Trong dòng văn học Xã hội Chủ nghĩa miền Bắc suốt hơn nửa thế kỷ, có một nhà thơ nổi lên chiếm giữ vai trò chủ đạo và trở thành hiện tượng.
Mặc Lâm, phóng viên đài RFA
Thơ của ông được giảng
dạy trong nhà trường các cấp. Các bài tham luận văn học của ông đọc trong các
cuộc hội thảo được xem là mẫu mực, và trên hết là vai trò lãnh đạo văn nghệ của
ông, một vị trí đã gây tranh luận gay gắt trong nhiều thập niên.
Mới đây, nhà nước loan
tin sự nghiệp văn chương của ông sẽ được trân trọng cất giữ và trưng bày cho
công chúng tham quan, và trong lời giới thiệu ấy người ta ghi rằng tên ông, nhà
thơ Tố Hữu, được đánh giá là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn, tiêu biểu nhất của
dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20, một lãnh đạo chủ chốt, khai sáng và có nhiều
tác phẩm đỉnh cao trong phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.
Có thể nói thơ của Tố
Hữu được người dân cả hai miền Nam Bắc thuộc nhiều hơn bất cứ một nhà thơ nào
khác. Tình hình ấy có phần là do tài năng của nhà thơ, nhưng cái chính là do
chủ trương sử dụng những bài thơ ấy trong mặt trận tuyên truyền. Người dân miền
Bắc biết thơ Tố Hữu từ khi mới bước chân vào trường học, và thuộc thơ ông qua
giờ học, qua các buổi sinh họat chính trị cũng như qua báo chí đủ loại. Thơ Tố
Hữu dai dẳng song hành với đời sống người dân ngày một nhiều hơn, nhất là khi
đảng cần vận dụng công sức của người dân trong các cuộc chiến.
Tuyên
truyền chống chế độ
Tại miền Nam , khi phong
trào sinh viên và Phật tử xuống đường dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm thì
bài thơ mang tên “Bầm ơi” của Tố Hữu đã âm thầm chuyền tay nhau xuất hiện trong
giới sinh viên tranh đấu.
Bầm ơi
Ai
về thăm mẹ quê ta
Chiều
nay có đứa con xa nhớ thầm…
Bầm
ơi có rét không bầm?
Heo
heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm
ra ruộng cấy bầm run
Chân
lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ
non bầm cấy mấy đon
Ruột
gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa
phùn ướt áo tứ thân
Mưa
bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu
Bầm
ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương
con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
Con
đi trăm núi ngàn khe
Chưa
bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con
đi đánh giặc mười năm
Chưa
bằng khó nhọc đời bầm Sáu mươi.
Con
ra tiền tuyến xa xôi
Yêu
bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền
Nhớ
thương con, bầm yên tâm nhé
Bầm
của con, mẹ Vệ quốc quân
Con
đi xa cũng như gần
Anh
em đồng chí quây quần là con
Bầm
yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm
quí con, bầm quí anh em
Bầm
ơi, liền khúc ruột mềm
Có
con có mẹ, còn thêm đồng bào
Con
đi mỗi bước gian lao
Xa
bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm!
Bao
bà cụ từ tâm như mẹ
Yêu
quí con như đẻ con ra
Cho
con nào áo nào quà
Cho
củi con sưởi, cho nhà con ngơi.
Con
đi, con lớn lên rồi
Chỉ
thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!
Nhớ
con, bầm nhé đừng buồn
Giặc
tan, con lại sớm hôm cùng bầm,
Mẹ
già tóc bạc hoa râm
Chiều
nay chắc cũng nghe thầm tiếng con…
Có những sinh viên
tranh đấu ở Huế, và cả ở Sài Gòn nữa hồi năm 1963 đã nghe và thuộc bài thơ này
mà không biết tác giả của nó là ai. Họ cất giấu và loan truyền bài thơ như một
thứ vũ khí chống lại chế độ mà họ cho là độc tài gia đình trị. Những người sinh
viên này không hề biết trước đó vài năm, tác giả bài thơ tình cảm chan chứa ấy
chính là người đã trực tiếp phát động phong trào trấn áp nhóm Nhân Văn Giai
Phẩm, và trực tiếp gây ra tai ương cho các thành viên trong nhóm từ Nguyễn Hữu
Đang, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Hữu Loan…, đẩy họ cùng nhiều văn nghệ sĩ
khác vào cảnh dở sống dở chết trong nhiều thập niên.
Dòng
thơ cách mạng
Thơ Tố Hữu được hầu
hết các nhà phê bình văn học miền Bắc coi là đại biểu của dòng văn học cách
mạng, là dòng văn học gắn bó hữu cơ với các cuộc đấu tranh do đảng Cộng Sản
Việt Nam phát động và lãnh đạo tại Việt Nam trong mấy chục năm liền. Cùng với
các bài nói và viết khác, thơ Tố Hữu vừa thể hiện đường lối văn nghệ của đảng,
lại vừa giám sát sự thực hiện đường lối ấy. Chúng có chức năng tuyên truyền và
cổ vũ cho chiến thắng hơn là sáng tạo từ cảm hứng mỹ học. Chính vì thế mà chúng
được guồng máy lãnh đạo đảng nhiệt thành hỗ trợ, và ca ngợi rằng thơ Tố Hữu
xứng đáng là thước đo tấm lòng yêu nước, yêu xã hội chủ nghĩa của một người làm
công tác văn nghệ. Họ cho rằng cái tố chất chủ yếu làm thành cái hay của thơ Tố
Hữu là lý tưởng cộng sản mà ông theo đuổi từ cuối những năm 1930, khi ông lãnh
đạo Đoàn Thanh Niên Dân Chủ ở Huế. Tuy nhiên, với những lão tướng của phong
trào Thơ Mới, thì một vấn đề được đặt ra, là phải chăng thơ Tố Hữu thoát thai
từ phong trào Thơ Mới? Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân kể lại:
“Vào năm 1959 thì ở
miền Bắc có một cuộc trao đổi đặc biệt là về mối quan hệ giữa cái dòng thơ cách
mạng và phong trào Thơ Mới. Có một ý kiến phải nói là đúng đắn của nhà thơ Xuân
Diệu, một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới thì ông khẳng
định rằng thơ Tố Hữu thoát thai từ phong trào Thơ Mới trước khi phong trào cách
mạng. Lúc đó dư luận của những nhà phê bình trong ban tuyên huấn mang tính chất
của hệ ý thức nhà cầm quyền nhiều hơn là văn học có thể nói phê Xuân Diệu rất
nặng và mạnh. Có lẽ nếu không phải nhờ uy tín của Xuân Diệu thì khó mà qua khỏi
cuộc phê phán đó.”
Dòng thơ được gọi là
cách mạng này thật ra đã được thai nghén rất sớm, từ những năm cuối thập niên
30, khi Tố Hữu nổi tiếng qua một bài thơ ngắn, gói ghém lý tưởng cách mạng rõ
rệt, khiến không ít thanh niên thời bấy giờ bị mê hoặc vì những hoa, những lá,
những nắng ấm đầu tiên của một luồng gió mới đang thổi vào quê hương lúc bấy
giờ đang lầm than tăm tối. Bài thơ “Từ ấy” có lẽ là tiếng chuông mạnh mẽ nhất
rung động được những trái tim khao khát độc lập và cũng từ ấy, Tố Hữu bước
thẳng vào dòng văn học được gọi là văn học cách mạng:
Từ ấy
Từ
ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt
trời chân lý chói qua tim
Hồn
tôi là một vườn hoa lá
Rất
đậm hương và rộn tiếng chim...
Tôi
buộc lòng tôi với mọi người
Để
tình trang trải với trăm nơi
Để
hồn tôi với bao hồn khổ
Gần
gũi nhau thêm mạnh khối đời
Tôi
đã là con của vạn nhà
Là
em của vạn kiếp phôi pha
Là
anh của vạn đầu em nhỏ
Không
áo cơm, cù bất cù bơ...
Tố Hữu cũng nổi tiếng
vì một bài thơ khác, đó là bài “Tiếng hát sông Hương”. Bài thơ này được các nhà
phê bình tuyên huấn cho là tuyệt tác nói lên mặt trái của xã hội tư bản bóc
lột, để suy ra rằng chỉ có cách mạng mới đủ khả năng giải thoát những mảnh đời
hèn mọn bị vùi dập không thương tiếc dưới dòng đời đen đúa. Bài thơ xuất hiện
đúng lúc cả dân tộc đang nổi trôi trong dòng chảy của nhiều thế lực muốn xâu xé
Việt Nam và từ ý thức được thân phận bèo bọt của mình, những cô gái bán hoa
trên dòng Hương Giang chợt thấy số phận mình đang dần thay đổi. Và con thuyền
rách nát của các cô như chấp cánh bởi những lời thơ mà nếu đọc hôm nay người ta
sẽ tự hỏi có lẽ nào như vậy được sao?
Tiếng hát sông Hương
Trên
dòng Hương Giang
Em
buông mái chèo
Trời
trong veo
Nước
trong veo
Em
buông mái chèo
Trên
dòng Hương Giang
Trăng
lên trăng đứng trăng tàn
Đời
em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng
Thuyền
em rách nát
Mà
em chưa chồng
Em
đi với chiếc thuyền không
Khi
mô vô bến rời dòng dâm ô!
Trời
ôi, em biết khi mô
Thân
em hết nhục giày vò năm canh
Tình
ôi gian dối là tình
Thuyền
em rách nát còn lành được không?
-
Răng không, cô gái trên sông
Ngày
mai cô sẽ từ trong tới ngoài
Thơm
như bông nhụy hoa lài
Sạch
như nước suối ban mai giữa rừng.
Ngày
mai gió mới ngàn phương
Sẽ
đưa cô tới một vườn đầy xuân
Ngày
mai trong nắng trắng ngần
Cô
thôi sống kiếp đày thân giang hồ
Ngày
mai bao lớp đời dơ
Sẽ
tan như đám mây mờ đêm nay
Cô
ơi tháng rộng ngày dài
Mở
lòng ra đón ngày mai huy hoàng
Trên
dòng Hương Giang…
Nhiều văn nghệ sĩ cho
rằng thơ Tố Hữu có giá trị nhất vào những năm trước cách mạng tháng tám và
những tập thơ càng về sau thì càng mất dấu hẳn trong trí nhớ người đọc. Nhà văn
Nguyên Ngọc, nguyên tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ cho biết nhận định của ông:
“Tôi thích thơ Tố Hữu
ở thời kỳ trước Cách Mạng Tháng Tám, thời đó thơ Tố Hữu rất hay, tác động rất
lớn đến đời sống của người dân, đời sống tư tưởng của người đọc. Có lẽ những
bài thơ người ta nhớ nhiều, để lại ấn tượng nhiều là những bài thơ trong thời
kỳ đó. Sau này Tố Hữu viết nhiều nhưng không có bài nào nằm trong trí nhớ của
người đọc nữa.
Tác giả
vụ án Nhân Văn Giai Phẩm
Tố Hữu là một trong
những nhà lãnh đạo hăng hái đưa “hiện thực XHCN” vào văn nghệ. Trong khi Trần
Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… phản đối đường lối này. Những người phản đối sau đó,
lần lượt dính vào một vụ án gọi là “Nhân Văn Giai Phẩm”. Vụ án này là một vết
thương không thể lành của nền văn học Việt nam. Những tài năng kiệt xuất một
thời lần lượt gãy cánh bởi những cuộc đấu tố rùng rợn mà người đứng sau chỉ đạo
cũng là một nhà thơ đang lớn tiếng cổ vũ cho con đường xây dựng một đời sống
được coi là công bằng, đầy lý tưởng của Xã hội nghĩa. Tố Hữu thẳng tay đàn áp
bạn bè văn nghệ của mình dưới chiêu bài bảo vệ dòng văn học “hiện thực xã hội
chủ nghĩa” và vinh quang đến với Tố Hữu sau những cuộc thanh trừng văn nghệ
này. Một điều rõ rệt và dễ hiểu là, càng làm lớn thì thơ Tố Hữu càng được các
nhà phê bình tuyên huấn tâng bốc nhiều hơn. Những lời khen này được nhà phê
bình Lại Nguyên Ân kể lại:
“Sau này ông là một
quan chức trong bộ máy, thậm chí là quan chức cao cấp thành thử giới phê bình
không thể khách quan, không kể những trường hợp khen rất phô…”
Không biết những lời
khen chói tai này có phải đã làm cho Tố Hữu ngày càng rơi sâu vào chiếc thùng
rỗng không đáy, đến nỗi đẩy ông vào những bài thơ mà khi đọc lên hình như người
ta có thể rợn người vì tính chất vô nhân của nó:
Cứ
xốc tới, cứ chảy máu, cứ rơi đầu
Mỗi
xác thây sẽ là một nhịp cầu
Cho
ta bước tới chân trời khát vọng
Kêu gọi hy sinh đến
như thế thì chỉ có Tố Hữu mới xứng danh một cõi. Đầu rơi, máu chảy của chính
nhân dân mình chứ có phải là chuyện giỡn chơi đâu sao nhà thơ lại tàn nhẫn làm
vậy?
Yêu
Stalin hơn tổ tiên
Câu chuyện nếu dừng
lại ở đây thì người ta có thể tin rằng nhà thơ tuyên truyền tư tuởng hiếu sát
với mục đích chiến thắng quân thù, và dù sao thì điều này cũng còn có thể hiểu
được. Tuy nhiên nếu ngưng lại ở đây thì có lẽ chưa hoàn thành chân dung Tố Hữu.
Chân dung nhà thơ còn thiếu một mảnh chính mới hoàn thành. Thiếu mảnh này hình
ảnh thật của ông trở thành nhợt nhạt và khó nhận ra vì dù sao thơ cách mạng
kháng chiến như ông cũng lắm người làm, nào là Quang Dũng, Hữu Loan, Hoàng Cầm,
Phùng Quán…Việc đấu tố bạn văn nghệ vì lý do này khác cũng đã được nhiều người
theo gót, nhưng yêu đắm yêu đuối Stalin đến nỗi hơn tổ tiên dòng giống thì khó
ai bì kịp nhà thơ của chúng ta.
Yêu
biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng
đầu lòng con gọi Stalin!
Hôm
qua loa thét vang đồng
Tiếng
loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng
trên xóm dưới xôn xao
Làm sao,
Ông đã... làm sao, mất rồi!
Những câu thơ này hình
như chưa đủ làm cho người nghe hôm nay bàng hoàng, vì vậy nhà thơ đã không ngần
ngại đem hết cật ruột của mình ra mà thương mà khóc…
Ông
Stalin ơi, Ông Stalin ơi!
Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười
Yêu con yêu nước yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!
Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười
Yêu con yêu nước yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!
Thật là khó để mà phân
tích cho rốt ráo, để mà hiểu được tại sao Tố Hữu lại làm những bài thơ đầy ấn
tượng như vậy. Nhà nghiên cứu văn học Vương Trí Nhàn tạm giải thích:
“Những năm ấy đời sống
tình cảm nó say ghê lắm, không phải riêng Tố Hữu đâu mà Chế Lan Viên, Xuân
Diệu, Tế Hanh đều như vậy cả…”
Tuy nói vậy nhưng nếu
nghe kỹ bài thơ ca tụng Mao Trạch Đông của Tế Hanh người ta vẫn thấy nhà thơ này
thua quá xa ‘thiên tài’ Tố Hữu..
Nhà thơ Xuân Sách có
lẽ là người tổng kết một cách xuất sắc nhất sự nghiệp của Tố Hữu. Chỉ bằng bốn
câu phỏng theo bài thơ Từ ấy của Tố Hữu, ông đã minh họa hết sức sinh động và
cay đắng chân dung một nhà thơ mà sự nghiệp được tạo nên không bằng tài năng
của thơ ca mà bằng những thứ khác, vừa phù phiếm vừa nhạt nhẽo và nhất là đầy
ắp máu xương người khác…
Từ
ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường hoa ở đây ….
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường hoa ở đây ….
Văn học Việt Nam sau
bao đổi thay nghiệt ngã của lịch sử vẫn ngơ ngác tự hỏi rằng, phải chăng dòng
văn học cách mạng hiện thực XHCN vẫn chưa hoàn thành vai trò của nó, sau khi Tố
Hữu đã vắt hết những gì được xem là tinh túy nhất của ông để mãi đến hôm nay,
mặc cho đất nước đã bước vào kỷ nguyên mới hòa nhập vào nền văn học thế giới mà
vẫn còn có người yêu thơ ông đến nỗi muốn lập cả viện bảo tàng cho những trang
thơ chứa đầy dấu hỏi này….
Ối Lành ơi hay... Bờm ơi? Ai đã từng đọc hai bài thơ ngắn cuối đời của ngài Lành thì hiểu ngay thôi (Bài "Đêm cuối năm" và "Màu tôi yêu" đó)
Trả lờiXóa