Qua bốn ngàn năm lịch sử, cho dù phải đối đầu với tham vọng bành trướng không ngừng nghỉ của Trung Quốc và những đội quân đông đảo hùng mạnh hơn mình rất nhiều lần của họ, cha ông của chúng ta vẫn giữ được giang sơn gấm vóc, vẫn bảo tồn và xây dựng một nền văn hóa đặc biệt của mình, và vẫn ngẫng cao đầu với lá cờ Đại Việt của một đất nước độc lập và tự chủ cho đến bây giờ.
Ngày nay khi đứng trước những mối đe dọa bị lấn chiếm toàn diện (một phần biển đảo và đất đai đã bị lấy mất) và âm mưu đồng hóa của Trung Cộng, chúng ta cần nhìn lại quá khứ để tìm hiểu những bí quyết của tiền nhân với một hy vọng chúng ta lại giữ được đất nước như cha ông chúng ta đã làm.
Quả thật với bốn ngàn năm văn hiến và rất nhiều những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm thành công, tiền nhân chúng ta đã để lại rất nhiều bài học cho con cháu, cho nên trong bài nầy tôi không có ý định trình bày một cách đầy đủ về những bài học đó mà chỉ mong muốn được nêu ra một đề tài để mọi người cùng góp ý, thảo luận và có những hành động thiết thực cho việc giữ gìn lãnh thổ và nền độc lập của đất nước mình.
Bài học đầu tiên tôi thấy là sự đòan kết được biểu hiện qua hội nghị Diên Hồng mà mọi người thường nói đến. Quả thật, Hội Nghị Diên Hồng là một thể hiện của tinh thần dân chủ, đoàn kết của dân tộc Việt, nơi tiếng nói của người dân được lắng nghe và tôn trọng. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy, đó là ý nguyện và là sự kêu gọi, khởi xướng, tổ chức bởi chính quyền, dưới sự lãnh đạo của vua Trần Thánh Tông và triều đình của ngài. Một chính quyền biết tôn trọng dân, biết lắng nghe ký kiến của người dân, là một chính quyền chân chính luôn đặt quyền lợi của dân tộc và đất nước lên trên hết. Và cũng nhờ ở tinh thần dân chủ, biết lắng nghe và tôn trọng ý dân đó mà triều đại nhà Trần và nước Đại Việt đã tập hợp được sức mạnh toàn dân để đánh bại được giặc ngoại xâm lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần và tồn tại một cách hiên ngang cùng các nước khác trên thế giới.
Trong cuộc chiến chống lại sự xâm lăng của quân Nguyên Mông, ngoài việc biết lắng nghe ý nguyện của người dân, các vua nhà Trần còn có những tướng lãnh tài giỏi, dũng cảm và yêu nước thương dân. Trước hết các vua nhà Trần là những bậc minh quân, biết trọng nhân tài và luôn nghĩ đến nước, đến dân. Vua Trần Thánh Tông không tỏ lòng nghi ngại đức Trần Hưng Đạo mà phong cho ông chức tướng thống lãnh ba quân, dù cho thân phụ ngài là Trần Liễu đã có một mối thù to lớn đối với Trần Cảnh là vua Trần Thái Tổ, là cha của vua Trần Thánh Tông. Đức Trần Hưng Đạo thì ngược lại, bỏ qua mối hận “thù nhà” mà cha ông đã trăn trối trước khi qua đời và hết lòng vì nước vì dân.
Đức Trần Hưng Đạo không những là một vị tướng tài, mà là một nhà chính trị lỗi lạc. Những lời kêu gọi chân tình và thống thiết trong bài “Hịch Tướng Sĩ” của ông đã làm tỉnh ngộ ba quân và biến cải đội quân của ông trở thành một đội quân vô địch:
“Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Ðế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Ðức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?
Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Ðiếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Ðãi Ngột Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Ði thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ làm nguy; nên lấy điều kiềng canh nóng mà thổi rau nguội làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.”
Qua bài hịch nầy, chúng ta thấy rằng không phải ai vào thời điểm đó cũng thấy được cái nguy mất nước, biết hổ thẹn trước sự sỉ nhục của quốc gia: “thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn”, cũng có những tướng triều đình khép mình hầu giặc: “Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức”, và cũng có người coi việc nước mất còn là việc của ai chớ không liên quan tới họ: “Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui, có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm”, và khi giặc tràn sang thì đều mất tất cả như lời cảnh báo của đức thánh Trần: “Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng” và “xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các người cũng bị kẻ khác bới đào”.
Bài hịch ngắn gọn nhưng đã vẻ nên một bức tranh sống động thời bấy giờ. Một thời đại có thể gọi là huy hoàng của dân tộc Việt, vì có một chế độ với những nhà cai trị biết lo cho dân cho nước, biết đau lòng trước vận nước nổi trôi, và biết hợp lòng tướng sĩ và dựa vào dân mà giữ nước.
Để có một sức mạnh đủ để đánh bại những đạo quân mạnh hơn mình gấp nhìều lần, chính quyền cần phải sử dụng sức mạnh toàn dân, không phải cho phép mà phải khuyến khích và phát huy lòng yêu nước của những người đã thấy được sự hiểm nguy, và còn phải thức tỉnh những kẻ còn thờ ơ, vô cảm, hay mê ngủ trước nguy cơ mất nước. Các vua quan nhà Trần đã làm được như thế và đã đánh bại những đội quân tinh nhuệ nhất thế giới, để gìn giữ bờ cõi nước nhà và bảo tồn giống nòi Lạc Việt.
Cha ông chúng ta đã anh dũng, khôn ngoan, và yêu nước một cách chân thành nên đã thành công trong việc giữ nước, còn chúng ta thì như thế nào?
Có một vị tướng nào trong “Quân Đội Nhân Dân anh hùng” thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa vì lo cho dân cho nước đang bị giặc phương Bắc vây hãm muôn bề hay chưa?
Có nhà lãnh đạo nào đã triệu tập nhân dân để hỏi han ý kiến và luận bàn cơ mưu chống giặc?
Không biết các bạn thấy như thế nào, chứ riêng tôi thì quả thật chưa từng thấy sự lên tiếng của những kẻ có trách nhiệm cầm quân và lãnh đạo đất nước. Có chăng là sự hèn nhát của những ông tướng chưa đánh đã hàng, chưa ra quân mà đã bỏ chạy. Không những vậy, mà còn bợ đỡ kẻ thù, dùng lời mạnh bạo để răn đe những người yêu nước.
Nhìn lại lịch sử nước nhà, thấy gương anh dũng của tổ tiên mà không khỏi đau lòng cho vận mệnh đất nước đang nằm trong tay những kẻ qụy lụy kẻ thù, hay nói cho đúng hơn là những kẻ đang tâm bán nước. Tuy nhiên chúng ta cũng còn có những niềm hy vọng khi càng ngày càng có nhiều nhà trí thức, nhân sĩ và cách mạng lão thành đã dũng cảm lên tiếng. Trí thức là bộ não của nước nhà, là trí tuệ của dân tộc, là những người dẫn đường cho thanh niên, nông dân, công nhân và mọi tầng lớp khác của xã hội trong việc dựng nước và giữ nước. Chính đức Trần Hưng Đạo đã là một nhà trí thức học rộng hiểu sâu, đã viết ra một tờ hịch ngắn gọn nhưng đầy điển tích và tính thuyết phục để thức tỉnh ba quân tướng sĩ và thay đổi vận mệnh của nước nhà. Khi trí thức nhập cuộc thì niềm hy vọng giữ nước vẫn còn.
Ngày nay khi mà nhà cầm quyền thì hèn nhát với giặc ngoại xâm, không những không có những hành động cứng rắn với kẻ thù khi họ cướp đất, cướp đảo, giết hại cướp bóc dân lành, mà còn tạo cho giặc ngoại xâm nhiều cơ hội để lũng đoạn kinh tế, xã hội và văn hóa nước mình, và còn ra sức lừa đảo, mị dân với những lời nói và bài viết sai sự thật và bẻ cong lịch sử, thì những nhà trí thức yêu nước đã thẳng thắn lên tiếng với đầy đủ chứng cứ thuyết phục để mọi người dân hiểu được mối nguy thật sự của sự mất nước và những lý do tiềm ẩn bên trong.
Hơn bao giờ hết sự chung vai góp sức của mọi tầng lớp nhân dân là vô cùng hệ trọng cho sự tồn vong của đất nước, thì những nhà trí thức yêu nước là những ngọn đuốc soi đường cho toàn dân thấy rõ đâu là bạn đâu là thù, đâu là con đường có thể dẫn tới sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ đất nước trước giặc ngoại xâm, và phát triển bền vững lâu dài cho dân Việt.
Nhiều nhà trí thức trong và ngoài nước đã lên tiếng qua những bản tuyên bố, kêu gọi, kiến nghị, những lời phản biện hùng hồn, những bước chân xuống đường đầy cương quyết. Những bản kiến nghị tuy gởi cho những người cầm quyền vì họ đang là những kẻ chịu trách nhiệm trước nhân dân về sự mất còn của đất nước, nhưng thật ra là những nhà trí thức đã gởi đến toàn dân với mục đích trình bày cho nhân dân hiểu hoàn cảnh thực sự nguy khốn của đất nước mình và đâu là con đường phải đi để tránh sự mất nước. Con đường ấy rất là rõ ràng là phải dẹp thù trong bằng cách thay đổi chính quyền theo con đường dân chủ và tam quyền phân lập, thay đổi xã hội, đoàn kết toàn dân, phát huy lòng yêu nước, và vận động sự yểm trợ của thế giới, như đã được trình bày ở nhiều diễn đàn báo chí. Có phải chăng đây là những tờ hịch của thế kỷ, không phải viết ra từ một vị tướng lỗi lạc tài ba, mà viết ra từ những bộ óc của nhân dân, với cùng một mục đích là thức tỉnh ba quân tướng sĩ và những kẻ còn thờ ơ với vận mệnh nước nhà, và vạch đường cho sự tồn vong của dân tộc?
Những bài học lịch sử đang được vận dụng, nhưng sự thành công trong việc giữ nước có được hay không là còn tùy thuộc vào mức độ thức tỉnh của mọi thành phần xã hội, mà điển hình nhất là những nhà trí thức còn rất nhiều trong lặng câm và sợ sệt, và những vị tướng lãnh, những đội quân anh hùng nhưng còn đang say ngủ trong giấc mộng đặc lợi, danh quyền.
Người xưa đã thức tỉnh và sẵn sàng xông pha trận mạc để gìn giữ nước nhà, thì người nay đây có đủ dũng khí để đứng lên đòi quyền giữ nước và dựng nước theo những đường lối tốt đẹp nhất cho dân tộc chúng ta? Câu trả lời chắc chắn là có vì lòng yêu nước luôn có sẵn trong dòng máu của giống Lạc Hồng, nó sẽ không bao giờ cạn cũng như lịch sử hào hùng của dân tộc Việt vẫn sống mãi với thời gian. Dù cho thù trong, giặc ngoài có quỷ quyệt, tàn bạo đến đâu, hồn thiêng sông núi và anh linh tổ tiên sẽ phù trợ để dân Việt được thoát khỏi kiếp đọa đày và sống ngẫng mặt với cộng đồng nhân loại.
© Trần Việt Hoàng
© Đàn Chim Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét