Mười sáu chữ Nho rất hàm súc do Giang Trạch Dân đề xuất từ 2-1999 với Lê Khả Phiêu và lần sau với Nông Đức Mạnh 11-2000 ( theo wikipedia) là :
Sơn thuỷ tương liên-Lý tưởng tương thông-Văn hoá tương đồng-Vận mệnh tương quan
Đã được chuyển sang tiếng Việt mơ hồ, cố ý sai lệch, như sau :
Láng giềng hữu nghị- Hợp tác toàn diện-Ổn định lâu dài -Hướng tới tương lai
Bốn chữ Văn hoá tương đồng mà chuyển thành Ổn định lâu dài thì thật là lạ !
(Bốn tốt : Đồng chí tốt-Bạn bè tốt-Láng giềng tốt-Đối tác tốt- chỉ là lời giáo huấn cấp thấp, không quan trọng lắm.)
PHẢN BÁC theo Quan điểm Dân tộc quốc gia Việt
Mười sáu chữ trên thật ra là tiêu điểm chiến lược đồng hoá tàm thực của TC, cho nên cần phản bác triệt để :
1-Sơn thuỷ tương liên : đúng, Tầu –Việt sát cạnh nhau. Nhưng về phương diện phong thuỷ thì khác. Tác giả Vũ Trung Tùy Bút, Phạm Đình Hổ, từ thế kỷ XVIII luận giải khác biệt hai giang sơn Bắc-Nam như sau :
" ...Mạch núi Côn Lôn (từ cao nguyên Tây Tạng Tân Cương) chạy vào (Trung Hoa ) chia làm ba cánLong : một đằng theo sông Hoàng Hà chạy về phía Bắc, ... một đằng theo núi Mân Sơn chạy về phía Đông,...một đằng theo sông Hắc Thủy chạy về phía Nam... phía Đông sông Hắc Thủy là những tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và Lão Qua kéo dài tới tận núi Tiểu Côn Lôn lại biệt làm một chi thiếu tô. Chi này chạy sang nước ta lại chia làm ba :
- Chi bên hữu chạy qua sông Đà Giang là những tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây, Sơn Nam, rồi chạy vào Nghệ An, Thanh Hóa, cho đến Thuận, Quảng thì tản ra các cù lao gần biển...
- Chi bên tả qua Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên rồi qua đến biển là Hồng Đàm, đảo Đại Nhân...
- Chi giữa tự núi Tam Đảo trở xuống, mênh mông liên tiếp thành ra những tỉnh Thái Nguyên, Kinh Bắc, Trung Đô, Hải Dương, Sơn Nam ... " ( tr. 46-47 ).
Tác giả kết luận "địa thế nước ta, toàn thể cũng giống Trung Hoa, chỉ có nhỏ hơn mà thôi".
Năm 1076 Lý Thường Kiệt tuyên ngôn “Nam quốc sơn hà ... tiệt nhiên định phận tại thiên thư” Thiên thư là bản đồ tinh đẩu hiển hiện vòm trời phân biên giới nước Ðại Việt “Theo sách Thiên quan, từ sao Ðẩu mười một độ qua sao Khiên Ngưu đến sao Chức Nữ bảy độ là tinh kỷ. Kể về sao thì ở về ngôi Sửu ... “ (trích theo Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ- 1726-1780).
Khi Thượng thư kiêm phong thuỷ địa lý gia Hoàng Phúc cùng quân Minh sang đất Việt, thế kỷ 14, ông ghi nhận "La Thành Bất Loạn" để tán dương thế đất quân bình Âm Dương, Long Hổ của thành Đại La. Thời Minh các núi thiêng Ba Vì, Tam Đảo, Tiên Du... tổng cộng 21 quả núi danh tiếng của An Nam, được tế tại giao đàn cùng với sông núi Trung Hoa (đời Hồng Vũ nhà Minh, theo Đại Nam Nhất Thống Chí) trong mục đích rõ ràng biến Đại Việt thành quận huyện của Tầu.
Sau đời Lý, Trần, Mạc, công trình phục hưng văn minh Lạc Việt hơn 400 năm đã bị ngưng lại, ảnh hưởng Nho Tầu biến nước Nam, từ đời Lê - Lê Trịnh đến Nguyễn, thành một mảng văn hóa chịu ảnh hưởng Tầu : Bụt thành Phật, hiền sĩ thành Nho sĩ, thiện trí thức thành Tiến với Cử phục vụ triều đình, Văn ôn Vũ luyện thành Tiên học Lễ hậu học Văn, nhất nhất đều tôn phù Bắc phương mà không quân bình tam giáo Ấn Độ-Trung Hoa, không phát huy Lệ Làng, đồng tôn, đồng quy, đồng tiến như trước.
Từ thế kỷ 15, Nguyễn Trãi đã biện luận đanh thép với quan quan nhà Minh về biên cương nước Việt trong Thư gửi Tổng Binh Quan, Thái Phó Kiêm Quốc Công (Mộc Thạch) :
…Từ đời xưa, đế vương trị thiên hạ chẳng qua chỉ có chín châu, mà nước Giao Chỉ lại ở ngoài chín châu đó. Xét từ xưa Giao Chỉ không phải là đất của Trung quốc rõ lắm rồi. Lại khi buổi đầu đã dẹp yên (Giao Chỉ) Thái Tông Hoàng đế đã có chiếu tìm con cháu họ Trần để giữ việc thờ cúng. Thế là ý của Triều đình vẫn không cho đất Giao Chỉ là đất của Trung quốc… Huống chi, đất ở ngoài xa không dùng gì, nếu giữ thì chỉ tốn cho Trung quốc... ai bảo là đại nhân ngày nay ở ngoài cửa ngoại thành, rút quân về mà không có danh nghĩa?
2- Lý tưởng tương thông vì cùng tư duy Mác Xít CS từ 1930, bây giờ nếu có tương thông là thông với số đầu óc giáo điều còn lại trong CSVN. Ngay chính Tầu cũng chẳng tin gì vào Mác Xít nữa, họ chỉ níu kéo để giữ quyền, trong khi kinh tế thì đổi mới theo kiểu thị trường Âu Mỹ. Phải xác định chữ tương thông đây là tương thông giữa hai Đảng CS, không phải là tương thông giữa hai dân tộc. Lý tưởng của dân tộc Việt Nam từ 2000 năm trước, qua Lý Trần triển khai phát huy là lý tưởng Diên Hồng, Đồng tôn - Đồng quy - ĐồngTiến, trong Lệ Làng vốn trọng Lão, trọng Hiền, không sát phạt sân hận giai cấp, tránh mâu thuẫn tín ngưỡng, quy tập 54 dân tộc anh em, không giới hạn xuất thân, mọi giai tầng đồng tiến qua tâm đức, giáo dục, thi cử, đẳng cấp sĩ nông công thương lấy học và đức làm tiêu chuẩn định giá xã hội. Lý tưởng toàn cầu ngày nay là Lý tưởng Tự do Dân chủ, đa nguyên đa đảng không thể khác.
3-Văn hoá tương đồng : từ thế kỷ 15 nhà Lê giáo huấn Nho sinh theo Khổng Mạnh, tiếp đến cũng là tư duy bá đạo Tầu qua Mao, Chu…Nhưng Tầu quên rằng từ thế kỷ 13 Đại Việt đã có nỗ lực dùng chữ Nôm với Hàn Thuyên, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… cho đến Nguyễn Gia Thiều, Đoàn thị Điểm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... tới cuối tk 19 đầu 20 thì chữ quốc ngữ đã giúp VN thoát ly được Hán Nho, mở cánh cửa văn hoá rộng về hướng Tây như Nhật Bản, bây giờ thì văn hoá VN không thể tương đồng với Mác Xít, với Nga-Tầu duy vật nữa, văn hoá VN thế kỷ 20-21 đa dạng, đa nguyên, bắt đầu sang giai đoạn tổng hợp quốc tế Đông Tây, như đời Lý Trần đã tổng hợp Tam giáo Ấn-Hoa, Phật-Lão-Khổng Mạnh. Với mạng lưới điện tử, với cả 4.5 triệu người Việt sinh sống ở hải ngoại, với cả một nửa dân tộc ở miền Nam chưa hoặc ít bị ác hệ tư duy ảnh hưởng, văn hoá VN khác xa TC và có thể nói tiến bộ hơn Hoa lục khá nhiều. Dân tộc VN chẳng duy tâm hay duy vật, cốt lõi văn hoá VN là văn hoá Hữu Lễ, Cô dì chú bác anh em, chứ không phải là vô lễ cộc lốc Ngộ-Nị. Nhật Bản thoát Á cổ hủ, do Fukuzawa Yukichi (1835-1901) đề ra trong Thoát Á Luận mở đầu phong trào Khai Sáng Nhật cuối thời Edo đầu Minh Trị. Ở VN, với Cao Bá Quát, Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện…trí thức Việt cũng không kém ý thức canh tân, và khi Pháp sang Đông Dương thì VN lại có cơ hội mở hẳn vận mệnh sang chiều hướng Tây tiến. Chính VNCS đã quên tai hại đại hoạ Tầu sát cạnh nên lại đưa VN trở lại quỹ đạo Á , ra công đả Âu đả Mỹ “ta đánh là đánh cho Liên Xô cho Trung quốc” tự mình hại mình, lấy máu Pháp, Mỹ và Việt để tiếp máu cho con khủng long Tầu trỗi dậy độc bá Á Đông.
4- Vận mệnh tương quan vì đứng cùng trong vòng quốc tế CS từ 1930 nhưng vận mệnh Tầu khác Việt. Từ thế kỷ 19, suốt 80 năm người Pháp đã có công mang khoa học, kỹ thuật Tây phương sang VN, đã mở trường học, lập toà án, nghị viện, với tinh thần nhân bản dân chủ bước đầu, đường xá giao thông, đường sắt, bưu điện, nhà hát, trường mỹ thuật… vẽ lại bản đồ biên giới với Tầu. Nếu không có làn sóng đỏ nỗ lực bẻ quặt VN sang phía Nga-Tầu, thì quốc gia VN từ 1950 liên hiệp đã nằm trong thế giới tự do, dần dần hoà bình độc lập phú cường như các nước Đông Nam Á và Nhật, Đại Hàn. Hiện trạng cho thấy Tầu phong kiến hay Tầu CS đều cùng một óc đế quốc, xâm lăng nước nhỏ như nhà cách mạng dân tộc Lý Đông A đã vạch rõ nguy cơ Đại Hán từ 70 năm trước như sau :
1- Quy luật lịch sử Tầu là : Lấy Tài Hoá Thu Nhân Tâm (thoát nghĩa Hữu đức giả hữu thổ ), Hưng Hoa diệt Di, thiên hạ đại đồng theo lối Hán mà vũ khí và thủ đoạn chủ yếu là chủng tộc xâm lược.
2- Tam Dân chủ nghĩa của Tôn Văn cũng là một chủ nghĩa đế quốc : Tôn Văn từng nói với cụ Phan Bội Châu : “ Các ông bất tất phải làm, chỉ là một tỉnh của Tầu, chúng tôi làm xong thì xong”, và sau này Tưởng Giới Thạch cũng nói : “Việt Nam là Tầu, Việt Nam để người Tầu làm giúp cho”.
3- Năm 1911, Tôn Văn đề xướng Ngũ Tộc Cộng Hoà, gồm 90% là nhân khẩu Tầu, 10% là Mãn, Mông, Tạng, Miêu (là Việt núi). Năm 1916 Tôn Văn luận Quốc Tộc tức đúc các dân tộc vào một lò mà thống nhất thế giới, chia toàn quốc ra Tỉnh, Quận, Huyện, khoảng 1921-22, Tôn Văn nói : Ta phải đem các dân tộc Thái, Việt… liên hợp lại cùng chống đế quốc.
4- Năm 1940, Chính Trị Địa Lý Bộ của chính phủ Trùng Khánh, ra tập Đông Á Địa Lý, quy định 8 con đường phát triển của nòi Hán sau này :
-1/ Tây Bá Lợi Á- 2/ Tây Tạng, Ba Tư- 3/ Tân Cương- 4/ Ấn Độ- 5/ Việt, Thái,Miến,Tân Gia Ba- 6/ Nam Dương liệt đảo- 7/ Úc châu- 8/ Thái Bình Dương liệt đảo & Hàn quốc.
Để đạt mục đích, Tầu dùng cách : Lộ Ố Nàm (lấy vợ An Nam)-Dìu Ố Nàm (tiêu tiền An Nam)-Chì Ố Nàm (ở đất An Nam).
Lý Đông A còn trưng rõ : tờ Đại Lộ Nguyệt San ở Thượng Hải, số ngày 1-5-1933 đã đăng bài Nam Dương Hoa Kiều Cộng Hoà Quốc Vận Động, chủ trương lấy Hoa kiều làm chủ lực xâm lược, biến Nam Dương thành Hoa kiều Cộng hoà quốc, về Việt Nam : Bắc kỳ quy về mẫu quốc, Trung kỳ và Nam kỳ thuộc về Hoa kiều thống trị. Trên tờ Quảng Tây Nhật Báo số ngày 26-11-1942 đề xướng “Hoa kiều thổ hoá vận động” qui định bề mặt phải thổ hoá nghĩa là Hoa kiều ăn mặc theo thổ dân, nói tiếng thổ dân, ảnh hưởng văn hoá thổ dân để bề trong tăng tác dụng Hán hoá. (1)
*
TC không bao giờ từ bỏ ý đồ bành trướng lãnh thổ lãnh hải. Mười sáu chữ vàng rõ ràng là phương châm chiến lược đồng hoá của họ mà dân trí lẫn đảng trí của VN còn thô sơ thiển cận chưa thấu hiểu quỷ kế.
Trong, ngoài, họ sẵn có các đồng chí hữu nghị (!) thực hiện kế hoạch bằng được dù mất 20-40-60 năm. Đây là chiến lược tầm ăn dâu, nguy hiểm thâm độc nhất. Vụ dàn khoan biển Đông hiện tại có thể chỉ là kế nhử mồi để hiện rõ mặt phe kháng TC. Không chắc thật sự đã có phe thân Âu Mỹ, biết đâu chẳng là thủ đoạn đi dây cố hữu. Phải chờ xem. nhân mưu và thiên cơ sẽ mở ra một ngày không xa.
(1) Tài liệu riêng của Duy Dân-Lý Đông A quả đã viễn kiến nội dung hội nghị Thành Đô 1990 : Bắc Kỳ quy về mẫu quốc.Tầu chủ trương đồng hoá, đàn ông Tầu sang lấy vợ Việt… cả trăm ngàn phụ nữ VN hiện sống ở Hoa Nam và các khu biệt lập rải rác khắp biên giới VN-TC trong những khu gần như tự trị. Chính Thái Lan gần đây, với chính phủ lâm thời, cũng vạch rõ : Tầu làm đường sắt cho Thái với điều kiện được gửi sang 100,000 nhân công và được sinh sống trong những khu riêng hợp đồng 50 năm như khu Bauxit VN vậy. (xem Wikipedia, Google, Tuổi Trẻ on line 12-6-2014, tướng Prayuth huỷ các dự án thân Tầu hại nước của phe áo đỏ Yingluck và Thatsin).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét