Bia mộ : Mao Trạch Đông và nạn đói khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại
Huỳnh Văn Úc
Đại nhảy vọt là cái tên đặt cho Kế hoạch 5 năm lần thứ hai 1958-1963 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ý tưởng kế hoạch này của Mao Trạch Đông là sự phát triển nhanh chóng và song song của nông nghiệp và công nghiệp Trung Quốc. Về nông nghiệp Mao chủ trương tập thể hóa một cách sâu rộng hơn, các hợp tác xã sẽ được sáp nhập thành các Công xã nhân dân khổng lồ. Quyền sở hữu đất đai được xóa bỏ hoàn toàn, thu nhập của nông dân được tính bằng công điểm. Mọi tài sản bất kể là thứ gì đều trở thành công hữu. Bếp núc của gia đình cũng bị xóa bỏ, đến bữa già trẻ lớn bé đưa nhau đến ăn ở nhà bếp của công xã. Ăn thật no, thật ngon, thật sạch, mỗi bữa có bốn món thức ăn. Vào cuối năm 1958 trong toàn quốc đã thành lập 25.000 công xã với qui mô mỗi công xã có 5.000 hộ gia đình. Về công nghiệp Mao xem sản xuất thép là cột trụ chính. Ông ta quy định rằng trong vòng 15 năm kể từ Đại nhảy vọt sản lượng thép của Trung Quốc sẽ vượt qua nước Anh. Thép được sản xuất ra từ sắt vụn như nồi, xoong, chảo, dao, rựa ở các lò nung thép sân vườn, người người nấu thép, nhà nhà nấu thép. Nông dân bỏ bê sản xuất nông nghiệp để nấu thép kiểu sân vườn. Để cung cấp nhiên liệu cho các lò nấu thép sân vườn cây rừng bị đốn chặt bừa bãi. Kể cả bàn ghế và đồ đạc bằng gỗ trong nhà đều quăng vào lò nấu thép.
Những chính sách sai lầm đó của Mao Trạch Đông đã dẫn đến nạn đói năm 1958-1961. Năng suất lúa giảm mặc dù những năm đó mưa thuận gió hòa. Thậm chí lúa chín không có người gặt vì số lớn lao động đã chuyển sang sản xuất thép. Bất kể tình hình sản xuất có bi đát đến đâu các quan chức vẫn báo cáo lên cấp trên những số liệu màu hồng với những con số ngày càng bị thổi phồng. Người ta bịa ra những cánh đồng cao sản mỗi hecta cho 300 tấn thóc, hoặc 187 tấn ngô, năm hay bảy nghìn tấn khoai. Mao Trạch Đông tin tưởng và vui mừng trước những con số đó đến nỗi thốt lên rằng lương thực của Trung Quốc đủ dùng cho tất cả mọi người trên trái đất. Những con số này trở thành căn cứ để nhà nước ấn định lượng thóc mà nông dân phải nộp. Các đội công tác được cử xuống nông thôn truy bức nông dân giao nộp lương thực, phát động mọi người tố giác lẫn nhau để khai báo những chỗ cất giấu. Sự khác biệt giữa con số thực tế và con số bị thổi phồng khiến cho nông dân không còn lại gì để nuôi sống bản thân và gia đình. Nạn đói xảy ra và ngày càng trở nên gay gắt. Lương thực thực phẩm cạn dần, bếp ăn của công xã không còn cơm để ăn nữa, chuyển sang ăn cháo. Hết cháo rồi đến rau dại. Rồi thì chẳng có gì mà ăn nữa, mạnh ai nấy lo. Giun dế, côn trùng, cỏ dại, lá cây, vỏ cây và cả đất thó đều trở thành thức ăn. Đến giữa năm 1959 khắp Trung Quốc đầy rẫy người chết đói, nhiều gia đình chết không còn một ai, tiếng oán hờn thấu tận trời xanh. Đói đến mức trước khi chôn người chết tang chủ đã lóc thịt thân nhân để ăn, đổi con cho nhau để giết thịt lấy cái ăn. Trong giai đoạn 1958-1961 số người chết đói được thống kê một cách chưa đầy đủ là 36 triệu người.
Dương Kế Thắng (sinh năm 1940) là phóng viên kỳ cựu của Tân Hoa Xã đã bỏ ra 15 năm để thu thập tài liệu và gặp gỡ nhiều nhân chứng để viết cuốn sách “ Bia Mộ” mô tả nạn đói kinh hoàng năm 1958-1961 mà cha ông là nạn nhân. Bị cấm ở đại lục nhưng tác phẩm được xuất bản ở Hồng Kông và chính quyền cũng không cản trở hay trấn áp tác giả. “ Cuốn sách này là bia mộ cho cha tôi bị chết đói vào năm 1959, bia mộ cho 36 triệu người dân Trung Quốc nạn nhân của trận đói kinh hoàng, bia mộ cho chế độ đã gây ra thảm kịch này”. Tác giả đã viết như thế trong lời nói đầu của bản dịch tiếng Pháp vừa được Nhà Xuất bản Seuil phát hành tại Paris ngày 13/9/2012. Nếu được góp ý kiến cho ông Dương Kế Thắng, tôi muốn ông ghi thêm vào lời nói đầu: “ Cuốn sách này còn là tấm bia ghi lại tội ác diệt chủng của Mao Trạch Đông đối với đồng loại”.
Bản tin của hãng thông tấn AFP và báo Le Monde:Gần 40 triệu người Trung Quốc đã bị chết đói, hậu quả của chiến dịch Đại nhảy vọt do Mao Trạch Đông đưa ra. Nhà báo kiêm nhà sử học Dương Kế Thằng (Yang Jisheng) đã bỏ ra 15 năm trời thu thập chứng cứ để viết ra tác phẩm « Bia mộ », tài liệu đầy đủ nhất từ trước đến nay về nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Sách đã được tái bản đến lần thứ tư tại Hồng Kông.
« Cuốn sách này là bia mộ cho cha tôi, bị chết đói vào năm 1959, bia mộ cho 36 triệu người dân Trung Quốc nạn nhân của trận đói, bia mộ cho chế độ đã gây ra thảm kịch này ». Tác giả đã viết như trên trong lời nói đầu của bản dịch tiếng Pháp vừa được nhà xuất bản Seuil phát hành tại Paris ngày 13/09/2012.
Sinh năm 1940, Dương Kế Thằng từng là phóng viên kỳ cựu của Tân Hoa Xã, và hiện nay là Phó tổng biên tập tạp chí Viêm Hoàng Xuân Thu (Yanhuang Chunqiu). Mười lăm năm điều tra trên thực địa, với hàng ngàn trang tài liệu tìm được ở địa phương và rất nhiều nhân chứng, tác giả đã thuật lại sự điên cuồng của việc cưỡng bức tập thể hóa.
Xã hội nông thôn bị phá hủy. Để nuôi sống thành thị, người ta đã để cho nông dân phải chết đói. Những thông tin sai lạc (thổi phồng sản lượng, che giấu những trường hợp chết vì đói) được báo cáo lên trên, dẫn đến các chỉ thị mù quáng. Không ai dám cảnh báo với Mao Trạch Đông về nạn đói, vì sợ bị quy là phản cách mạng.
Bắt đầu từ cuối năm 1958, đại họa đã lan tràn : nhiều ngôi làng hoàn toàn bị xóa tên vì dân làng đã chết đói hết, những trường hợp ăn thịt người nhân rộng, những người sống sót trở nên điên loạn. Bên cạnh nạn đói, là hàng loạt các vụ bạo lực, tự tử, nhiều ngàn trẻ em bị bỏ rơi.
…Một số trang sách khiến người ta nghĩ đến sự thinh lặng của một cái xác bị chết trôi. Tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, từ năm 1958 đến 1962, « vài chục triệu người đã biến khỏi thế giới này, không một tiếng động, không một tiếng thở dài, trong sự thờ ơ hoặc u mê ». Giống như là một cả một vùng đất lớn và dân cư trên đó đã bị đổ sụp thành vực sâu.
Thế nhưng không phải thiên tai hay chiến tranh đã gây ra cuộc thảm sát, để lại những người sống sót vật vờ, chỉ lo kéo dài sự sống, mà là nạn đói, một nạn đói khủng khiếp do những quyết định ngu xuẩn của lãnh đạo gây ra.
Từ năm 1958 tất cả phải vào hợp tác xã. Xoong nồi, bàn ghế đều bị trưng dụng, gà vịt cũng thế, không gia đình nào được tự sản xuất. Các bữa ăn được phân phối miễn phí tại các căng-tin được gọi là « điểm đấu tranh giai cấp ở nông thôn ». Chỉ trong vài tháng, sản lượng bị giảm sút thấy rõ. Một « làn sóng phóng đại » lan tràn, đưa đất nước vào cái vòng lẩn quẩn của dối trá. Sợ mất lòng cấp trên, mỗi cấp cơ sở lần lượt thổi phồng sản lượng, còn báo chí thi nhau ca ngợi các phép lạ. Một địa phương vượt kế hoạch ? Điển hình này luôn bị nơi khác vượt qua, một cuộc đua không có hồi kết.
Từ 1959, người ta tịch thu lúa má của nông dân, kể cả lúa giống, khi họ không còn gì nữa thì bị lên án là đã che giấu. « Tại một làng ở Hà Nam, không còn một hạt thóc nào, dân bắt đầu chết đói hàng loạt. Làng có 26.691 dân, và từ tháng 9/1959 đến tháng 6/1960, đã có 12.314 người chết, tức một phần ba dân số ».Tình trạng tương tự diễn ra ở khắp nơi và trong vòng nhiều tháng trời. Trong khi đó Nhà nước vẫn còn hàng chục triệu tấn ngũ cốc trong kho, và tiếp tục xuất khẩu ! Nhiều ngàn trường hợp ăn thịt người đã được ghi nhận trong tài liệu lưu trữ của các địa phương.
Thế mà tháng 8/1958, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc vẫn giao cho sáu cơ quan nghiên cứu giải quyết một đề tài - vô nghĩa một cách bi kịch – do Mao nêu ra trong chuyến viếng thăm Hà Bắc : Làm gì đây khi chúng ta có quá nhiều lúa mì ?
Trong vở hài kịch đáng xấu hổ này, Mao Trạch Đông đóng vai chính. Bị ám ảnh bởi cuộc đấu tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng, ông ta không hề quan tâm đến thực tế, nhất là khi nó chứng minh là Mao đã sai lầm. Tại hội nghị Lư Sơn tháng 7/1959, tất cả những ai phản đối lại chính sách của Mao đều bị bất ngờ tuyên bố là « phần tử cơ hội hữu khuynh » và bị loại trừ. Sau đó, thảm họa đói kém đã mặc sức lan tràn, các cán bộ cao cấp của Đảng đều phải im lặng.
« Bia mộ » (Mộ Bi trong nguyên tác tiếng Hoa) là công trình khảo cứu đầu tiên về đề tài này do một người Trung Quốc tiến hành. Bị cấm ở đại lục, nhưng tác phẩm được xuất bản ở Hồng Kông – chính quyền không cản trở cũng không trấn áp tác giả. Về mặt chính thức, thì Bắc Kinh nói là nạn đói do hạn hán gây ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét