Trung Tâm Việt Nam của đại học Texas Tech tổ chức cuộc hội thảo lớn về nhiều khiá cạnh liên quan đến cuộc tổng công kích tết Mậu thân1968, biến cố đem lại đau thương tang tóc cho hằng vạn gia đình ở cả hai miền Nam - Bắc.
Vì sao Hà Nội phải tung ra trận tổng công kích Mậu Thân? Ai trong bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam ủng hộ và phản bác kế hoạch đó? Ông Hồ Chí Minh can dự ra sao? Các nhân vật khác có lập trường thế nào? Các tư lệnh và chỉ huy chiến trường Huế của Cộng sản đã điều động và thực hiện kế hoạch ra sao?
Đó là những đề tài đáng chú ý trong những cuộc thảo luận trong ngày thứ nhì của cuộc hội thảo. Việt-Long tường trình tiếp cùng quý vị trong bài sau đây, ý kiến của nhà nghiên cứu độc lập Merle Pribbenow, nguyên là chuyên viên ngôn ngữ của cơ quan tình báo Trung ương Mỹ CIA, làm việc tại Sài Gòn trước đây.
Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp phản đối
Nhiều người trong giới nghiên cứu của Hoa Kỳ cho rằng quan niệm về kế hoạch tổng công kích Mậu thân là của tướng Võ nguyên Giáp, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Bắc Việt Nam. Có người lại cho đó là của tướng Nguyễn Chí Thanh, tư lệnh quân sự các lực lượng Cộng sản chiến đấu ở miền Nam.
Tưởng chừng còn phải chờ nhiều năm nữa mới xác minh được sự thật, nhưng gần đây những nguồn thông tin từ Hà Nội cho thấy cả hai vị tướng kia đều không phải là tác giả kế hoạch tổng công kích tổng nổi dậy Mậu thân 1968.
Đó là lời của nhà nghiên cứu Merle Pribbenow trong bài thuyết trình về biến cố tết Mậu thân. Cựu chuyên viên ngôn ngữ của cục tình báo trung ương CIA cho biết tiếp, thực ra hai ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp là hai người bày tỏ quan điểm chống lại kế hoạch đó qua những cuộc bàn cãi sôi nổi trong bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam.
Phần trình bày của sử gia Villard tiếp tục như sau:
Quan niệm về một cuộc tổng công kích tổng nổi dậy thực ra đã bắt nguồn từ những năm giữa thập niên 1960. Và kế hoạch đó sau cùng đã là sản phẩm chung của tướng Văn Tiến Dũng, thuộc cấp cao cấp nhất của tướng Giáp, và tổng bí thư Lê Duẩn, đối thủ lâu năm của vị tướng được cả quân dân miền Bắc ngưỡng mộ và thường gọi là anh Văn.
Tháng 12 năm 1963, Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam chấp thuận môt nghị quyết, nguyên văn có đoạn là “một cuộc tổng công kích, tổng nổi dậy là tối cần thiết để đạt đến chiến thắng hoàn toàn tại miền Nam”
Tuy nhiên nghị quyết này khẳng định rằng tổng công kích tổng nổi dậy chỉ có thể được thực hiện sau khi quân đội miền Nam đã tan rã, để lực lượng địch không còn sức đàn áp cuộc nổi dậy của nhân dân, là trung tâm của cuộc tổng công kích, tổng nổi dậy.
Tháng 9 năm 1964, bộ chính trị quyết tâm đạt chiến thắng toàn diện, điều động vào miền Nam một đại đơn vị thiện chiến đầu tiên, với nhiệm vụ chuẩn bị tổng công kích sau khi quân đội miền Nam bị đánh bại.
Kế hoạch của Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng
Một kế hoạch quân sự gọi là kế hoạch X được soạn thảo, nhằm tấn công Sài Gòn từ năm hướng, sử dụng các đơn vị đặc công làm mũi tiến công tiền đạo, sách động dân chúng nổi dậy lật đổ chính quyền Sài Gòn. Kế hoạch này y hệt kế hoạch được sử dụng trong chiến cuộc Mậu thân 1968.
Bí thư thứ nhất Lê Duẩn là đồng tác giả và người chủ động nhất trong kế hoạch này, sau đó phải ngưng kế hoạch lại vì lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà vào mùa hè 1965 đã đánh tiêu tan mọi hy vọng về tổng công kích tổng nổi dậy vào năm đó.
Tướng Võ Nguyên Giáp không giữ vai trò chủ chốt trong cuộc chiến ở miền Nam như ông từng giữ trong chiến tranh chống Pháp. Tuy mang chức vụ tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và Bộ trưởng quốc phòng, nhưng ông chỉ là một trong 5 uỷ viên của quân uỷ Trung ương, là cơ chế chỉ đạo chiến trường miền Nam.
Chính trị bộ thường tranh luận gay gắt về chiến lược chiến thuật cho chiến trường này, và tướng Giáp thường ở về phía thua cuộc. Không rõ chi tiết những cuộc tranh cãi, nhưng tin cho hay một bên là bí thư Lê Duẩn cùng những uỷ viên người miền Nam, bên kia là tướng Giáp và những người còn lại trong bộ chính trị.
Hai nhân vật này đã xung khắc từ lâu. Những sự kiện được biết chắc là năm 1956 tướng Giáp được toàn Đảng coi là ứng viên sáng giá nhất cho chức vụ bí thư thứ nhất, thay thế Trường Chinh. Nhưng cuối năm 1957 Lê Duẩn qua mặt ông Giáp, được bầu chọn làm quyền Tổng bí thư. Hai người cũng mâu thuẫn về vấn đề tái khởi phát chiến tranh ở miền Nam.
Cuộc tranh cãi kéo dài tới hai năm, cả giữa khi ra đời nghị quyết 15. Ông Giáp có nhiệm vụ soạn thảo nghị quyết, nhưng có tin cho là ông không đệ nạp dự thảo cho tổng bí thư Lê Duẩn trong nhiều tháng trời. Sau này khi nhận được, ông Duẩn đã sửa chữa nhiều điểm trước khi đưa ra Trung ương Đảng để chuẩn phê.
Mùa hè 1966, lực lượng Bắc Việt rơi vào chiến lược phòng vệ khi quân Mỹ đổ vào ngày càng đông. Giới lãnh đạo quân sự miền Bắc luôn luôn quan niệm rằng phải tiến công liên tục để giành thế chủ động chiến trường.
Tháng 6 năm 1966, bộ tổng tham mưu ở Hà Nội soạn thảo một kế hoạch cho chiến dịch Đông xuân 66-67, dự kiến đạt chiến thắng quyết định trong năm 1967. Chiến dịch nhắm tấn công một số tỉnh thành, đánh tan quân đội Việt Nam và gây tổn thất nặng nề cho lực lượng Mỹ.
Tướng Võ nguyên Giáp và tướng Nguyễn Chí Thanh ủng hộ kế hoạch này, nhưng cảnh giác rằng phải giành thắng lợi trong những trận chiến sắp tới khi lực lượng Mỹ của tướng Westmoreland tung ra hành quân lùng và diệt.
Những cuộc tấn công vào thành thị phải thực hiện ở quy mô nhỏ, và chỉ tiến tới giai đoạn tổng nổi dậy ở những địa phương chọn lựa vào khi lực lượng Cộng sản chiếm hoàn toàn ưu thế quân sự.
Thương lượng với Mỹ
Nhưng cũng cùng tháng đó bộ chính trị quyết định mở cuộc thương lượng với Hoa Kỳ.
Quyết định được chính thức hoá vào tháng giêng 1967 khi Trung ương Đảng chuẩn thụân nghị quyết 13, kêu gọi bàn thảo chiến lược thương lượng với Mỹ. Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Trinh thuyết trình với Trung ương Đảng về nghị quyết 13, nói rằng cuộc chiến đi vào bế tắc.
Người Mỹ phải chọn giữa hai giải pháp, một là phải leo thang chiến sự trong một cuộc chiến lâu dài, hai là phải đạt một chiến thắng nhanh chóng tạm thời làm lợi khí thương thuyết dàn xếp và đòi hỏi những điều kịên có lợi hơn cho phía Mỹ, trước khi diễn ra cuộc tuyển cử Tổng thống Mỹ vào năm 1968.
Ngọai trưởng Việt Nam cho rằng phía Mỹ đang gặp sự chống đối chiến tranh từ trong nước, Tổng thống Johnson phải chọn phương cách khác để giữ ghế Tổng thống. Điều này là cơ hội tốt cho phía Cộng sản Việt Nam. Cộng sản sẽ đề nghị thương thuyết nhưng vẫn tiếp tục tấn công trên chiến trường để giành ưu thế trong lúc Tổng thống Johnson ở thế yếu vì phải đạt giải pháp trước bầu cử.
Tuy nhiên ông Trinh nhấn mạnh rằng trước khi khởi sự thương thuyết, lực lượng Cộng sản phải giành cho được một chiến thắng đáng kể về quân sự để làm lợi khí cho các nhà thương thuyết.
Nghị quýêt 13 cổ võ toàn quân tung hết nỗ lực giành một chiến thắng quyết định, là gây tổn thất nặng cho lực lượng Mỹ và đập tan quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Mục đích là tạo dựng những điều kiện cần thiết cho một cuộc tổng công kích tổng nổi dậy, lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Sau đó một chính phủ liên hiệp sẽ cho người Mỹ rút quân khỏi Việt Nam mà không mất thể diện.
Nghị quyết nhấn mạnh rằng cuộc tổng công kích tổng nổi dậy lật đổ chính quyền là giai đoạn cuối cùng của kế hoạch, sau khi lực lượng vũ trang của Việt Nam Cộng Hoà đã bị đánh tan. Rõ ràng là quân miền Bắc bị cấm tổng công kích vào thành phố trước khi đánh tan quân đội miền Nam.
Chiến dịch Đông xuân 66-67 phải được tung ra ngay trước khi quân đội Mỹ thay đổi kế hoạch hành quân. Mục tiêu đặt ra là phải tiêu diệt từ 3 tới 5 lữ đoàn Hoa Kỳ, giết và làm bị thương 150 ngàn quân Mỹ, đánh tan từ 5 tới 7 sư đoàn Việt Nam Cộng Hoà, giải phóng, tức là chiếm giữ lãnh thổ với từ 5 triệu tới 8 triệu dân, chiếm Đông Hà, Quảng Trị, tấn công Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn.
Kế hoạch còn được duyệt đi duyệt lại vào tháng tư, tháng sáu năm 1967. Tướng Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng, không hài lòng với kế hoạch này. Ông phát biểu rằng càng xem xét càng thấy không ổn. Kế hoạch này cũng không khác gì kế hoạch trước đó, chỉ đặt mục tiêu cao hơn thôi. Thực tế chiến trường cho thấy không thể đạt được những mục tiêu này.
Bộ chính trị cũng không bằng lòng với kế hoạch trong nghị quyết. Tài liệu của Việt Nam cho biết bộ chính trị thấy không có cách nào đạt được chiến thắng quyết định trong năm 1968.
Bộ chính trị cho rằng sau hai năm chiến đấu, thực tế cho thấy việc tiêu diệt trọn một đơn vị Mỹ cấp đại đội hay tiểu đoàn cũng đã là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn.
Cái chết của Tướng Nguyễn Chí Thanh
Sáng sớm ngày mùng 6 tháng 7 năm 1967, trước giờ xuất phát để trở vào chiến trường miền Nam, tướng Nguyễn Chí Thanh bị triệu chứng tim tại nhà riêng, được đưa ngay vào quân y vịên 108, nhưng đến 9 giờ sáng hôm sau thì chết.
Cái chết của vị tướng tư lệnh chiến trường miền Nam khiến kế hoạch phải thay đổi, và người hăng hái nhận lãnh quyền chỉ huy đã sẵn sàng, đó là tướng Văn Tiến Dũng.
Tướng Dũng là cấp dưới trực tiếp của tướng Giáp trong cả chục năm, làm Tổng tham mưu trưởng duới quyền tổng tư lệnh của ông Giáp.
Hai người có nhiều khác biệt. Ông Giáp là người trí thức, xuất thân từ gia đình quan lại, trong khi ông Dũng thuộc gia đình nông dân, trình độ văn hoá chưa quá bậc tiểu học. Tướng Dũng có tham vọng thay thế tướng Giáp, và âm thầm thực hiện điều đó đã từ nhiều năm.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho một tờ báo Việt Nam năm 2004, ông Dũng cho biết lúc tướng Thanh chết ông đã tìm gặp riêng Tổng Bí thư Lê Duẩn, đề nghị thay đổi kế hoạch quân sự cho mìên Nam. Như vậy là ông Dũng đã qua mặt và hành động qua đầu ông Giáp, với người thích hợp nhất cho việc đó là ông Lê Duẩn.
Sau khi nghe ông Dũng trình bày, ông Duẩn bất ngờ phát biểu, vậy thì tại sao mình không đẩy thẳng kế hoạch lên giai đoạn tổng công kích tổng nổi dậy?
Ý kiến này đi nguợc với chỉ thị theo tình thần nghị quyết 13, đốt giai đoạn, nhảy qua hẳn mục tiêu đánh thiệt hại nặng quân Mỹ và đánh tan quân miền Nam, tiến ngay tới tổng công kích tổng nổi dậy. Nhưng tướng Dũng lập tức đồng ý, và ông Lê Duẩn soạn ngay chỉ thị quân uỷ Trung ương đệ trình ý kiến này cho bộ chính trị.
Ý kiến này cũng đề nghị tướng Dũng thay tướng Giáp trong chức vụ bí thư quân uỷ Trung ương.
Vì sao tướng Văn Tiến Dũng lại ủng hộ ý kiến đầy mạo hiểm ấy của ông Lê Duẩn? Tướng Giáp có mất quyền chỉ huy không? Ông Hồ Chí Minh quyết định ra sao? Trong một bài phát thanh sau này chúng tôi sẽ tường trình tiếp cùng quý vị bài thuyết trình của nhà nghiên cứu Merle Pribbenow, cựu chuyên viên của Cục tình báo Trung ương Hoa Kỳ. Mong quý vị đón nghe.
Việt Long,
phóng viên đài RFA
phóng viên đài RFA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét