Sến” hay “Sang”?
Kho từ vựng của Sài Gòn xưa có một thuật ngữ đã đi sâu vào
cuộc sống và cho đến ngày nay người ta vẫn còn dùng với hàm ý miệt thị, chê bai
hay chí ít cũng là đánh giá thấp.
Chỉ một chữ “Sến” cũng đủ để gây nhiều chuyện bất bình, thậm chí còn khiến người ta phải đỏ mặt tía tai vì tranh cãi.
Chỉ một chữ “Sến” cũng đủ để gây nhiều chuyện bất bình, thậm chí còn khiến người ta phải đỏ mặt tía tai vì tranh cãi.
Một bức thư tình mùi mẫm với những lời lẽ như “… đêm
nay trăng thượng tuần lên cao, anh nhớ em vô vàn, em có biết chăng em một kẻ si
tình đang độc hành trong đêm lạnh lẽo?” sẽ bị cho là “thư viết theo kiểu…
sến”. Nhiều người cho rằng tán gái theo kiểu sỗ sàng “Em đi đâu đó cho anh
theo cùng?”cũng là một cách tống tình theo kiểu… sến. Cô gái áo quần lòe loẹt
có tông màu xanh đỏ chỏi nhau thế nào cũng bị xem là “diện theo kiểu… sến”.
Bước sang hội họa, họa sĩ Trịnh Cung lại khẳng định, "Trong
tranh vẫn có "sến" chứ! Ví dụ như tranh của họa sĩ Lê Trung trước
đây. Ông thường vẽ phụ nữ ngực tròn, mặc áo bà ba đội khăn hoặc nón rất Sài
Gòn. Nói chung là bình dân…”. Tranh vẽ của Lê Trung (1) thường xuất hiện trên
các báo “lá cải” như Phụ nữ Diễn đàn, Sài Gòn Mới… và dĩ nhiên những
tạp chí này cũng được xếp vào loại báo… sến!
Tranh của họa sĩ Lê
Trung
Nhưng trước hết chúng ta hãy thử tìm hiểu nguồn gốc của chữ
“sến”. Cho đến nay, có rất nhiều cách giải thích trong việc truy tầm từ nguyên.
Giáo sư Cao Xuân Hạo (2) giải thích, "Theo tôi, gốc của từ ‘sến’ phải
bắt đầu từ chữ ‘sen’ trong nghĩa con sen, là đứa ở, con ở […] Còn nếu ứng dụng
vào văn chương, nghệ thuật thì ám chỉ khẩu vị thấp hèn, ít có giá trị.”.
Lối giải thích từ “sen” biến thành “sến” có thể tạm chấp
nhận nhưng kể cũng lạ khi giáo sư Hạo theo chuyên ngành ngôn ngữ học lại dùng
cụm từ “khẩu vị thấp hèn”. Thường khi nói đến “khẩu vị” người ta liên tưởng đến
cái “gu” trong ăn uống chứ làm sao lại có được khẩu vị trong văn chương, nghệ
thuật?
Có một cách giải thích khác, không mang tính học thuật như
giáo sư Cao Xuân Hạo, mà lại dựa vào thực tế hồi đầu thập niên 60 tại Sài Gòn.
Đó là thời thịnh hành của bộ phim Anh em nhà Karamazov(The Brothers
Karamazov), chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nga, Fyodor
Dostoyevsky.
Trong phim có cảnh một vũ nữ hộp đêm vừa múa vừa hát
bài Mambo Italiano theo điệu mambo – cha cha cha. Cô vũ nữ mặc y phục
“nghèo nàn”, thân hình bốc lửa, tóc tai rũ rượi, gào thét và rên rỉ, quằn quại
và khiêu khích… Diễn viên đóng vai vũ nữ ấy là Maria Schell trước đó chưa hề
nổi tiếng nhưng nhờ màn múa đầy ấn tượng này, tên cô được quảng cáo ngang hàng
với tài tử Yul Brynner của Hollywood .
Poster phim “Anh em
nhà Karamazov”
với Yul Brynner và
Maria Schell
Phim chiếu tại các rạp ở Sài Gòn cả tháng vẫn chưa hết người
xem, sau đó bắt đầu xuất hiện những người ái mộ Maria Schell. Người ta nói, cái
tên Maria Schell được Việt hóa thành “Mari Sến”.
Tôi không tin là như vậy. Sến xuất hiện trong ngôn ngữ Sài
Gòn ngay sau khi có cuộc di cư vĩ đại của người miền Bắc vào Nam năm 1954,
nghĩa là trước khi phim anh em nhà Karamazov đến Sài Gòn. Trước 1954, người
miền Bắc dùng từ “con sen” để chỉ người giúp việc trong khi miền Nam gọi là
"ở đợ" và ngày nay còn được gọi là “Ô-Sin”.
Gánh nước thời Pháp
thuộc
"Sen" thường là những cô gái quê, con nhà nghèo,
ít học, phải ra Hà Nội để kiếm sống bằng nghề giúp việc nhà. Sau 1954, “Sen”
cũng di cư vào Nam .
Ở Sài Gòn khi đó nước máy chưa được đưa tới từng nhà nên chiều chiều các cô sen
lại tụ tập quanh máy nước (fontaine) để hứng nước gánh về nhà, từ đó lại đẻ
thêm cái tên "Mari-Phông-tên".
Cảnh gánh nước
phông-tên thời Sài Gòn xưa
Và Mari Sến hay Mari Phông-ten cũng đã đi vào thơ văn. Một
nhà thơ nào đó đã không hết lời ca tụng người em Sến:
Em phải là người em Sến không
Sao môi em đỏ, ngực em phồng
Thân hình ngào ngạt mùi son phấn
Anh muốn gì em, em biết không?
Cũng có giải thích đại loại như Sến bắt nguồn từ tiếng Anh
“sentimental”, có nghĩa là đa cảm, ủy mị… Tôi không tin là như vậy vì
sentimental hoàn toàn không hàm ý miệt thị, chê bai còn Sến của ta lại mang đậm
nét mỉa mai, châm biếm. Nói theo nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan: "sến"
là biểu hiện những dạng thị hiếu thẩm mỹ dưới mức trung bình.
Cứ như thế, chữ “sến” bị lạm dụng trong ngôn ngữ hàng ngày
để gán cho những gì thuộc loại “hạ cấp” theo suy nghĩ của người sử dụng từ ngữ.
Nổi bật nhất trong lãnh vực âm nhạc là “trường phái” nhạc… sến khởi đầu từ thập
niên 60 với tiết điệu boléro, rumba... Những nhạc sĩ tiêu biểu của trường phái
này có thể kể đến Lam Phương, Hồ Đình Phương, Vinh Sử, Thanh Sơn…
Theo nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, điệu bolero mang âm hưởng bình dị
của dân ca Nam Bộ: “Phần đông ca sĩ, nhạc sĩ là người miền Nam nên hát và viết bài hát mang chất dân ca
bình dân của người Nam .
Họ viết nhạc phần đông ở giọng thứ, khi hát với bolero, nó đúng cái nhịp của
người miền Nam .
Dân ca miền Nam
rất hợp bolero. Bên tân cổ giao duyên, phần đông hát vọng cổ xong đều chuyển
qua bolero. Hai cái đó dính liền, pha với nhau. Từ đó có âm hưởng bolero trong
âm nhạc Việt Nam ”.
Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9
Bình luận về điệu bolero của Nguyễn Ánh 9, một nhạc sĩ người
miền Nam, lại gợi đến một ý cho rằng những người Bắc di cư năm 1954 không thích
nhạc phẩm do người Nam sáng tác, họ cũng không quen với cách phát âm của các ca
sĩ người miền Nam. Ngoài ra, họ lại sợ cạnh tranh với nhạc tiền chiến của những
nhạc sĩ người miền Bắc nên mới đặt ra danh từ “Nhạc Sến” với ý chê bai.
Nhà thơ Hữu Loan, người miền Bắc, làm bài thơ Mầu tím
hoa sim rất nổi tiếng nói về một cô gái lấy chồng đi bộ đội, chồng không
chết mà cô ta chết. Một chuyện tình rất lâm ly vào thời kháng chiến với kết
cuộc:
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em gái nhỏ hậu phương.
Bài thơ này được phổ nhạc thành 2 nhạc phẩm: Những đồi
hoa sim của Dzũng Chinh (nguời miền Nam) và Áo anh sứt chỉ đường tà,
của Phạm Duy, người Bắc. Áo anh sứt chỉ đường tà với âm điệu lên
xuống, luyến láy, rất khó hát và hình như chỉ những giọng ca điêu luyện
của Vũ Khanh, Sĩ Phú, Duy Quang, Duy Trác, Elvis Phương mới thành công
còn Những đồi hoa sim thì ca sĩ nào cũng có thể hát được: Phương
Dung, Tuấn Vũ, Thanh Tuyền, Như Quỳnh…
Trong trường hợp này, nếu làm một cuộc khảo sát bỏ túi về sự
lựa chọn giữa “nhạc sến” và “nhạc sang”, ta sẽ có ngay kết quả: Những đồi
hoa sim là “nhạc sến”. Nhưng thiết nghĩ, đó là sự lựa chọn mang tính cách
“địa phương” của những người có gốc từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954.
Sự khác biệt về cá tính giữa người Nam và người Bắc nói
riêng và giữa hai miền Nam-Bắc nói chung là người miền Nam thì bình dị, thường
nói “huỵch tẹt” ý nghĩ của mình, trong khi Bắc Kỳ thì lại khách sáo, ưa nàu mè…
trong lòng muốn lắm nhưng ngoài mặt cứ giả vờ như không.
Lời ca của dòng nhạc bolero miền Nam rất bình dân, mộc mạc, dễ nhớ
và cũng dễ hát. Đó là những lời chân thực từ trái tim, chẳng hạn như trong
bài Duyên kiếp của Lam Phương, cô gái cất tiếng hát"Anh ơi nếu
mộng không thành thì sao? Non cao, biển rộng biết đâu mà tìm…" hoặc
bài Quen nhau trên đường về của Thăng Long có câu "Chiều
nay có phải anh ra miền Trung, về thăm quê mẹ cho em về cùng...”.
Rõ ràng là nhạc sến không có triết lí cao siêu, mà toàn là
những câu, những chữ mà ngay cả anh xích lô và chị bán hàng ngoài chợ có thể
hiểu được vì đó là những lời “nghĩ sao nói vậy”: “Tại anh đó nên duyên mình dở
dang, em nào mộng mơ quyền quý cao sang…” hoặc "Tôi với nàng hai đứa
nguyện yêu nhau. Tha thiết từ đây cho đến ngày bạc đầu...”.
Theo nhiều người, ca khúc Người yêu cô đơn của Đài
Phương Trang là một bản nhạc “đặc sệt” chất sến. Nghe Chế Linh than thở, rên rỉ
khiến có người nghe phải… rùng mình, rợn tóc gáy, nổi da gà:“Đời tôi cô đơn nên
yêu ai cũng cô đơn / Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không thành / Đời tôi cô
đơn nên yêu ai cũng dở dang / Yêu ai cũng lỡ làng dù rằng tôi chẳng lỗi chi…
Trời cho tôi cô đơn bao nhiêu lần nữa đây / Tôi không hề trách đời hay giận đời
mau đổi thay” (3).
Cũng trong Người yêu cô đơn được remix với tiết
tấu nhanh hơn pha trộn những đoạn “nói lối” theo kiểu rap, ca sĩ Ken Nguyễn đã
khiến bài hát bớt đi chất sến và dĩ nhiên là được nhiều người chấp nhận (4).
Thế cho nên, sến hay không là còn tùy cách trình diễn của người hát chứ không
phải “một khi bản nhạc đã sến thì ai hát cũng vẫn là sến”!
Ở một thái cực tương phản, cái gọi là nhạc sang dùng những
ca từ mà chính những người “trí thức” cũng không hiểu hết những gì mình hát.
Mấy ai đã cảm nhận hết những câu hát đại loại như “Ta thấy em trong tiền
kiếp với mặt trời lẻ loi” hoặc “Ôm lòng đêm, nhìn vầng trăng mới về,
nhớ chân giang hồ. Ôi phù du, từng tuổi xuân đã già, một ngày kia đến bờ, đời
người như gió qua”. Tôi nghĩ, ngay chính bản thân người nhạc sĩ khi viết
những lời như trên sẽ lúng túng khi có người nhờ giải thích cho rõ!
Phạm Duy với ca khúc Giết người trong mộng là một
trường hợp khác hẳn. Từ bài thơ Hành khất của Hàn Mặc Tử ông đã phổ
nhạc thành một bài hát mang sắc thái “sắt máu”, lập đi lập lại những động thái
“giết người”, “giết người đi”… để “trả thù duyên kiếp phũ phàng” và để trừng
phạt kẻ “quên tình nghĩa phu thê”.
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng?
Có lẽ không ai coi Giết người trong mộng là nhạc
sến nhưng nhiều người vẫn không thoải mái khi phải hát những câu giết chóc từ
đầu đến cuối bài hát. Bảo Giết người trong mộng là nhạc sang lại càng
không đúng vì nó thiếu tư tưởng “hàn lâm” của một bản nhạc sang trọng.
Cũng cần phải nói thêm, miền Nam trước đây có tới hai dòng nhạc
chính. Đầu tiên là Nhạc Vàng và tiếp đến là Nhạc Sến. Vào đầu thập niên 60,
nhạc sĩ Phó Quốc Lân cho ra mắt ban Nhạc Vàng trên đài truyền hình
Sài Gòn, ông cũng là tác giả những bản nhạc như Xuân ly hương, Hương lúa
miền Nam, Mong ngày anh về, Vui khúc tương phùng…
Những hãng phát hành băng và đĩa nhạc cũng cho ra nhiều sản
phẩm với tên gọi “Nhạc Vàng” như Hương Giang, Dạ Lan của nhạc sĩ Anh Bằng, và
Shotguns của Ngọc Chánh. Tại miền Nam , nhạc vàng khi đó được hiểu là
thể loại nhạc tình êm dịu, có tình yêu quê hương, tình yêu lứa đôi hoặc có nỗi
lòng riêng tư của người lính chiến.
Những tác giả với tên tuổi gắn bó với Nhạc Vàng phải kể đến
Phạm Duy, Văn Phụng, Anh Bằng, Nguyễn Văn Đông… và thế hệ nhạc sĩ kế tiếp là
Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Trần Thiện Thanh… Đó cũng là thời
của các ca sĩ như Thái Thanh, Thanh Thúy, Hoàng Oanh, Khánh Ly, Hà Thanh, Thanh
Tuyền, Chế Linh, Duy Khánh, Tuấn Vũ, Hương Lan, Giao Linh, Thanh Lan, Hùng
Cường và Mai Lệ Huyền…
Chế Linh hát nhạc “sến” hay “sang”?
Thời của Nhạc Vàng nổi bật với những ca khúc đã đi sâu vào
tâm thức người miền Nam như Giọt mưa trên lá (Phạm Duy), Khúc ca
ngày mùa (Lam Phương), Hoài thu (Văn Trí), Xóm đêm (Phạm
Đình Chương), Ai lên xứ hoa đào (Hoàng Nguyên), Nắng chiều (Lê
Trọng Nguyễn), Đường xưa lối cũ(Hoàng Thi Thơ), Nửa đêm ngoài phố (Trúc
Phương), Thương hoài ngàn năm (Phạm Mạnh Cương),Nắng lên xóm nghèo (Phạm
Thế Mỹ)...
Ở Miền Bắc, dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa, từ thập niên 1950
đã du nhập khái niệm "nhạc màu vàng" từ Trung Hoa và bị coi "là
thứ âm nhạc lãng mạn, bi quan, hoặc khêu gợi tình dục và những khát vọng thấp
hèn". Phong trào bài trừ "nhạc màu vàng" dưới thời Mao
Trạch Đông cũng lan sang miền Bắc nên dòng nhạc tiền chiến thịnh hành trước năm
1954 cũng phải câm nín vì bị cấm.
Sau khi Sài Gòn sụp đổ, nhạc vàng gần như biến mất và thay
vào đó là… nhạc đỏ của cách mạng. Thật ra thì nhạc vàng vẫn sống trong lòng
người Sài Gòn qua những khúc hát nghêu ngao từ cửa miệng người dân, hoặc nghe
trộm qua BBC, VOA hoặc nghe lén qua băng cassette còn sót lại sau chiến dịch
“bài trừ văn hóa đồi trụy”.
Mãi đến khi bắt đầu thời kỳ Đổi Mới thì các loại nhạc vàng,
nhạc sến mới dần dà được chính quyền “xét lại” và cho phổ biến một cách hạn
chế, tùy theo tác giả và tác phẩm. Năm 1986, lần đầu tiên Việt Nam cho ra danh mục 36 tác phẩm âm nhạc của Miền
Nam
trước kia nay được phép công khai trình diễn. Danh sách này sang thập niên 1990
thì bỏ, thay vào đó là danh sách nhạc cấm có liên quan đến người lính Việt Nam
Cộng hòa.
Cơ quan văn hóa đề nghị cổ xúy nhạc xanh, tức nhạc trẻ của
thời đại Đổi Mới nhưng xem ra không thành công. Trong khi đó, số người nghe
nhạc vàng ngày càng đông, không chỉ ở phía nam vĩ tuyến 17, ở hải ngọai mà cả ở
miền Bắc, thậm chí còn theo chân người Việt đi lao động ở Liên Xô và Đông Âu
vào thập niên 1980.
Sang thế kỷ 21, những nhà kinh doanh và tổ chức ca nhạc
trong nước đã thực hiện nhiều buổi trình diễn nhạc vàng, họ đưa ca sĩ từ hải
ngoại về hát. Vào tháng 8/2010 hai ca sĩ mà tên tuổi gắn liền với nhạc sến là
Hương Lan và Tuấn Vũ đã trình diễn những bản nhạc vàng ở Nhà hát Lớn Hà Nội
suốt nửa tháng trời với giá vé lên đến 1 triệu 7 mà mỗi suất vẫn kín chỗ.
Ca sĩ Tuấn Vũ
Trong một bài phỏng vấn, “Vua Nhạc Sến” Vinh Sử đã lên
tiếng: “Với tôi, không hề có “nhạc sến” mà chỉ có nhạc hay và nhạc dở mà
thôi (đương nhiên nhạc hay mới có giá trị). Nếu từ "nhạc sến" là dùng
để chỉ dòng nhạc dành cho giới bình dân thì tôi chịu lắm và tôi rất tự hào khi
được rộng rãi quần chúng hát nhạc của mình”.
Theo nhạc sĩ Vinh Sử, ở Sài Gòn trước 1975, giới làm nhạc
rất dễ kiếm tiền. Tiền tác quyền một bản nhạc có khi mua được chiếc xe hơi,
nhạc sĩ lại được "đặt hàng" tới tấp, do vậy mới nảy sinh ra loại
"nhạc thị trường" được viết theo kiểu “mỳ ăn liền”. Đó chính là thời
kỳ Vinh Sử tung ra các ca khúc như Nhẫn cỏ cho em, Yêu người chung
vách, Trả nhẫn kim cương...
Sau 1975, nhạc của Vinh Sử có "e" nhạc dân gian,
mang âm hưởng cổ nhạc, chẳng hạn như Tình ngoại, Bằng lòng đi em, Để
tóc nàng ngủ yên, Qua ngõ nhà em, Làm dâu xứ lạ, Nhành cây trứng
cá... Vinh Sử than thở: “Cái đẹp của quê hương mình sao mình lại không
ngợi ca, tôn vinh mà lại dè bỉu là... "sến"? […] Tôi đã từng nói:
"Bao giờ nước mình giàu, không còn người đạp xích lô, thợ hồ, ô sin... lúc
đó tôi sẽ viết... nhạc sang!”
Nhạc sĩ Vinh Sử
Có người lại quả quyết nhạc sến được khai thác từ cổ nhạc.
Điều này tôi nghĩ không chính xác vì cổ nhạc, chẳng hạn như vọng cổ, viết theo
ngũ cung (hò, xự, xang, xê, cống), còn tân nhạc nói chung và điệu boléro nói
riêng có đến 7 nốt (do, re, mi, fa, sol, la, si). Phải chăng kết luận như thế
vì sự lầm lẫn khi nghe những bài “tân cổ giao duyên” nên cứ tưởng là phần tân
nhạc lấy từ cổ nhạc (?).
Nếu nhạc sĩ Vinh Sử được phong tặng là “Vua Nhạc Sến” thì
ngôi vị “Nữ Hoàng Nhạc Sến” chắc phải dành cho ca sĩ Hương Lan, con gái của kép
cải lương Thành Được. Hương Lan vào nghề hát từ ngày hãy còn là “Em bé Hương
Lan” và đã được rất đông người ngưỡng mộ với chất giọng miền Nam mượt mà, mùi
mẫm. Tuy nhiên, cũng có những người không thích vì họ cho là cô chuyên hát dòng
nhạc sến.
Ca sĩ Hương Lan khẳng định: “Âm nhạc có nhiều dòng khác
nhau: nhạc dân ca, nhạc trữ tình..., nhưng không có dòng nhạc sến. Tôi không
biết những người hay dùng từ sến để chê một bài nào đó, họ có hiểu
"sến" là gì hay không; hay cái gì không thích thì đều cho là
"sến".
Cũng theo Hương Lan, “cải lương” là một loại hình nghệ thuật
thì làm sao người ta có thể tùy tiện sử dụng “cải lương” như một tính từ mỗi
khi muốn chê cái gì đó, chẳng hạn như “văn chương cải lương”, “ăn nói cải
lương”… với ý dè bỉu, coi thường bộ môn nghệ thuật dân gian vốn có từ lâu của
người Việt nói chung và người miền Nam nói riêng.
Hương Lan thẳng thừng tuyên bố: “Tôi xem đó là sự chọc
ghẹo, coi thường và nhục mạ rất tệ hại, nếu không nói là vô văn hóa. Nhưng đó
là khán giả chê. Đáng buồn hơn, ngay cả người trong giới [ca nhạc] cũng nói như
vậy. Các em [ca sĩ] dù có nổi tiếng đến đâu, hát nhạc sang thế nào thì cũng
đừng nên coi thường các loại nhạc khác".
Ca sĩ Hương Lan
Có khoảng hơn 2.000 bài hát được sáng tác dưới thời Đệ nhất
và Đệ nhị Cộng Hòa tại miền Nam
từ năm 1954 đến 1975. Điều rõ ràng là không thể phân biệt được bài nào thuộc
loại sến, bài nào thuộc loại không sến chứ chưa nói gì đến loại nhạc sang trọng
theo kiểu hàn lâm.
Thiết nghĩ sến hay sang còn tùy vào nhiều yếu tố bao gồm
nhạc điệu, lời ca và kỹ thuật trình diễn. Ba yếu tố đó có tầm ảnh hưởng lẫn
nhau vì không phải cứ điệu bolero hay rumba là bài hát trở thành sến, ca từ
không phải cứ mộc mạc là thuộc dòng nhạc sến và người hát nếu chú ý đến phong
cách biểu diễn cũng có thể biến một bản nhạc cứ tưởng như thuộc loại sến trở
thành một ca khúc được người nghe chấp nhận.
***
Chú thích:
(1) Họa sĩ Lê Trung sinh năm 1919 tại Châu Đốc. Ông là cựu
sinh viên trường Mỹ nghệ Gia Định và trường Mỹ thuật Hà Nội. Lê Trung chuyên về
chân dung, phong cảnh, tĩnh vật trên phấn màu và thủy họa.
Họa sĩ Lê Trung
(2) Cao Xuân Hạo (1930-2007) là một nhà ngôn ngữ học người
Việt với nhiều đóng góp trong việc định hình phương pháp phân tích cấu trúc câu
tiếng Việt. Ngoài ra, ông còn là một dịch giả, giáo sư văn chương uyên bác.
Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng với giai thoại tự học nghe, nói và
viết thành thạo tiếng Pháp chỉ từ việc chơi với một người bạn Pháp. Ông từng
làm giảng viên ngôn ngữ học, khi đó ông đảm nhận phần lớn công việc dịch sách
và hiệu đính các sách dịch tại bộ môn ngôn ngữ học, tại Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Ông nổi tiếng cả với tư cách nhà ngôn ngữ học và dịch giả,
và là thành viên Hội Nhà văn Việt Nam . Giáo sư Cao Xuân Hạo từ trần
ngày 16/10/2007 tại Sài Gòn sau hai tuần nằm bệnh từ một cơn đột quỵ.
Tác phẩm của Cao Xuân Hạo về ngôn ngữ học:
· Tiếng
Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa. (Nhà xuất bản Giáo dục, 1998).
· Tiếng
Việt - Văn Việt - Người Việt (Nhà xuất bản Trẻ, 2001).
· Tiếng
Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng. (Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Công ty văn
hóa Phương Nam ,
2006).
Truyện dịch:
· Người
con gái viên đại uý (truyện 1959).
· Chiến
tranh và hòa bình (tiểu thuyết 1962).
· Truyện
ngắn Goócki (1966).
· Con
đường đau khổ (tiểu thuyết 1973).
· Tội
ác và hình phạt (tiểu thuyết - xuất bản năm 1983 với tên Tội ác và
trừng phạt do BTV tự ý sửa).
· Đèn
không hắt bóng (1986).
· Papillon (1988).
· Nô tỳ
Isaura (tiểu thuyết 19??).
Giáo sư Cao Xuân Hạo
(3) Người yêu cô đơn, Chế Linh hát:
(4) Người yêu cô đơn, Ken Nguyễn hát:
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh
ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc
gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống
lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét