trị cho dân tộc, hãy công bố trước quốc dân một lộ trình dân
chủ hóa VN, với thời gian thực hiện rõ ràng minh bạch, có các bước then chốt
như: thả tù lương tâm, trưng cầu dân ý, tu chính Hiến pháp, tuyển cử tự do,
thiết lập dân chủ.
Tiếc thay, Hội đồng này cũng chẳng tồn tại lâu dài. Gần đây, lại
một nỗ lực Liên tôn thứ ba hình thành tại Sài Gòn với sự gặp mặt khá thường
xuyên của chức sắc 5 tôn giáo (nhiều thành viên trong họ không thuộc hàng cao
cấp nhất).
Các vị đã mở đầu bằng “Tuyên bố chung về sửa đổi Hiến pháp”
ngày 01-05-2013, tiếp đó bằng nhiều hình thức hiệp thông, đồng cảm, chia sẻ
chuyện vui lẫn chuyện buồn trong các Giáo hội. Bất chấp những khó khăn cản trở,
Hội đồng Liên tôn quyết tâm đi tới trong việc đấu tranh cho tự do hành đạo và
dân chủ nhân quyền theo tinh thần và cách thức của tôn giáo, với mong muốn các
tín đồ ngày càng nhập cuộc.
Việc này tiềm ẩn nhiều hy vọng, vì kinh nghiệm tại nhiều nước
độc tài thế kỷ 20 và 21 bị sụp đổ cho thấy: các tôn giáo dễ dàng liên kết tín
đồ, vận động nhân dân vào cuộc, nhờ giáo lý dấn thân, chức sắc uy tín, nội bộ
kỷ luật, quốc tế hậu thuẫn, mục đích chân thành…
Chỉ mong rằng các chức sắc cao cấp nhất trong mỗi Giáo hội (theo
gương Giáo hoàng Gioan-Phaolô 2, người đóng vai chủ chốt trong việc hạ đo ván
CS Đông Âu) dẹp bỏ trở ngại tâm lý “làm chính trị” để liên kết cùng nhau, lãnh
đạo cuộc đấu tranh cho quyền con người, quyền công dân, quyền tín hữu, vốn
không nằm ngoài nội dung giáo lý của các Giáo hội.
BBT Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét