Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

(REPOST) Đặt vấn đề cần xét sử cuộc tàn sát ở Huế (1968)Tết Mậu Thân

Đêm mồng một Tết năm Mậu Thân (30 tháng 1 năm 1968), 12 ngàn quân cộng sản đã nổ súng tấn công thành phố Huế, chiếm đế đô cũ của nhà Nguyễn trong 26 ngày.

Chiến dịch Đông Xuân, cửa ngõ đi vào tội ác

Cuộc binh biến này là một trong những cao điểm của Chiến dịch Đông-Xuân, với một quân số gần 200 ngàn người gồm cả bộ đội chính qui lẫn du kích, chính ủy, cán bộ cộng sản xâm nhập từ miền Bắc cũng như tuyển mộ tại chỗ, mà Hà Nội đã mở ra ở chiến trường miền Nam, vào ba năm cuối thập niên 1960, trong ý đồ tạo thế mạnh trên chiến trường để áp đảo trên bàn hội nghị nếu buộc phải đi vào cuộc thương lượng. 

Ngày thứ 27 những tay súng xâm lăng Huế đã bị quân lực Việt Nam Cộng Hòa cùng với quân đội Đồng minh đánh bật ra khỏi những nơi họ chiếm đóng. Các trận đánh đã chấm dứt, một trong những việc khẩn cấp trong khi chờ đợi cuộc sống bình thường trở lại trên miền sông Hương núi Ngự là lo kiểm điểm thương vong. Đã không có cuộc kiểm tra dân chúng thật sự nào được thực hiện. Nhưng đại cương, chỉ biết rằng tính tới tháng Ba/1968, theo thống kê của nhà cầm quyền thì có 1.900 dân thường được đưa vào bệnh viện vì thương tích chiến tranh và khoảng 5.800 người bị Cộng sản bắt đi mất tích. Và cho đến bây giờ, tất cả những người này coi như đã chết. Nhưng họ đã chết như thế nào? 
Đã có lúc người ta tưởng rằng đó là những bí mật đã bị chôn vùi dưới lòng đất và trước sau gì thì thời gian cũng sẽ xóa hết vết tích thôi. Nhưng không ngờ rằng chẳng bao lâu sau sự thật đã dần dần hé lộ. Và một loạt tội ác ghê rợn vì mức độ dã man làm chỗi dậy lương tâm loài người lần lượt được vạch trần ra trước ánh sáng. Vô số tử thi được tìm thấy rải rác, hay tập trung trong những hố chôn tập thể, ở những vùng chung quanh Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Bốn mươi năm đã trôi qua. Không biết có bao nhiêu người nay còn muốn nhắc lại câu chuyện Tổng công kích cách mạng của cộng sản tại Huế, còn đoái hoài tới những kẻ xấu số đã mất đi mạng sống của mình một cách thảm thương. Đành rằng trước những tội ác đảo lộn luân thường đạo lý của phát xít quốc xã và cộng sản toàn trị, thế kỷ XX đã bị tố cáo trước công luận thế giới là man rợ xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Nhưng công luận đã không đáp ứng được nhu cầu công lý. Có gì để đền bồi cho thân nhân h àng ngàn gười xấu số đã chết tức tưởi dưới bàn tay khát máu của cộng sản tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân? Và những kẻ sát nhân đã phải trả lời ra sao về tội ác của chúng? Có thể đành tâm im lặng nhìn cuộc sống thị phi lẫn lộn kéo dài vô tận được không? 
Một người Mỹ từng có nhiều công trình nghiên cứu thâm sâu về những người Cộng sản Việt Nam, ông Douglas Pike, khi lập một hồ sơ về biến cố Tết Mậu Thân đã viết rằng: “Ngoài tiếng thở dài cay đắng, người dân sẽ nói cho quí vị hay những gì về Huế mà thế giới đã không biết tới, và nếu có biết, họ cũng chẳng quan tâm đến những gì ở Huế sau 27 ngày gọi là “giải phóng Thừa Thiên (...). Những gì xảy ra ở Huế làm cho những ai còn là người văn minh trên địa cầu nầy phải dành nhiều phút giây tĩnh tâm để tư duy về những điều đã được khắc ghi, cùng với những tai họa khủng khiếp khác về những hành động dã man của người đối với người sẽ không bao giờ quên được và trở thành một dấu ấn sâu sắc trong dòng lịch sử nhân loại” (lời dịch của Tuệ Chương). 
Bốn mươi năm sau. Chúng ta, những người không Cộng sản còn nhớ được những gì và suy nghĩ gì về cuộc giết người hàng loạt này?

Bộ mặt ghê rợn của ý thức hệ

Một người dân Huế nhớ lại: “Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau Tết, chúng tôi lập Hội Gia đình Nạn nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân. Các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người. Có nhà báo ước tính 5,000. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu”.

Nhiều đợt kiếm xác làm liên tưởng tơi cảnh hành hình trong ngục của Diêm Vương. Các nạn nhân tay bị trói bằng dây thép gai buộc ra sau lưng, miệng nhét giẻ, thân xác không còn nguyên vẹn nhưng lại không có dấu vết bị thương. Chắc hẳn những người này đã bị chôn sống . Nơi tìm thấy nhiều xác nạn nhân nhất là ở những đồi cát của ba làng Vinh Lưu, Lệ Xá đông, và Xuân Ổ; đây là vùng đồi cát liên tiếp nhau, nhiều đụn cỏ, ở gần biển Đông. Cách xa cách vùng đầm nước mặn, đây là nơi thuận tiện để chôn tập thể. Đã có hơn 800 người được phát giác ở khu này. Các nạn nhân bị trói thành từng nhóm 10 hoặc 12 người, sắp hàng bên cạnh những cái hố do dân địa phương đào. Sau khi bị bắn bằng súng máy nhờ có vỏ đạn bên cạnh hố chôn nên đoán là do Nga sản xuất. Một địa điểm khác nữa là ở quận Nam Hòa, chỗ gọi là khe Đá Mài, hay là nơi người dân Phú Cam bị giết, tìm thấy hôm 19 tháng 9 năm 1969. Cán binh Cộng Sản đào ngũ khai với viên chức tình báo thuộc đoàn Không Kỵ 101 của Hoa Kỳ rằng họ đã chứng kiến việc giết hàng trăm người ở khe Đá Mài, cách Huế 10 dặm về phía nam vào tháng Hai 1968. Khu nầy hoang vu, không có dân cư, khó đến được, một toán tìm kiếm đã tới được khe Đá Mài báo cáo rằng trong dòng suối có rất nhiều đống xương người chồng chất lên nhau.
Nhờ những tin tức gom góp được, người ta tạm phỏng đoán những gì xảy ra ở khe Đá Mài. Tại khu Phú Cam, nơi có khoảng 40 ngàn dân, những người theo đạo Thiên Chúa chiếm 3/4 dân số thành phố. Hôm mồng 5 Tết dân khu này chạy vào nhà thờ tránh súng đạn như ở Việt Nam người dân thường làm. Thực ra, nhiều người trong số đó không phải là người có đạo Thiên Chúa.
Cán bộ Cộng sản vào nhà thờ bắt đi khoảng 400 người, một số theo danh sách có sẵn còn một số theo nhân dạng mà bắt (giàu có, sang trọng, trung niênv.v...). Cộng Sản cho biết họ phải vào vùng giải phóng để học tập chính trị trong vòng ba ngày, sau đó, sẽ được tha về. Họ bị đưa đi 9 cây số tới một ngôi chùa nơi Cộng sản đặt bộ Chỉ huy. Hai chục người được gọi ra trước cái gọi là “tòa án cách mạng”, bị tố cáo là có tội, bị hành quyết và chôn ngay trong sân chùa. Những người còn lại được đưa qua sông và giao cho đơn vị Cộng sản địa phương. Bảy ngày sau đó, không rõ số lượng bao nhiêu, cả người bắt và người bị bắt đã di chuyển về một vùng quê. Và để không cho ai thấy, người bị bắt bị dẫn đến những vùng núi non lởm chởm nhất miền Trung Việt Nam, tới khe Đá Mài. Tại đây họ bị bắn hay bị đập đầu, xác bị đạp xuống lòng khe.
Ông Nguyễn Phúc Liên Thành, nguyên Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt tại Thừa Thiên nhớ lại: “Sau khi lập chính quyền thì Việt cộng bắt đầu cuộc thảm sát. Đầu tiên họ kêu gọi quân nhân cán chính trong thành phố Huế ra trình diện. Sau khi trình diện thì được cấp giấy, có quyền đi lại, coi như giấy thông hành. Những người này về nói lại với những người khác, người kế tiếp ra trình diện. Đến lần thứ ba thì họ yêu cầu tất cả những ai đã trình diện lần một và lần hai ra trình diện lại. Đây là lần quyết định, và cuộc thảm sát đã diễn ra!”
Ơng Ông Philip W. Manhard, cố vấn Mỹ tại Huế bị bắt làm tù binh và bị giam giữ tại một trại tù binh ở ngòi Bắc cho đến năm 1973, đã xác nhận rằng khi phải rút khỏi thành phố Huế, bộ đội cộng sản đã hạ sát tất cả những ai không chịu đi theo, cũng như những người quá già hoặc quá ít tuổi gây trở ngại cho cuộc rút quân này. (*)
Phải được thúc đẩy bởi những động cơ tâm lý như thế nào mới có thể giết người một cách vô cảm và phi nhân tính, theo đuổi ý đồ diệt chủng như vậy? Tìm cách giải nghĩa cuộc tàn sát Tết Mậu Thân dưới góc độ nhìn vấn đề như thế thì chỉ có một câu trả lời độc nhất, đó là sự thể hiện cụ thể nhất của hệ thống giáo điều ý thức hệ Cộng sản với căm hờn giai cấp, với vai trò lịch sử tự phong của lớp người tự nhận là vô sản, với chủ trương đảng trị độc tôn, toàn trị phi nhân quyền v.v... cho phép người cộng sản - như, đúng ra hơn cả Thượng Đế - có đủ mọi thứ quyền trên cõi đời này, kể cả quyền sinh quyền sát. Bởi vậy cuộc tàn sát đầu Xuân Mậu Thân vẫn còn là một vấn đề mà các thế hệ nói tiếp cần phải phân tích để thanh toán.
Khoảng cách bốn mươi năm đã mang lại nhiều thay đổi từ tư tưởng đến thực tế đất nước, góp phẩn làm hiển lộ sự thật. Nếu vào thời điểm năm 1968, những người Cộng sản có được sự thản nhiên lạnh lùng để hạ sát một cách man rợ hàng ngàn đồng bào là tại vì lương tâm con người trong họ đã bị tham vọng quyền lực, quyền lợi che lấp. Phải bằng mọi giá loại trừ bất cứ trở ngại nào trên buớc đường họ cướp quyền để cầm quyền. Nhưng sau hơn 30 năm chiếm được trọn quyền trong cả nước, những người cộng sản qua suy nghiệm bản thân chắc đã không thể không nhận rõ được thực chất vô đạo, dối trá, man rợ, lạc hậu của ý thức hệ của mình. Họ biết rằng không thể mượn những ánh hào quang giả trá của chủ nghĩa để biện minh cho hành động giết người của họ. Nên họ đã ra sức che dấu tội phạm bằng những luận điệu, hình thức lố bịch tự ca ngợi chiến thắng, tạo nên những căng thẳng tâm lý, khơi sâu thêm hận thù trong xã hội. Nhưng họ che dấu bằng thái độ phi luân lý, bất cần tốt xấu, sai đúng, khinh miệt mạng sống con người. Mặc dầu trước công luận thái độ này có chỗ dựa là chính quyền nhưng nó không thể làm nền tảng đạo lý cho môt nước Việt Nam dân chủ lương thiện được. Hồ sơ cuộc giết người hàng loạt Tết Mậu Thân vì vậy chưa thể xếp lại mà còn phải đưa ra trước công lý..

Đường thẳng và những ngõ ngách để đi tìm công lý

Chữ công lý có hai nghĩa. Hiểu một cách thông thường thì công lý là công bằng, hợp với lẽ phải, trái phải, công tội phân minh v.v... Công lý cho người dân cảm giác công chính, thỏa đáng, chính đáng. Nhưng điều này không phải tự nhiên đã có sẵn trong xã hội, cần phải thực hiện mới có và công lý chỉ thực hiện thông qua nhà cầm quyền. Chính quyền phải có những định chế để đáp ứng nhu cầu công lý của dân. Do đó, chữ công lý còn có nhiều nghĩa chuyên môn mang tính chất triết học, pháp lý. Công lý về mặt chuyên môn, và hiểu theo nghĩa đơn giản nhất, là một phạm trù luân lý-chính trị-luật học, biểu hiện một trạng thái quan hệ trong đó con người được đối xử công bình, nghĩa là bình đẳng với nhau trước pháp luật, trong sự tương kính, phù hợp với hệ thống giá trị được coi như tiêu chuẩn của cuộc sống chung. Công lý vì thế là đạo đức hàng đầu của chính quyền, là lẽ chính thống của một một chế độ, là diện mạo của văn minh.

Cho đến cuối thế kỷ XX, trên đại thể, công lý là giá trị quốc gia. Nước nào có công lý của nước ấy, tuy rằng cũng phải qui chiếu vào cái hình bóng giá trị được gọi là công lý chung của nhân loại. Nhưng từ thập niên 1990 công lý chung này bắt đầu quá trình đột xuất dưới hình thức bào thai. Và đến năm 1998 thì nó chính thức ra đời ở thành phố Rome của nước Ý, dưới danh xưng Tòa Án Hình Sự Quốc Tế, có thể nói một tòa án hình sự đầu tiên của cả loài người . Như vậy là từ nay sẽ có hai nền công lý, đó là công lý quốc nội và công lý quốc tế. Đúng hơn, nên nói hai cách thực hiện công lý với những khác biệt từ hình thức đến nội dung. Việc nhận diện cho rõ những khác biệt này không đơn giản vì nó đòi hỏi nhiều kiến thức chuyên môn. Nhưng điều mà mọi người nên tránh là đừng đồng hóa một cách máy móc hai thứ công lý này. 
Câu hỏi thực tế được đặt ra là trong khuôn khổ hai nền công lý ấy, phải làm sao để xét xử vụ giết người hàng loạt Tết Mậu Thân? 
Có hai con đường thẳng và một số ngõ ngách để đưa vụ tàn sát Tết Mậu Thân ra trước công lý. Hãy bàn về những con đường thẳng để chọn hoặc con đường quốc tế hoặc con đường quốc nội. Về mặt công lý quốc tế thì vụ tàn sát này thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa Án Hình Sự Quốc Tế (TAHSQT). Thật vậy, những hành vi bắt người giết người và ý chí phạm tội của những thủ phạm cộng sản rõ ràng là những yếu tố cấu thành các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử (thuật ngữ luật học gọi là “thẩm quyền đối vật”, compétence ratione materiae) của cơ quan tài phán này, chiếu điều 6, 7 và 8 của Quy chế Rome 1998 thiết lập TAHSQT. Với những đặc tính này, vụ tàn sát Tết Mậu Thân là những tội phạm quốc tế đích danh như diệt chủng, chống nhân loại và tội phạm chiến tranh. Nhưng điều trớ trêu là các tụng nhân Việt Nam lại không có tố quyền để khiếu kiện trước TAHSQT. Vì chiếu điều 11 của Qui chế kể trên, TAHSQT chi thụ lý để xử những viêc xảy ra sau khi Qui chế này bắt đầu có hiệu lực, nghĩa là năm 2001. Hơn nữa trong mọi trường hợp, TAHSQT cũng không có hiệu lực đối với nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa vì nước này không ký tên vào Quy chế Rome 1998 nên không bị ràng buộc vào quy chế Rome. Như vậy, con đường thẳng quốc tế đã bị tắc nghẽn, các tụng nhân Việt Nam chỉ còn trông vào ba ngõ ngách là các nước Tây Ban Nha, Bỉ và Hoa Kỳ là ba nước tự cho mình có thẩm quyền trên tòan cầu xét xử một số tội hình sự bất cứ ai phạm ở nước ngoài (**). Với điều kiện là thủ phạm phải có mặt trên ba nước này và nếu không có mặt thì sẽ được dẫn độ. Rốt cuộc cũng vẫn là những bước phiêu lưu mà kếât quả cũng không hơn gì trường hợp không có tố quyền. Vì thủ phạm không dại gì tự mang thân vào vòng tù tội và yêu cầu dẫn độ cũng chẳng bao giờ được chấp thuận (**).
Còn đường thẳng công lý quốc nội thi sao? Theo lẽ, những tụng nhân Việt Nam có thể vô đơn nhờ tòa án quôc nội xét xử vụ tàn sát Tết Mậu Thân. Như tòa án ở Phnom Penh đang xử những người Khơ Me Đỏ về tội diệt chủng. Nhưng người dân Việt Nam cũng sẽ đành phải bó tay thôi. Đương nhiên phải vậy bởì lẽ Đảng cộng sản, Đảng đã gây ra tội ác diệt chủng Tết Mậu Thân, vẫn còn đang cầm quyền khác với trường hợp Khơ Me Đỏ đã mất quyền. Thân nhân các nạn nhân vụ tàn sát Tết Mậu Thân chắc chắn là không hy vọng gì thấy được tòa án của chế độ hiện hữu chấp đơn khiếu kiện để tự mình xét xử mình và trừng phạt mình. Vậy chỉ còn ngõ ngách là tụ họp để khiếu kiện ngoài đường phố, đòi hỏi nhà cầm quyền mở cuộc điều tra để truy cứu các thủ phạm trong cuộc diêt chủng Tết Mậu Thân, trừ phi chính quyền tại chức bị mất chức và chính quyền thay thế sẽ không theo đưổi chính sách cai trị diệt chủng cũ. 
Nói tóm lại, trước mắt, đặt vấn đề tìm công lý cho những nạn nhân vụ giết người hàng loạt Tết Mậu Thân là đặt vấn đề thay đổi ở tận gốc những điều kiện thực hiện công lý để cho nưóc Việt Nam có thể thực sự hội nhập với nhân loại văn minh. Để tạo ra một không gian pháp lý mới trong đó pháp luật sẽ thay thế cho bạo lực thay vì chỉ giữ vai trò công cụ cho bạo lực. 
___
[*] Phỏng theo và tóm lược các tài liệu đã được phổ biến trên mạng lưới internet.

[**] Tây Ban Nha đã yêu cầu dẫn độ Pinochet, cụu Tổng Thống Chili để xét xử về cuộc tàn sát tập thể tại nước này. Anh quốc tuy đã bắt giữ tướng Pinochet nhưng đã từ chối không chấp đơn xin dẫn độ của Tây Ban Nha.



Luật sư Trần Thanh Hiệp




Nghị viên Sam Liccardo lên tiếng về
danh sách "ma" do Lê Văn Hướng thực hiện
SAN JOSE (VNNB)- Từ mấy ngày qua kể từ sau khi Hội đồng thành phố San Jose bỏ phiếu chấp thuận quyết định không đặt tên cho khu vực thương mại tọa lạc trên đường Story ở San Jose thì dường như tất cả các mũi dùi đều nhắm vào ông Lê Văn Hướng, người được biết đến như là chủ nhân của hệ thống Leés Sandwiches, vì chính ông Hướng đã xác nhận trong buổi điều trần ngày 4 tháng 3 vừa qua trước HĐTP và hàng ngàn tham dự viên.

Bản danh sách 92 cơ sở thương mại mà ông Hướng nhận là đã đúc kết để đệ trình lên Hội đồng thành phố chỉ ít giờ trước khi phiên họp diễn ra đã trở thành bản văn kiện "nặng ký" nhất mà nghị viên Sam Liccardo, người ủng hô. NV Madison Nguyễn từ những giây phút đầu, đã căn cứ vào để thuyết phục các nghị viên khác bỏ phiếu chấp thuận đề nghị không chọn một danh xưng nào cho khu vực liên hệ và trao quyền quyết định về danh xưng cho các những người bị ảnh hưởng (identified stakeholders) (hiện chưa rõ là sẽ gồm những ai và trong phạm vi rộng lớn ra sao).

Quyết định của HĐTP được những người ủng hộ danh xưng Little Saigon cho là một hành động "ăn không được thì đạp đổ" của nhóm người ủng hộ danh xưng Saigon Business District hay ủng hộ cho việc làm của NV Madison Nguyễn.

Nhưng những phát giác từ sau ngày 4 tháng 3 cho thấy ít nhất đã có 20 cơ sở thương mại có tên ghi trong danh sách do ông Hướng đệ nạp đã hoặc công khai lên tiếng chính thức phản đối việc làm của ông Hướng, hoặc đã rục rịch nhờ luật sự kiện ông chủ hệ thống bánh mì thịt nguội này về việc sử dụng chữ ký của họ vào một việc làm ngoài ý muốn của họ và đã gây ra những thiệt hại tài chính trong thương vụ của họ.

Tiết lộ từ chính những chủ nhân cơ sở thương mại cho thấy tên, số điện thoại, địa chỉ, và chữ ký (hoặc chữ ký tắt) của họ là đúng, nhưng tất cả những chữ ký đó đã được ký vào khoảng thời gian từ 8 tháng đến hơn một năm trước đây khi những người đến xin chữ ký của họ nói rằng mục đích chỉ là nhắm xin thành phố đặt một danh xưng Việt ngữ khu vực thương mại trên đường Story mà thôi. Những người này cho rằng việc dùng những chữ ký của họ vào việc yêu cầu thành phố đứng ra ngoài việc đặt tên không phải là mục đích mà họ đã ký tên đồng ý và nhất là vào thời điểm này khi đa số muốn danh xưng Little Saigon mà nghị viên Madison lại tìm cách bác bỏ. Điều đáng thêm nữa là hầu hết 20 chủ nhân cơ sở thương mại như vừa đề cập đến ở trên đều ủng hộ danh xưng Little Saigon và bởi thế đã bực tức họ lại càng tỏ ra bực tức hơn trước hành động mà một số người gọi là "lường gạt" hay "gian dối" của ông Lê Văn Hướng.

Làn sóng phẫn nộ từ chủ nhân các cơ sở thương mại trong vùng rõ ràng đã là những ngọn sóng thần ập vào văn phòng nghị viên Sam Liccardo vì dù muốn dù không ông nghị viện mới mẻ này cũng phần nào phải chịu trách nhiệm vì đã không phối kiểm thực hư trước khi khư khư ôm vào đó để rồi đánh bại đề nghị của nghị viên Kansen Chu.

Nhiều người cho rằng với tư cách là một công tố viên trước đây thì hơn ai hết, nghị viên Sam Liccardo ít ra cũng phải đắn đo nhiều hơn nữa trong việc dựa vào nội dung bản thỉnh nguyện chỉ mới được đệ nạp vội vã trước đó ít giờ. Bây giờ thì việc đã vỡ lỡ và nhiều người tin rằng ông Hướng sẽ không sớm thì muộn trở thành một con dê tế thần trong vụ này mà hậu quả về hình sự và dân sự hiện nay chưa ai tiên đoán được.

Trong khi đó, vào sáng ngày thứ hai 10/3, NV Liccardo đã đưa ra một bản lên tiếng theo đó ông tóm lược những gì ông biết và đã làm trong vụ này. Văn bản bằng tiếng Anh và sau đây là bản dịch sang Việt ngữ của Việt Nam Nhật Báo. Những chữ trong ngoặc là của Việt Nam Nhật Báo để làm cho rõ nghĩa.

Bản lên tiếng của Nghị viên Liccardo về sự gian dối


Tin tức nhận được từ sau cuộc bỏ phiếu (của HĐTP) vào ngày thứ Ba vừa qua về việc chọn danh xưng cho một khu thương mại Việt Nam đã khiến tôi có những mối hoài nghi sâu đậm về một thỉnh nguyện mà tôi đã đề cập đến trong khi thảo luận về vấn đề liên hệ. Đặc biệt, một cư dân đã trao nộp bản thỉnh nguyện cho Thư Ký (thành phố) trong lúc công chúng đang điều trần và bản thỉnh nguyện này có 92 chữ ký của chủ nhân các cơ sở thương mại tại địa phương phản đối sự can dự của Hội đồng Thành phố vào việc chọn danh xưng cho khu thương mại.

Dựa trên những gì mà tôi được biết, văn kiện này ít nhất cũng là một sự trình bầy sai lạc trắng trợn. Nếu (văn kiện này) là gian dối, tôi sẽ đứng chung với cộng đồng bày tỏ sự tức giận về việc lèo lái Hội đồng cũng như quần chúng trong vấn đề này. Tôi sẽ cùng Nghị viên (Kansen) Chu tìm hiểu thêm về vấn đề này để có thể xác quyết được ý định của những người đã thực hiện và đệ nạp danh sách này. Tôi sẽ yêu cầu vị Luật Sư Thành phố tường trình với Hội đồng về những hình phạt hay chế tài có thể áp dụng đối với những người có trách nhiệm, chiếu theo Tu chính án Thứ Nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ và các luật lệ hiện hành. Tôi sẽ ủng hộ bất cứ hình phạt hay chế tài hợp pháp nào.

Vai trò của tôi trong vấn đề này có thể được tóm lược bằng những điểm như sau:

- Lần đầu tiên tôi biết đến sự hiện hữu của văn kiện này là một ngày trước khi phiên họp diễn ra, trong khi bàn bạc với các nghị viên.

- Tôi nhận được một phó bản và đã đọc qua văn kiện này ít tiếng đồng hồ trước khi Hội đồng biểu quyết vào ngày 4 tháng 3.

- Trái với những lời đồn đãi, tôi đã không đưa ra văn kiện này tại buổi điều trần của Hội đồng ngày 4 tháng 3. Văn kiện được đệ trình cho Thư Ký thành phố bởi một cư dân trong khi buổi điều trần đang diễn ra. Tôi tin người đó là ông Henry Le (tức Lê Văn Hướng), tuy nhiên hồ sơ sẽ cho biết rõ danh tánh người ấy, dù là bất cứ ai.

- Vào ngày 4 tháng 3 một nghị viên cho tôi biết ông Henry Le có can dự vào việc thực hiện danh sách đó. Tôi đã chỉ gặp ông Le có một lần, tại một sinh hoạt cộng đồng, và tôi chưa hề bao giờ nói chuyện với ông ấy về việc đặt một danh xưng cho khu thương mại hay về "Little Saigon"

- Trong buổi điều trần ngày 4 tháng 3, tôi đã tìm cách xác định về sự trung thực của văn kiện bằng cách hỏi ông Le rằng ông ấy có can dự vào việc thực hiện văn kiện này hay không.

- Trong buổi điều trần được trực tiếp truyền hình ấy, ông Le xác nhận là Có và nói rằng ông ta và một số phụ tá của ông đã thu thập các chữ ký trong bản thỉnh nguyện.

- Mặc dầu tôi rõ ràng đã dựa vào bản thỉnh nguyện với 92 chữ ký, tôi cũng đã dựa vào một lá thư đề ngày 1 tháng 3, ký bởi 7 chủ nhân dọc theo đường Story, phản đối việc Hội đồng thành phố đặt danh xưng cho khu vực này. Tôi đã phối kiểm bằng cách nói chuyện với hai trong số 7 chủ nhân và biết rằng lá thư ngày 1 tháng 3 là đúng của họ.

Sự kiện này làm cho tôi tin tưởng rằng Hội đồng thành phố không nên đóng một vai trò trực tiếp nào trong vấn đề áp đặt một danh xưng cho khu vực. Mà trái lại, danh xưng nên được đề xướng từ chính những cư dân làm việc, sinh sống, hay điều hành các cơ sở thương mại trong phạm vi khu vực. Tôi sẽ hoan hỷ tham gia và hỗ trợ bất cứ những cơ sở thương mại hay cư dân nào trong nỗ lực tự tổ chức thành một hiệp hội để rồi lập ra một danh xưng cho khu vực của họ, cho dù là danh xưng "Littkle Saigon" hay bất cứ một danh xưng nào khác.


Cho tới giờ này không ai có thể đoan quyết được là liệu những lời giải thích của NV Sam Liccardo có thực sự là khả tín hay không nhưng rõ ràng qua những điểm mà ông đưa ra thì NV Liccardo đang tìm cách né tránh trách nhiệm trong vấn đề này.

Vào tối ngày chủ nhật vừa qua NV Kansen Chu đã ra một văn thư yêu cầu Ủy Ban Rules and Open Government, do Thị trưởng Chuck Reed làm chủ tịch, gấp rút đem vần đề này ra thảo luận trong phiên họp định kỳ của Ủy Ban này vào lúc 2 giờ chiếu ngày thứ tư 12/3 tới đây.

Tin ghi nhận được cho biết trong vòng không đầy 3 tiếng đồng hồ vào tối ngày chủ nhật 9/3/08 vừa qua hệ thống điện thoại khẩn cấp 911 đã nhận được 4 cú điện thoại khác nhau gọi đến báo tin là có người đang trong tình trạng nguy ngập nơi ông Lý Tống đang tuyệt thực và sự kiện này đã khiến các các cơ quan liên hệ phải phái các xe cảnh sát, xe cứu hỏa cấp tốc tới nơi để tìm hiểu thực hư hầu làm nhiệm vụ cấp cứu của họ. Thế nhưng thực sự thì cho đến giờ này ông Lý Tống cũng vẫn còn tương đối tỉnh táo mặc dù đã bị sụt đi hơn 35 lbs kể từ ngày bắt đầu tuyệt thực và ông cũng đã tuyệt ẩm kể từ tối ngày thứ tư 5 tháng 3 vừa qua. Những người thực hiện những cú điện thoại vô ý thức đó rõ ràng đã làm phiền lòng không những các cơ quan có thẩm quyền mà còn gây hoang mang trong quần chúng nhất là nhiều người hiện đang lo âu về tình trạng sức khỏe của ông Lý Tống. Sở cảnh sát San Jose đã nhận diện được số điện thoại của cú điện thoại lần thứ tư vào khoảng 11 giờ đêm và Trung sĩ C. Lacap đã lập biên bản trong vụ này. Hy vọng rồi ra người gọi cú điện thoại vô ý thức đó sẽ phải trả lời trước pháp luật.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét