Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

Phong cảnh tinh thần thời hậu toàn trị

Phong cnh tinh thn thi hu toàn tr (1)

Lưu Hiểu Ba
Phạm Thị Hoài dịch
Chia sẻ bài viết này
Đặc điểm quan trọng nhất của thời hậu toàn trị là: một mặt, trong sự khủng hoảng tính chính danh của mình, giới thống trị tìm mọi cách bám chặt lấy nền chuyên chế, nhưng hiệu quả của sự cai trị ấy suy giảm từng ngày; mặt khác, dân chúng không còn tự đồng nhất với các hệ thống chuyên chế nữa, một xã hội dân sự bột phát lan rộng, tuy trước mắt chưa đủ sức thay đổi những guồng máy hiện tồn tại, nhưng với sự đa nguyên hóa xã hội mỗi ngày một mạnh trong kinh tế và trong các quan niệm về giá trị đang như những giọt nước không ngừng xói ruỗng sự trơ cứng vôi đá của hệ đồng phục chính trị.
Cụ thể về tinh thần, Trung Quốc hậu toàn trị đã bước vào “thời đại vô liêm sỉ”: không còn một đức tin nào nữa, lời nói một đằng hành động một ngả, trái tim và cửa miệng không cùng một ngôn ngữ. Mọi người (kể cả cán bộ cao cấp và đảng viên) không còn tin vào những văn bản quy định chính thức, người ta hết mình cho lợi nhuận thay vì cho sự trung thành và lí tưởng; nguyền rủa, phê phán và nhạo báng “Đảng vĩ đại, quang vinh và tốt đẹp“ từ lâu đã trở thành mốt trong những buổi tiệc tùng và giải trí của xã hội dân sự, để rồi trước cám dỗ và áp lực của lợi nhuận đại đa số lại đồng thanh ca ngợi theo đúng giọng Nhân dân Nhật báo khi chính thức xuất hiện trước công luận. Dường như hết lời tụng ca trước mặt và hùng hồn chửi bới sau lưng từ lâu đã biến thành một phản ứng theo tập quán của người Trung Quốc.
Giới tinh hoa trong hệ thống thì phân liệt. Họ là lớp người thế hệ trung niên, thành công trong hệ thống và bề ngoài gây ấn tượng là những kẻ hoạt động trong “hậu trường”. Trước công luận họ trả bài như vẹt, họ không bỏ qua dịp nào để tiến thân, nhưng ở chốn tiệc tùng riêng tư thì họ lại dùng một ngôn ngữ hoàn toàn khác, đại loại: “Mình trong guồng, cậu ngoài guồng, nhưng đều nghĩ như nhau cả thôi, chỉ hình thức là khác. Ở ngoài thì cậu hô hoán, còn mình thì xắn tay giải quyết việc bên trong…” Họ có thể rỉ tai ta vài ba tin tức, gọi là tin nội bộ, và phân tích tình hình chính trị cũng như các hậu quả; họ có thể miêu tả cá tính của từng vị trên thượng tầng quyền lực và tiết lộ ai là người nhiều triển vọng nhất để trở thành một Tưởng Kinh Quốc [1] ở Đại lục; đúng thế, họ thậm chí có thể giải thích về diễn biến hòa bình khiến ta phải ngỡ ngàng. Họ tin rằng động lực mạnh nhất cho thắng lợi của diễn biến hòa bình bắt nguồn từ phe cấp tiến của họ trong guồng máy, gồm những người “tuy ở trong hệ thống nhưng trái tim đặt ra ngoài”; hơn nữa càng lên cao thì mặt nạ càng tinh xảo, những động thái trong bóng tối càng gây tác dụng và tỉ suất thành công của đòn tấn công kép, từ trong ra và từ ngoài vào, càng cao. Câu mà tất cả bọn họ hay nói nhất là: Có rất nhiều người tốt trong hệ thống đang tìm cách thay đổi và đang làm những điều quan trọng cho cải cách chính trị hơn hẳn những mũi tấn công từ bên ngoài. Mỗi lần trò chuyện với họ ta đều có ấn tượng rằng người nào cũng kiên định theo đuổi những lí tưởng cao đẹp, cũng đầy khả năng kháng cự, cũng bền bỉ và cũng đủ khôn ngoan chính trị như Gorbachev. Có lẽ thuở bé tôi đã xem hơi quá nhiều phim về các lãnh tụ cách mạng, có lẽ tôi đã quá bị đầu độc để thỉnh thoảng có thể thực sự hình dung họ như những nhà hoạt động hậu trường khôn ngoan và sành sỏi đang lặn sâu vào hang ổ kẻ thù.
Không chỉ trong giới công chức nhà nước, ở mọi lĩnh vực khác: trong giới truyền thông, giáo dục, văn hóa, kinh tế… ở đâu ta cũng gặp những hiện tượng như trên. Một người quen của tôi, sau sự kiện Thiên An Môn xoay sang làm kinh tế và phất mạnh, thỉnh thoảng thể nào cũng mời bạn đến ăn uống linh đình, lần nào anh ta cũng hăng say luận tình hình thế giới và lấy cả lương tâm lẫn danh dự ra mà thề rằng mình làm kinh tế và kiếm tiền hoàn toàn không phải vì đồng tiền, mà vì những dự định lớn lao sẽ thực hiện một ngày nào đó trong tương lai.
Họ liệt kê những ý nghĩa của bước đi này: Thứ nhất, rằng việc tham dự trực tiếp vào tiến trình định hướng thị trường và tư hữu hóa sẽ cung cấp những nền tảng kinh tế quan trọng nhất cho tiến trình dân chủ hóa chính trị. Thứ hai, rằng trong tương lai, những người bạn có thể lâm nạn vì rời bỏ guồng máy để quay về với giới đối lập chính trị bên ngoài hệ thống sẽ được dựa vào nguồn kinh tế mà họ thâu tóm được. Câu mà họ ưa nói nhất là: Không có tiền thì không thể làm cách mạng, càng muốn thắng lợi nhiều trong tương lai thì hiện tại càng phải làm ra nhiều tiền để đảm bảo một nền tảng kinh tế vững chắc. Thứ ba và quan trọng hơn, họ tin rằng một cuộc cách mạng do những người có tiền thực hiện sẽ là một cuộc cách mạng ít tốn kém nhất, vì thị trường đã dạy họ rằng với một dự toán chính xác về chi phí và lợi ích thì sẽ không thể xảy ra một cuộc cách mạng giá thành quá cao mà chẳng mang lại điều gì. Nếu những người có tiền có chân trong chính phủ thì xác suất xảy ra một cuộc cách mạng bạo lực sẽ nhỏ nhất và ngược lại, cơ hội cho một cuộc cách mạng hòa bình, từng bước, sẽ rất lớn.
Vì thế họ không ủng hộ mà cũng không phê phán Học thuyết Ba Đại diện [2] và Chủ nghĩa Tam dân Mới [3]. Họ cho rằng tuy những thứ đó luôn mạnh hơn thuyết cách mạng của Mao Trạch Đông và cũng mạnh hơn thuyết bốn nguyên tắc của Đặng Tiểu Bình [4], thậm chí một số người còn tin rằng chúng là bước mở đầu, đánh dấu sự chuyển biến trong thái độ thù địch nhân tính của chính quyền cộng sản, giống như việc dùng bông xốp của văn hóa đại chúng bọc giai điệu rực lửa cách mạng, nhưng so với lưỡi dao lạnh lùng của khẩu hiệu thì như thế vẫn tốt hơn.
Điều đáng tiếc nhất trong tình trạng bỏ bễ cả một thế hệ những người trẻ tuổi là họ cũng bị sự vô liêm sỉ hóa cuộc sống này nuốt chửng.
Hậu quả của những cuộc thanh trừng sau Sự kiện Lục Tứ là hàng loạt vụ khai trừ Đảng, nhưng những người tự động ra khỏi Đảng còn nhiều hơn, và mỗi năm số lượng đảng viên mới kết nạp cứ giảm dần. Tuy nhiên, sau một thập niên theo lệnh chôn vùi kí ức cùng những cám dỗ của đặc quyền đặc lợi, ngày nay số người trẻ làm đơn xin gia nhập Đảng lại tăng dần. Những năm gần đây, để minh họa sự hấp dẫn của Đảng Cộng sản đối với giới trẻ, cứ đến dịp kỉ niệm ngày thành lập Đảng mồng 1 tháng Bảy chính quyền lại công khai nhấn mạnh số đơn xin gia nhập Đảng của giới trẻ, đặc biệt là trong giới sinh viên. Theo Truyền hình Trung ương Trung Quốc, số sinh viên xin gia nhập Đảng tăng lên đến 60 %. Thông tin này cũng khớp với một số liệu khác mà truyền thông nhà nước loan báo: 65 % giới trẻ đánh giá cao Đảng Cộng sản Trung Quốc. Về động cơ xin gia nhập Đảng và thái độ ủng hộ Đảng thì những bản tin này chuyển trọng tâm từ lí tưởng sang thực dụng: Không ai nhắc đến cương lĩnh, mục tiêu của Đảng hay những lí tưởng cộng sản cao đẹp, tinh thần chiến đấu của Đảng lại càng không. Người ta tránh xa những thứ ấy và chỉ nhấn mạnh những thành tích vinh quang của những người cộng sản Trung Quốc, từ tuyên ngôn “nhân dân Trung Quốc đã vùng lên” của Mao Trạch Đông đến khẩu hiệu “nhân dân Trung Quốc đã giàu lên” dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, để rốt cuộc là áp dụng Ba Đại diện và Tam dân Mới. Phương thức tuyên truyền ấy nhằm truyền đi thông điệp: Từ khi có chính sách mở cửa và cải cách, những người cộng sản Trung Quốc đã đạt được những thành công đập ngay vào mắt: một quốc gia hùng cường với uy tín lớn mạnh và phồn vinh cho tất cả mọi người – và vì thế Đảng Cộng sản sẽ ngày càng hấp dẫn trong mắt giới trẻ.
Người đứng ngoài quan sát có thể ngờ vực những con số chính thức nêu trên, nhưng chỉ cần hiểu chút ít về giới trẻ ngày nay là có lẽ không ai còn hoài nghi nữa. Thế hệ sau 1989, bạc nhược bởi phồn vinh và thực dụng, quan tâm chủ yếu đến những điều chẳng liên quan gì đến dấn thân xã hội, nhân văn cao cả, suy tư sâu lắng, chính trị tỉnh táo và những giá trị siêu hình. Đối diện với cuộc sống, thái độ của họ là thực dụng và cơ hội; những mục tiêu quan trọng trong cuộc đời họ là một biên chế công chức, tiền bạc hay xuất ngoại; những sở thích chính của họ là thời trang, tiêu thụ, phong cách sành điệu của các ngôi sao điện ảnh, trò chơi điện tử và những cuộc tình chớp nhoáng. Bởi lẽ trước khi một thế hệ thanh niên kịp trưởng thành thì nó đã bị môi trường nhỏ là gia đình và môi trường lớn là xã hội nhấn vào cái vạc nhuộm của ranh mãnh và ý thức đặc quyền.
(Còn tiếp)
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Đức, tiểu luận “Die geistige Landschaft in posttotalitärer Zeit”, trong tuyển tập tác phẩm của Lưu Hiểu Ba Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass, tr. 34-45. Fischer Taschenbuch. Frankfurt am Main, 2013. Các chú thích đều của người dịch.
Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra
__________________
[1] Tưởng Kinh Quốc (1910-1988), con trai Tưởng Giới Thạch, Tổng thống Đài Loan 1978-1988, mở đường cho tiến trình dân chủ hóa Đài Loan.
[2] Học thuyết Ba Đại diện do Giang Trạch Dân đề xướng năm 2002 (Đảng Cộng sản Trung Quốc đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện nền văn hóa tiên tiến và đại diện lợi ích của đông đảo nhân dân Trung Quốc) được đưa vào Hiến pháp Trung Quốc năm 2004.
[3] Chủ nghĩa Tam dân Mới do Mao Trạch Đông đề xướng năm 1940 (Dựa vào Liên Xô, dựa vào chủ nghĩa cộng sản, dựa vào nông dân) thay thế Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (dân tộc, dân quyền, dân sinh).
[4] Bốn nguyên tắc do Đặng Tiểu Bình đề xướng sau Cách mạng Văn hóa: Trung thành với chủ nghĩa Marx-Lenin, trung thành với Đảng, trung thành với lãnh đạo, trung thành với tư tưởng Mao Trạch Đông.


Phong cnh tinh thn thi hu toàn tr (2)

Lưu Hiểu Ba
Phạm Thị Hoài dịch
Chia sẻ bài viết này
Về môi trường xã hội, hệ tư tưởng của những người cộng sản Trung Quốc bị cắt rời khỏi lịch sử, và kí ức của nhiều thế hệ thì hoàn toàn trống rỗng. Từ khi Đảng Cộng sản giành được chính quyền, dân chúng ở Đại lục Trung Hoa đã trải qua đủ kiểu thảm họa khó lòng hình dung, nhưng thế hệ sau 1989 là thế hệ tuyệt đối không phải mang nặng một kí ức nào về một thời cơ cực, không nếm trải sự đàn áp có hệ thống và nhà nước công an trị, chỉ thỉnh thoảng có chút kinh nghiệm trực tiếp của bản thân rằng “có tiền là xong hết” và “có quyền là có tiền”; còn để có được “ảnh hưởng xã hội” thì “không từ một phương tiện nào”, trong mắt họ người thành đạt là người trở thành tỉ phú qua đêm và tung tẩy như minh tinh trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Vì thế, hiển nhiên họ không có lấy một gram kiên nhẫn khi nghe kể về những thảm họa trong lịch sử và những bóng đen trong hiện tại. Họ cho rằng cứ lải nhải mãi về những kẻ hữu khuynh, về Đại nhảy vọt, về Cách mạng Văn hóa, về Sự kiện Lục Tứ, cứ suốt ngày phê phán chính phủ và triền miên vạch trần những mặt tối của xã hội thì nào có ích gì. Chẳng phải là chính họ, với đời sống đầy đủ tiện nghi và thông tin chính thống đủ loại do nhà nước cung cấp, đang là bằng chứng cho thấy Trung Quốc đã tiến bộ vượt bậc đó sao.
Ngoài mặt thì anh hùng, bên trong thì thỏ đế, đạo đức và lương tri thì hoàn toàn trống vắng.
Về môi trường gia đình, giới trẻ ngày nay phần lớn đều là con một, vì thế ở nhà họ là những ông “vua con”. Từ nhỏ đến lớn họ hưởng thụ một lối sống ích kỉ, chẳng bao giờ phải lo chuyện cơm áo. Họ không đích thân nếm trải sự cực nhọc mà thế hệ cha mẹ họ phải kinh qua để vươn lên. Họ được giáo dục thuần túy trong ý thức lấy mình làm trung tâm, tất cả đều phải chiều theo ý họ, họ thiếu hẳn cảm giác về những vấn đề của người khác. Nếu thi đỗ đại học, họ trở thành những chú chó cưng trong gia đình và những đứa trẻ được thường xuyên xoa đầu trong xã hội. Cho nên họ được gia đình nuông thành những kẻ tuyệt đối vị kỉ và được xã hội đẩy đến chỗ lấy tính toán thiệt hơn về thành công và tiêu thụ làm niềm vui sống. Cũng như vậy, bận tâm lớn nhất của đại đa số học sinh nông thôn thi đỗ vào các trường lớn không phải là làm cách nào giúp nông dân thoát nghèo và kì thị, mà là làm cách nào sau khi tốt nghiệp trở thành một siêu nhân thành thị thành đạt, để rũ bỏ hẳn kiếp lầm than của cha mẹ. Sinh viên ở những vùng nông thôn coi quan điểm đó là đương nhiên.
Biểu tình chống Nhật tại Trung Quốc 2012. Nguồn: New York Times
Những năm gần đây, cơn cuồng loạn của chủ nghĩa dân tộc trong xã hội dân sự ở Đại lục còn vượt xa thái độ chính thức của nhà nước; giới trẻ là những người hân hoan nhất với chủ nghĩa dân tộc; đặc biệt chủ nghĩa bài Mỹ, bài Nhật và phản đối sự độc lập của Đài Loan từ lâu đã trở thành những chủ đề quan trọng để thế hệ trẻ ở Đại lục bày tỏ ý thức dấn thân cho Tổ quốc và xả hận thù quốc gia. Vụ máy bay Mỹ đụng máy bay Trung Quốc [i], vụ thác loạn tập thể của người Nhật trong một khách sạn ở Châu Hải [ii], vụ sinh viên Nhật “nhục mạ Trung Quốc” tại Đại học Tây Bắc [iii], vụ Thủ tướng Nhật Koizumi viếng thăm Đền Yasukuni, vụ một phụ nữ người Hoa, bà Zhao Yan, bị cảnh sát Mỹ hành hung [iv], trận chung kết Cúp bóng đá châu Á giữa Trung Quốc và Nhật Bản [v] – tất cả những sự kiện đó đều là dịp để các nhà yêu nước trẻ tuổi hun nóng cảm xúc và phẫn nộ tập thể, và biến một con muỗi thành một con voi. Trong cái ngôn ngữ côn đồ ngày càng dữ dằn của chủ nghĩa dân tộc trên mạng, lòng ái quốc lẫn vào những lời chửi rủa văng mạng và tiếng la hét đòi nợ máu. Nhưng cái chủ nghĩa yêu nước đang trỗi dậy này không đủ sức để ngăn cản lối sống cơ hội, chưa nói đến sự im lặng phổ biến trước bạo lực từ phía chính quyền, còn bản thân chính quyền lại làm ngơ trước bạo lực xã hội. Bào mòn năng lực cảm thông và triệt tiêu ý thức về công lí đã trở thành một thứ bệnh thời thượng của xã hội; chẳng ai buồn đoái hoài tới người già gục ngã ven đường, chẳng ai cứu cô bé nhà quê trượt chân rơi xuống nước; cướp đường xông lên tàu, hành hung và hãm hiếp phụ nữ ngay tại chỗ mà không một ai trong số trai tráng tuổi từ 20 đến 40 ngồi chật toa đứng lên chống cự; du đãng bắt cóc và kéo lê hai thiếu nữ cả trăm mét cho thiên hạ thấy mà tất cả đều trố mắt đứng nhìn, không một ai giơ tay ra giúp… Những tin tức về hiện trạng xã hội khiến ta phải rùng mình như thế không phải là hiếm trên truyền thông ở Đại lục, ngay cả trong một số chương trình trên Truyền hình Trung ương.
Chủ nghĩa dân tộc của thế hệ những người Trung Quốc trẻ tuổi là thế: bề ngoài khua võ miệng, bề trong đớn hèn. Cô sinh viên đứng dậy hỏi ông Clinton một câu không mấy thân thiện và đầy tinh thần ái quốc khi ông đến Đại học Bắc Kinh diễn thuyết nhân chuyến thăm Trung Quốc năm nào, bây giờ đã kết hôn với một người Mỹ. Những câu chuyện kịch tính như vậy tất nhiên là đề tài cho truyền thông khai thác và cũng khuấy động dư luận một thời gian. Nhưng đáng buồn hơn nhiều là đối diện cái mâu thuẫn giữa lời nói và hành động ấy, giới trẻ không hề thấy rối trí hay phải tự hoài nghi gì hết; họ chửi Mỹ cũng thản nhiên như việc họ sang Mỹ du học. Khi chửi Mỹ, họ đầy lòng phẫn nộ thành thực. Khi ngồi trên máy bay thẳng hướng Boston họ vui như Tết, và niềm vui ấy cũng lại thành thực nốt.
Cách đây vài ngày tôi đọc trên mạng một lời mời kí tên leonphoenix, mở đầu như sau: “Tôi thích sản phẩm Mỹ, tôi thích phim bom tấn của Mỹ. Tôi thích tinh thần tự do của Mỹ. Tôi ngưỡng mộ sự vĩ đại và phồn vinh của Mỹ, nhưng suốt ngày tôi cùng bạn bè hô ‘Đả đảo bọn Yankee!!!’, vì đó là phản ứng bản năng tất yếu của đám đông nhu nhược.” Đó là sự thật về cái chủ nghĩa yêu nước vô liêm sỉ mà những con người này truyền bá nặc danh trên Internet.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi một số giáo sư có khuynh hướng cởi mở phải than rằng: sinh viên là những người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của nền giáo dục theo hệ tư tưởng chính thống suốt thập niên 90.
Trong những vấn đề liên quan đến Đảng Cộng sản, thái độ của thế hệ trẻ cũng vô liêm sỉ chẳng kém. Tuy gần đây số sinh viên làm đơn xin vào Đảng tăng mạnh, nhưng số người thực sự tin ở chủ nghĩa cộng sản cũng hiếm như những người trong giới trẻ dám nói “Không” với tiến trình dã man hóa xã hội một cách hệ thống và đi liền với nó là bạo lực.
Cô sinh viên năm xưa ở Đại học Bắc Kinh, nay đã kết hôn với một người Mỹ, có từng là hay vẫn đang là đảng viên cộng sản hay không, tôi không biết. Nếu không thì thái độ của cô không hoàn toàn khớp với lối sống điển hình của giới trẻ ở Đại lục. Nếu có thì những phát ngôn của cô khi còn ở trong trường và lựa chọn sau khi tốt nghiệp là ví dụ hết sức điển hình cho giới trẻ ở Đại lục: một sự chú trọng những tính toán vật chất quá mức bình thường, một lối sống đặt tiêu điểm vào nỗ lực tìm kiếm lợi nhuận cao nhất cho bản thân. Nói cho có phần nhẹ nhàng thì đó là sự bừng tỉnh của ý thức lợi nhuận ở các cá nhân, còn không thì có thể đơn giản gọi đó là bon chen cơ hội. Họ không tin ở chủ nghĩa cộng sản nhưng lại muốn vào Đảng, họ ngây ngất trong tinh thần ái quốc đả đảo Mỹ nhưng lại chạy theo mọi thứ mốt từ Mỹ tràn sang. Song điều đáng kinh ngạc nhất là: họ không hề thấy thái độ của mình có gì là mâu thuẫn và lại càng không hề thấy có gì phải băn khoăn. Trái lại, họ tự thấy mình rất ổn. Chừng nào còn kiếm chác được, họ còn thấy mình đã khôn ngoan chọn đúng đường.
(Còn tiếp)
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Đức, tiểu luận “Die geistige Landschaft in posttotalitärer Zeit”, trong tuyển tập tác phẩm của Lưu Hiểu Ba Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass, tr. 34-45. Fischer Taschenbuch. Frankfurt am Main, 2013. Các chú thích đều của người dịch.
Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra
______________________
[i] Ngày 1-4-2001, một máy bay do thám của hải quân Mỹ đụng độ một máy bay tiêm kích Trung Quốc ở không phận gần đảo Hải Nam.
[ii] Tháng 9-2003, một công ti xây dựng Nhật Bản tổ chức 15 năm ngày thành lập trong một khách sạn 5 sao tại Châu Hải, với 400 đàn ông Nhật và 500 gái điếm Trung Quốc ba ngày liên tục, đúng dịp 72 năm ngày Nhật chiếm đóng Mãn Châu.
[iii] Tháng 10-2003, một nhóm sinh viên Nhật tại Đại học Tây Bắc đeo dương vật giả và vú giả đến một buổi khiêu vũ, rồi thóa mạ rằng đó chính là hình ảnh của người Hoa.
[iv] Tháng 7-2004, bà Zhao Yan, một doanh nhân Trung Quốc bị nghi oan là tòng phạm trong một vụ buôn lậu cần sa và bị cảnh sát Hoa Kỳ hành hung thô bạo.
[v] Năm 2004, kết quả: Nhật chiếm giải vô địch châu Á

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét