Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

LINH HỒN


linhon02806
Bác sĩ Nguyễn Văn Bảo
Lời nói đầu
Linh hồn là điều ai cũng muốn biết và ai cũng  muốn tìm sách để đọc nhưng càng đọc càng mù mờ, càng không hiểu gì cả.
Những người viết về linh hồn (học giả, triết gia, khoa học gia) cũng chỉ nói lên phỏng đoán riêng của họ. Họ đưa ra những lập luận, những kinh nghiệm, những điều mắt thấy tai nghe hoặc những dữ kiện khoa học rồi cuối cùng đều kết luận rằng nó vẫn còn là một huyền bí. Khổng tử, một vỹ nhân mà đức tự trọng và lòng chân thật (honesty) được coi như ngàn đời gương mẫu thì lại né tránh; Ngài trả lời câu hỏi “ sau khi chết, linh hồn sẽ về đâu?” rằng: “việc sống ta còn lo chưa hết thì lo gì được việc chết”.
Phán xét của những giáo chủ (God hoặc sứ giả của God) về linh hồn thì vừa mơ hồ vừa phương hại cho nỗ lực tìm hiểu chân tướng của nó (ai tìm cách hiểu khác các Ngài thì sau khi chết sẽ bị đày xuống hỏa ngục). Đôi khi các giáo hội tự ý sáng tác ra số phận tương lai của linh hồn rồi chép vào kinh sách để tin đồ tưởng là lời của Giáo chủ. Các tín đồ, vì qúa lo sợ cho số phận của linh hồn, đành nhắm mắt tin tưởng mọi điều viết về nó trong kinh sách và tuyệt đối không dám cố gắng tìm hiểu thêm, dù họ giầu kiến thức và thừa thông minh (họ tự nhủ rằng thà tin sai còn hơn bị đày xuống hỏa ngục đời đời).
Kẻ viết bài này cũng mù tịt về linh hồn như mọi người nhưng lại tin rằng các vị giáo chủ và các giáo hội cũng mù tịt như hắn. Hắn không đơn độc mà đứng chung trong một nhóm chừng vài tỷ người (trong đó có những kẻ uyên bác gấp vạn lần hắn) đang bơ vơ trên đường tìm kiếm chân tướng của linh hồn. Nhóm người này tự nhận là vô tôn giáo. Người đời gọi chúng là phường vô đạo. Các tu sĩ gọi chúng là lũ vô thần. Kinh sách gọi chúng là những kẻ mất linh hồn hoặc bán rẻ linh hồn cho qủy dữ. Chúng có chung một đặc tính: ương ngạnh, bướng bỉnh, không thích những gì không thể chứng minh là thật. Trong bài này, hắn không dám đưa ta nhận xét cá nhân về linh hồn mà chỉ gom góp một số dữ kiện liên quan tới nó, coi như những yếu tố cần được hậu thế soi sáng thêm. Ngôn từ được dùng trong bài này sẽ hết sức bình thường, giản dị, sáng sủa, cố gắng hướng về cái chân tướng hơn là phô bày cái huyền bí của linh hồn. 

LINH HỒN

Từ ngữ: Để tránh lẫn lộn, trong bài này danh từ trí khôn sẽ được dùng riêng cho người sống và linh hồndùng cho người chết. Thiết tưởng từ ngữ không làm nên gía trị của lập luận.

I/  ĐỊNH NGHĨA TRÍ KHÔN THỂ XÁC và LINH HỒN (theo ý tác giả)
Trí khôn (một trong hai phần của con người) là phần vô hình, vô tướng, vô cảm giác (sẽ nói sau) nhưng lại thông minh và điều khiển mọi hoạt động của con người. Phần kia là thể xác, có hình, có tướng, có cảm giác, nhưng vô tri. Tất cả hoạt động của thể xác (trừ những hoạt động theo phản xạ tự nhiên) đều được điều khiển bởi trí khôn.
Cả hai phần đều có năng lượng (energy) và có một cuộc đời vô thường (nghĩa là có sinh, trưởng, lão, tử ).
Thể xác hiện hữu từ lúc trứng của người nữ hợp với tinh trùng của người nam (thời điểm chính xác củasinh), nghĩa là nó đã hiện hữu chín tháng mười ngày trước giờ được mẹ sinh ra. Nó trưởng thành (trưởng), già nua (lão) theo thời gian rồi thối rữa sau khi chết (tử).
Không ai biết chắc trí khôn sinh từ lúc nào; nói cách khác, thời điểm sinh của nó chưa được xác định (có lẽ một vài tháng sau khi thể xác lọt lòng mẹ, lúc đứa trẻ bắt đầu biết cười khi nhìn thấy người quen và biết khóc khi nhìn thấy người lạ...). Nó trưởng và lão cùng với thể xác nhưng không ai biết rõ nó tử bao lâu sau khi thể xác tử (một vài giờ? một vài ngày? một vài tháng? Một vài năm? Một vài chục năm? Một vài thế kỷ?... … tùy theo mỗi cá nhân).
Linh hồn hoặc hồn ma là trí khôn thoát ra ngoài thể xác sau khi thể xác tử. Sự hiện hữu của linh hồn tuy chưa được chứng minh bằng khoa học nhưng đã được chứng nghiệm bằng một số dữ kiện (sẽ được nói đến sau).

II/ TƯƠNG QUAN GIỮA LINH HỒN và THỂ XÁC
1/ Không có thể xác thì không có linh hồn
2/ Không có linh hồn thì thể xác chỉ là một con vật thấp hèn. Dăm con vật như con chó, con ngựa, con mèo…có đôi chút trí khôn nên có thể cũng có một linh hồn yếu đuối và chóng tử. Đại đa số những con vật ngu muội khác như con bò, con heo, con chim…có lẽ không có linh hồn. Đã nhiều người thấy ma chó, ma ngựa, ma mèo nhưng ít ai thấy ma heo, ma bò, ma chim. (Vì linh hồn của con người vẫn còn trong dấu hỏi nên bài này sẽ không bàn tới linh hồn của súc vật).
3/ Khi thể xác lành mạnh thì trí khôn minh mẫn; khi thể xác bịnh hoạn thì trí khôn bạc nhược. Từ đó người ta suy ra rằng linh hồn chịu rất nhiều ảnh hưởng của thể xác.
4/ Lao động chân tay giúp cho thể xác cường tráng và gián tiếp giúp cho trí khôn minh mẫn thêm. Lao động trí óc giúp cho trí khôn minh mẫn và gián tiếp giúp cho thể xác cường tráng thêm. Thực phẩm và tư tưởng cũng giúp cho thể xác và trí khôn tương tự như thế. Vậy thì lao động (chân tay, trí óc), thực phẩm, tư tưởng ắt cũng ảnh hưởng tới linh hồn. Điều này tuy chưa được chứng minh nhưng đã được chứng nghiệm.
5/ Mức thông minh của trí khôn tỷ lệ thuận với thể tích và số nếp cuộn của khối óc (phần quan trọng nhất của thể xác) nhưng chưa ai biết trí khôn được tạo ta bởi hợp chất gì. Từ đó người ta suy ra rằng sự hiện hữu, năng lực và sự trường cửu của của linh hồn cũng tỷ lệ thuận với thể tích và số nếp cuộn của khối óc. Điều này cũng đã được chứng nghiệm (không phải chứng minh).

III/  HỒN MA—GỌI HỒN
A/ Hồn Ma (hoặc ma):
Hồn ma là cái linh hồn vừa nói ở trên. Nó là một đề tài đã gây nhiều tranh cãi sôi nổi giữa nhiều người, trong nhiều thế kỷ.
Có người (các giáo chủ) ức đoán ra nó, gán cho nó một đời sống trường cửu, vô tận nơi thiên đàng, hỏa ngục (Thiên Chúa giáo), hoặc tái sinh trong cõi luân hồi (Phật giáo và Ấn giáo).  
Có người (khoa học gia, triết gia, học giả) suy luận ra nó, nghiên cứu về nó nhưng chưa xác định được chân tướng của nó.
Có người (những tín đồ) mặc nhiên chấp nhận cái số phận của linh hồn mà giáo chủ của họ đã định đoạt sẵn cho nó.
Có người (những người vô tôn giáo) không tin rằng có liên hệ chủ tớ giữa thần linh và linh hồn (họ cho rằng thần linh chỉ là linh hồn của các vĩ nhân nên linh lợi hơn và tồn tại lâu hơn). Những người này hiện đang chờ đợi những khám phá mới của khoa học về linh hồn.
Còn có người (kẻ vô thần) không tin có linh hồn, cho rằng trí khôn tan biến ngay sau khi thể xác tử.  
Hai năm trước đây, đức giáo hoàng Benedict 16 đã nói: “Không có hỏa ngục trong lòng đất và không có thiên đàng trong vòm trời”. Vậy thì Ngài đã mặc nhiên nhìn nhận rằng không có thiên đàng và hỏa ngục, hai nơi duy nhất để thưởng hoặc phạt linh hồn. Nói cách khác, Ngài đã vô tình phủ nhận linh hồn vì giáo lý Thiên Chúa giáo khẳng định không có linh hồn nào được phép lang thang bên ngoài thiên đàng và hỏa ngục mà hai nơi này Ngài lại cho rằng không có.
B/Gọi Hồn:
Gọi hồn là pháp thuật của những nhà ngoại cảm (psychic). Họ có thể gọi được linh hồn của những người qúa cố về để nói chuyện với thân nhân. Khoa học chưa chính thức giải mã (giải thích bí mật) được thuật gọi hồn. Có lẽ trí khôn của nhà ngoại cảm có cùng một tần số (frequency) với linh hồn của người chết nên thông cảm được với nó (đây chỉ là một kiểu ví von của Con Cò cho dễ hiểu, không phải một chứng minh). Nếu ví linh hồn như một tín hiệu (signal) bay trong không trung thì nhà ngoại cảm giống như một một cái TV bắt được signal đó vì hai bên có cùng tần số.
Thuật gọi hồn khởi thủy từ nhiều thế kỷ và rất phổ thông ở Á châu nhất là giữa những người theo Phật giáo và Ấn giáo. Sau này, khi nó được biểu diễn trước mặt những người trí thức theo Thiên Chúa giáo (kể cả những người Tây phương), những linh mục, những khoa học gia thì cái vẻ hoang đường của nó lu mờ dần, người ta thôi phủ nhận nó và bắt đầu tìm cách giải mã nó (giải thích bí mật của nó). Tiếc thay, khóng thể giải mã thuật gọi hồn khi chân tướng của linh hồn chưa được xác định (có lẽ phải chờ nhiều thế kỷ nữa).
Có một số nhà ngoại cảm bất chính, sau khi nói mò được vài điều xác thực về linh hồn mà họ gọi tới để tiếp chuyện thân chủ, thì nói tào lao để kiếm tiền. Họ dễ bị lộ tẩy nếu gặp một thân chủ khôn ngoan.
Nhưng nhiều nhà ngoại cảm đứng đắn đã cống hiến nhiều điều hữu ích sau đây:
1/ Hồn ma chỉ nói được qúa khứ, không có khả năng tiên đoán tương lai.
2/ Hồn ma không làm được phép lạ cho thân nhân, tỷ dụ như không báo trước hoặc ngăn ngừa được tai họa cho thân nhân. Nếu nó hiện diện lúc thân nhân gặp nạn thì nó có thể̀ hỗ trợ bằng một cách nào đó (như trong chuyện 1 mục C đoạn IV).
3/ Hồn ma có tốc độ phi thường (giống như signal có tốc độ của điện); tỷ dụ như đang hiện diện ở chỗ tai nạn xảy ra thì chỉ vài giây sau là có thể hiện diện ở một nơì khác cách xa ngàn dặm để báo mộng cho thân nhân (như trong chuyện 1 mục C đoạn IV)
4/ Hồn ma lương thiện không làm chuyện phi pháp như không mách nước cho thân nhân xâm phạm tài sản và danh dự của người khác hoặc giúp thày phù thủy đánh cắp tiền để làm giầu cho chính mình (xin xem những chuyện trong mục B đoạn IV). Hồn ma bất lương thường làm chuyện ác như bùa, yểm, ếm…của dân thiểu số miền thượng du.
5/ Hồn ma tỏ ra không thông minh hoặc hiểu biết hơn con người thực của nó lúc còn sinh thời (đã nói qua trong hai đoạn I và II). Tỷ dụ 1: nếu một người sống trong thời chưa có computer thì hồn ma của người đó không biết gì về computer. Tỷ dụ 2: nếu lúc sinh thời, một người là bác sĩ thì hồn ma của ngườì đó chỉ biết rành rẽ về y học chứ không biết nhiều về các lãnh vực khác.
6/ Tính tình và hạnh kiểm của hồn ma giống hệt tính tình và hạnh kiểm của chủ nó lúc sinh thời (người mà thân xác đã chết và trí khôn biến thành hồn ma), nghĩa là linh hồn chỉ là một đoạn đời kéo dài thêm của trí khôn sau khi thể xác chết. Tinh tình, hạnh kiểm, kiến thức của chủ nó cho tới lúc lâm chung thế nào thì hồn ma bây giờ vẫn nguyên vẹn như vậy, không lụt đi, không tiến bộ thêm. Quan niệm của hồn ma về thần linh và tôn giáo cũng ở cái mức mà chủ nó có trước khi chết.
Có một thân chủ nghe hồn mẹ (được nhà ngoại cảm gọi về) phàn nàn rằng mồ của bà hiện chôn ở một nơi ô uế nên bà không vui. Người thân chủ này (đã sẵn có đức tin do ông cha truyền thụ rằng linh hồn của người chết giống như một thứ thần linh) bèn thừa nhận rằng xương cốt, mồ mả của cha mẹ là những thứ thiêng liêng mà đạo giáo đã quy định phải được tuyệt đối gìn giữ, tôn thờ. Rồi từ quan niệm sai lầm đó, kết luận rằng hỏa táng là thiêu hủy di vật thiêng liêng của cha mẹ và có thể tổn thương linh hồn của cha mẹ. Thực ra mức hiểu biết của linh hồn của mẹ hắn cũng hạn chế như mức hiểu biết của chính hắn. Lúc sinh thời bà ước nguyện rằng sau khi chết bà sẽ được an táng ở nơi cao ráo mà nay không được như ý nên linh hồn của bà không vui. Giản dị thế thôi. Nhưng những kẻ ngoại cảm lưu manh lợi dụng cơ hội này, bịa thêm rằng linh hồn mẹ đang đau khổ và khuyên thân chủ thuê hắn giải khổ cho mẹ. Thực ra chỉ thể xác mới có cảm giác đau đớn (do roi vọt, bịnh  hoạn..). Trí khôn không có cái đau đớn ấy (khoa học đã giải thích như vậy). Vậy thì tất nhiên linh hồn cũng không có cái đau đớn ấy (những nhà ngoại cảm chân chính đã quan sát như vậy). Lời nói của một số người đã chết và sống lại sau một thời gian ngắn, cũng khẳng định như vậy (như trường hợp hy hữu của bà Anita Morjani sẽ trình bày ở mục (D) của đoạn IV dưới đây).
7/ Những người qúa già nua và tinh thần qúa suy nhược thì có lẽ linh hồn tan biến ngay sau khi chết (giống như trường hợp của những con vật thấp kém). Nếu còn tồn tại thì nó cũng yếu đuối tới độ không hiển linh được. Tôi chưa hề nghe ai kể đã gọi được hồn của những người mắc bịnh Alzheimer trước khi chết. Điều này khiến tôi liên tưởng đến những hiện tượng mà tôi vừa kể ở mục (6) ngay trên đây.
Ghost 344209c
Vậy hồn ma là gì? Hãy tạm gác quan niệm của các giáo chủ vì nó qúa thô sơ và không phù hợp với khoa học. Hiểu biết của các bác học tuy còn dở dang nhưng có nhiều hứa hẹn. Hãy tạm thời chấp nhận rằng linh hồn hiện hữu (sẽ liệt kê một số dữ kiện ở cuối bài này để bênh vực cho sự hiện hữu của linh hồn) rồi thử suy luận từ khởi điểm này. Lúc hiện hình là lúc nó biểu dương (perform). Perform được thì ắt có energy (năng lượng). Có energy (e) thì phải có mass (m) và có tốc độ (v) vì energy tỷ lệ với mass và bình phương tốc độ theo công thức:  e=m x v2. Từ đó suy thêm ra rằng vì có mass nên nó phải chịu sức hút (attraction) của trái đất cho nên nó quanh quần ở cõi trần mà không bị tan loãng vào không gian. Hễ sài năng lượng thì năng lượng ấy phải tiêu hao dần cho tới hết, tức là nó phải chết (tử) chứ không
sống đời đời vô tận như các giáo chủ nghĩ. Bình thường thì nó ở thế nghỉ (hibernate), không hình bóng, màu sắc, tiếng động. Khi hiển linh thì nó phải tiêu nhiều năng lượng hơn và sẽ mau tàn lụi (tử) hơn. Nó có tốc độ của signal (tốc độ của điện) nên hầu như có thể xuất hiện ở hai nơi cách xa nhau ngàn dặm cùng một lúc. Đây là cách tôi dựa vào khoa học mà suy luận, không bảo đảm là đúng. Việc đầu tiên và quan trọng nhất của các khoa học gia là tìm ra chân tướng của linh hồn (Nó được tạo ra bởi hợp chất nào? Nó có thể thoát ra ngoài thể xác trong giấc ngủ hay không? Nếu nó thoát ra ngoài được thì mechanism nào giúp nó lập tức trở về thể xác khi con người tỉnh ngủ? Trả lời được ba câu hỏi này thì chân tướng của nó sẽ sáng tỏ và đương nhiên biết được rằng nó tồn tại hữu hạn trên địa cầu). Rồi từ đó mới đi các bước kế tiếp chứ không nhắm mắt nói đại như các vị giáo chủ. Suy luận của tôi, tuy không phải là nói đại, nói bừa nhưng đi ngược từ ngọn xuống gốc (không phải từ gốc lên ngọn như những khoa học gia). Nhược điểm của tôi là cái gốc (cái chân tướng của linh hồn) vẫn chưa biết nên đành chấp nhận cái ngọn (sự hiện hữu của nó) để coi nó diễn tuồng (perform).  

IV/  NHỮNG DỮ KIỆN LIÊN QUAN TỚI LINH HỒN
Chú Thích:  Đoạn này không bình luận về quan điểm của các nhóm người đã phát biểu về linh hồn mà chỉ đưa ta một số dữ kiện liên quan tới nó, tuy không đễ tin, nhưng rất khó bác bỏ:
A/  Những Chuyện Do Thế Gian Kể:
Phần lớn những chuyện này được dàn dựng tinh vi đến độ hoàn toàn chinh phục được người nghe nhưng đàng sau chúng là những mục tiêu mờ ám, tư cách của người kể cũng không minh bạch.
Có những chuyện được các giáo hội chép vào kinh sách nhưng sau này đã bị giải mật như chuyện tái sinh. Chuyện kể rằng có một số em bé dưới mười tuổi nhớ lại kiếp trước đã là ông A, bà B với tên, họ, nghề nghiệp và địa chỉ rành rẽ nhưng khi truy ra thì những người đó đã chết qúa lâu hoặc đã đổi địa chỉ nhiều năm trước khi họ chết nên không thể nào kiểm chứng được. Trong một vài trường hợp, tuy có thể  kiểm chứng tin tức nhưng sự việc chỉ là hiện tượng thần đồng (có lẽ trí khôn của thần đồng này có chung tần số của vài người quá cố nên biết hết những bí mật của họ). Thần đồng cũng là một hiện tượng cần được các bác học giải mã. Quan niệm về linh hồn đã đi qúa xa trong thuyết tái sinh của Ấn giáo và thuyếtluân hồi của Phật giáo.
Có một số chuyện lặt vặt về linh hồn rất hấp dẫn nhưng tác gỉa của chúng qúa xa lạ với mọi người nên không thể nhắm mắt mà tin được.
Phép lạ, nếu có thật, chỉ là hoạt động của linh hồn của các vị giáo chủ hoặc của các vị thánh trong giáo hội. Phía sau phép lạ là một dàn dựng tinh vi với mục tiêu truyền đạo.
Để hậu thuẫn cho sự hiện hữu của linh hồn, không cần kể hàng ngàn chuyện ma đã thực sự xảy ra lâu năm trên thế giới, chỉ cần kể một chuyện vừa xảy ra trong nước Mỹ và một chuyện vẫn còn đang tiếp diễn ngay sát nách thủ đô Washington DC:
1/ Hồn ma chỉ đường cho cảnh sát bắt phạm nhân:
Năm ngoái, một cảnh sát viên gốc da trắng (có tên, tuổi, chức vụ, nhiệm sở rõ ràng) báo cáo rằng anh đã thấy hồn ma của một cô gái gốc Á châu hướng dẫn anh tìm ra thủ phạm đã lái xe đụng cô chết trong parking lot của một shopping center giữa đêm khuya vắng người. Khi anh tới hiện trường thì cô gái đã chết. Nhân chứng duy nhất chỉ là một ông gìa mắt kém. Ông chỉ nhìn thấy cái xe SUV màu xanh đã đụng chết cô gái rồi bỏ chạy nhưng không thấy rõ bất cứ số nào trên bảng số xe. Trên đường hộ tống xác của cô gái về bệnh viện, anh đột nhiên thấy bóng dáng cô bé trỗi dậy từ xe ambulance rồi ẩn hiện trước mũi xe của anh và ra dấu cho anh theo một lối đi riêng. Anh kiên nhẫn lái xe theo từng chỉ dẫn của bóng ma. Tới khi bóng ma ra hiệu cho anh dừng lại thì anh chợt thấy anh đang đậu xe trong parking lot của một khu apparment, bên cạnh một xe SUV màu xanh giống như lời ông già nhân chứng vừa kể. Quan sát kỹ, anh thấy xe này bị móp ở góc phải của front bumper và có một vết máu tươi còn dính ở đó. Anh bèn kêu thêm một đồng nghiệp tới để bắt đầu điều tra. Cuối cùng họ tóm được thủ phạm (một người mà nồng độ rượu trong máu lúc bị bắt còn cao gấp đôi nồng độ tối đa cho phép lái xe). Người này đã thú nhận tội tông chết cô gái lúc y say rượu. Tuy chỉ là một kinh nghiệm đơn độc nhưng trường hợp này có giá trị khá cao vì đây là báo cáo vô tư của một nhân viên tư pháp.
2/  Lũ ma trong rạp hát Stratmore:
Rạp hát Stratmore, một rạp hát rất lớn và tráng lệ thuộc tiểu bang Maryland, nằm khoảng 3 miles phía bắc của đường belt 495 của thủ đô  Washington DC, mới xây xong vào đầu năm 2010, là nơi chứa một số hồn ma không rõ số lượng. Chúng xuất hiện ban đêm hàng tuần và thường trêu chọc những nhân viên quyét dọn xuất tối như bất thần bật và tắt đèn, đóng và mở cửa, di chuyển bình hoa, chạy rầm rầm trên các tầng lầu…Ông supervisor của họ có lần nghe một hồn ma huýt sáo thẳng vào lỗ tai của mình. Ban giám đốc phải tăng gấp đôi số nhân viên quét dọn ban đêm và cho phép họ làm việc tập thể từng phòng cho đỡ sợ. Trung tâm rất lớn mà không thể mắc được hệ thống alarm system vì có qúa nhiều unexpected moving shadows gây fault alarms. (Ký gỉa nào muốn điều tra hư thực thì cứ liên lạc với ban giám đốc rạp hát này).
B/ Những Chuyện Do Những Người Thân Của Tác Giả Bài Này Kể:
Dưới đây là những chuyện về thuật sai khiến hồn ma của một gã phù thủy. Nhân chứng là những người có uy tín trong huyện.  7 trong số những người nhận được bài này là con cháu của họ.
hoalu012806
Hình: Hoa Lư, thủ đô của nước Đại Cồ Việt vào những năm 968 cho đến 1009 dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng, ở làng Trườnmg Yên, Ninh Bình

Vào cuối thập niên 1930, làng tôi, làng Yên Ninh, thủ phủ của huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình có một gã tên là Chung. Gã đi lính khố đỏ cho Pháp và đóng ở Lào 20 nên học được thuật điều khiển hồn ma. Gã hưu trí ở tuổi 40 và trở về làng, sống bằng nghề phù thủy. Gã không có một cấp bậc gì trên cấp binh nhì nên người làng gọi gã là binh Chung và khi có việc làng thì được phép ngồi chung chiếu với trương tuần. Gã là thày phù thủy danh tiếng nhất của lịch sử huyện nên được hàng ngàn người trong huyện ngưỡng mộ, nhất là phép điều khiển hồn ma. Lúc đó tôi là một cậu bé từ 6 tới 9 tuổi và hễ có dịp thì đứng trố mắt xem hắn trổ tài. Tôi không hiểu mấy nhưng sau này tham khảo cha, bác Ấn, các ông anh họ (ô.ô. cai Hỗ, tổng Phả,  chánh Thăng, và hai ông anh ruột hơn tôi từ 14 đến 18 tuổi (anh Điều, anh Hồng)  thì tôi hiểu rất thấu đáo những phép thuật của gã (phần nhiều là những phép mua vui theo yêu cầu của các vị chức sắc cao niên kể trên, một vài thuật được tôi nhìn tận mắt lúc thơ ấu). Dưới đây là 8 phép sai khiến hồn ma (chứ không phải ảo thuât) vẫn còn được nhắc tới trong huyện cho tới ngày nay:
1/  Đánh cắp xôi gà
Màn này diễn ra tại nhà tôi trước mặt các ông Thăng, Hỗ, Ấn và cha mẹ tôi cùng mấy gia nhân hiếu kỳ. Năm người đang ngồi uống trà thì binh Chung bước vào (từ nhà bà ngoại tôi cách nhà tôi chừng nửa cây số). Một người trong nhóm nói rỡn: “Bọn tớ đang đói, chú Chung có món gì lấy cắp cho chúng tớ ăn chơi hay không?” Binh Chung nhanh nhẩu đáp: “Có ngay.” Rồi mượn một cái mâm đồng trên có hai cái đĩa lớn trống không. Gã lấy cái lồng bàn bằng lưới úp lên rồi phủ kín tất cả bằng một mảnh vải đỏ rộng cỡ một thước vuông và để trong một góc phòng trước mắt mọi người. Gã lẩm bẩm những câu thần chú mà không ai hiểu gì cả. Tới lúc mảnh vải di động như bị gió nhẹ thổi thì gã bảo tên đầy tớ gỡ vải phủ ra và nhấc lồng bàn lên: một đĩa đầy xôi và một đĩa đựng cái tỏi gà luộc hiện ra. Mọi người (trừ gã) ăn thoải mái. Không bao giờ gã dám ăn những món mà gã đã sai hồn ma đánh cắp (sẽ nói trong mục tâm sự của gã).
Chừng một giờ sau bà ngoại tới, mặt hầm hầm, chỉ ngón tay vào mặt gã mắng: “Thằng qủy, xôi và gà tao cất trong chạn đồ ăn. Chỉ có mày biết mà đã biến mất. Muốn sống thì trả ngay cho bà”. Mọi người đứng dậy xin lỗi bà ngoại và tất cả đều cười xòa.
Có một chi tiết quan trọng cần nói ra đây liên quan đến tất cả những phép sai khiến hồn ma của gã: muốn thành công, gã cần hai điều kiện: gã phải nhìn thấy món đồ để ở chỗ nào trước khi gã biểu diễn tài nghệ và món đồ đó không được rờì đi chỗ khác cho tới lúc gã làm phép.
2/  Bắt rắn
Thuật này gã biểu diễn ở nhà anh Hồng. Gã ngồi niệm thần chú trước một chậu xành rỗng không và phủ vải đỏ (gã luôn luôn dùng vải đỏ. Nếu không mang sẵn vải đỏ thì có thể dùng vải đỏ của chủ nhà, miễn là vải phải màu đỏ). Một lát, gã mở vải ra thì đã có một con rắn ráo dài hơn một thước nằm trong chậu. Gã lôi nó ra cho mọi người chơi thoải mái vì nó đã bị bẻ gãy hết răng.
Thì ra trước đó gã đã nhìn thấy con rắn nằm ngủ ngoài khóm tre gần nhà và lúc gã làm phép thì nó chưa bò đi nơi khác.
3/  Bẻ trộm buồng cau
Màn này gã biểu diễn ở nhà ông hội Phác. Sáu tháng trước đó vợ gã chết mà không đủ tiền mua quan tài. Gã vay tiền từ mẹ của ông Phác (dân làng gọi là bà Phác già) để mai táng vợ. Hôm đó gã đem tiền đến trả cả vốn lẫn lời. Bà Phác gìa gỉa bộ mắng: Mày trả nợ mà không mang theo lễ vật sao? Gã liền thọc tay vào phía trong áo choàng, lúng túng chừng dăm phút, miệng lẩm bẩm thần chú. Sau đó lôi ra một nhánh cau chừng hai chục qủa làm lễ vật. Đầu nhánh cau còn chảy mủ trắng như sữa. Bà Phác sinh nghi, nhìn lên cây cau nhà mình thì thấy buồng cau vừa bị bẻ trộm mất một nhánh.
Không cần phải tả bà Phác mắng vốn gã ra sao. 
4/  Tìm khách chơi bài
Chuyện xảy ra ở nhà ông cai Hỗ. Ông Hỗ, ông Phả, ông Khắc và bố tôi đang ngồi nói chuyện thì binh Chung bước vào. Ông Hỗ nói: “Chúng tôi muốn đánh tổ tôm mà thiếu một chân. Chú tìm giùm ông chánh Thăng tới được không?”
Binh Chung trả lời: “Để tôi thử. Nếu ông Thăng hiện đang ở nhà thì tôi mời được. Nếu ông ta đi vắng thì âm binh của tôi không thể biết ở đâu mà tìm”.
Đoạn gã ngồi nhắm mắt niệm thần chú như mọi khi chừng dăm phút rồi bảo bốn ông ngồi chờ. Chừng hai mươi phút sau thì thấy ông Thăng lững thững bước vào. Được hỏi tại sao thì ông Thăng trả lời rằng: “Tôi đang ngồi một mình thì bỗng thấy trong người bồn chồn khó chịu, bèn ra khỏi nhà đi rong chơi. Chân cứ bước vô định như thể có người xui khiến tới đây chứ thật tình tôi không biết các ông đang ở đây.
5/  Trừng trị kẻ lường gạt
Ông từ Lực (từ là chức vụ của người trông coi đền hoặc miếu) là người trông coi miếu Thượng ở đầu làng. Ông này giữ giùm đồ phi pháp của một tên trộm người huyện Yên Mô gồm mâm đồng, nồi đồng, chậu thau, bát đĩa cổ. Ông manh tâm đem bán đi rồi bảo tên trộm rằng sợ quan phủ truy tố nên thủ tiêu đi rồi. Tên trộm ức qúa bèn nhờ binh Chung trả thù. Sự việc diễn tiến trong miếu Thượng như sau: Bát hương trong chinh tẩm thì tự nhiên di ra bàn thờ phòng ngoài còn bát hương của phòng ngoài thì đặt ở bờ rào. Tượng thần thì bị xoay lưng ra ngoài. Chuông trống thì vứt lủng củng ngoài sân. Cứ như thế nhiều lần nên từ Lực bị làng khiển trách nặng nề. Lý trưởng hỏi binh Chung có thù oán gì với ông Lực hay không thì gã trả lời xuông rằng không. Ông từ Lực bèn bị đuổi việc nhưng tai vạ của ông chưa rứt. Vải trên giường cửi nhà ông tự dưng bị cắt đứt ngang sát go. Nồi cơm mở ra thi đầy một nồi nòng nọc. Cô con gái chưa chồng 17 tuổi đang ngồi dệt vải bỗng dưng nghe thấy ếch kêu bên vú bên phải; lấy tay rờ vú phải thì ếch lại kêu bên vú trái. Cuối cùng ông Lực phải đem tiền trả lại tên trộm và năn nỉ binh Chung tha. Làng biết chuyên này cũng cho phép ông Lực trở lại chức từ của miếu Thượng. Đây là phép duy nhất của binh Chung liên hệ tới ân oán.
6/  Nấu rượu
Phép này đông người coi nhất và được làm ở nhà ông thơ Kiểm. Gã lấy một cái chai không và một cái chai đầy nước mưa rồi lấy một sợi chỉ hồng nối hai chai, mỗi đầu chỉ thọc vào miệng của mỗi chai. Một mảnh vải đỏ phủ kín hai chai như từng được phủ trong các lần trước. Hắn cũng ngồi niệm thần chú như mọi lần cho đến khi mọi người ngửi thấy mùi rượu thì mở vải đỏ ra. Chai không thì bây giờ đầy rượu còn chai nước lạnh thì lại rỗng không. Mấy gã con trai được một chầu rượu miễn phí.  Hôm sau anh chàng bán rượu ở đầu làng phàn nàn rằng một chai rượu của anh tự nhiên biến thành nước lã.
7/  Di chuyển cây hoa lài
Một người làng Yên Ninh, bạn thân với binh Chung, một hôm nổi hứng thách gã đánh cây hoa lài từ vườn trước sang vườn sau (đánh là một từ của miền Bắc Việt có nghĩa là di chuyển một vật nặng như đánh xe, đánh cây). Gã do dự một chút rồi bảo người bạn chờ tới một đêm không trăng, tối trời để dễ dàng cho âm binh làm việc. Quả nhiên, sau một đêm tối trời anh bạn tỉnh dậy thấy cây hoa đã được di chuyển sang vườn sau nhà. Vợ anh này không vui lòng, tới phàn nàn thì gã lại chờ một hôm tối trời khác, đánh cây hoa về chỗ cũ. Điều đặc biệt là kỹ thuật đánh cây của âm binh điêu luyện hơn kỹ thuật của người trần tục nhiều, rễ cây không bị tổn thương nên cây vẫn xanh tươi nbư trước.
8/  Mượn tạm đôi dép
Một hôm các ông Hỗ, Khắc, Phả, Thăng, Hồng và bố tôi đang ngồi gẫu chuyện với gã thì ông Thăng thách gã lấy được đôi dép ông đang đi. Đôi dép ấy kiểu cổ, giống như dép đàn bà, chỉ có da che phía mũi dép nghĩa là chỉ che được năm ngón chân. Gã đặt điều kiện rằng ông Thăng không được chuyển chỗ ngồi nhưng được quyền sỏ hai chân vào dép. Nói xong gã ra khỏi nhà. Chừng, năm sáu người ngồi trung quanh, chăm chú nhìn vào hai chân của ông Thăng. Một lúc sau, ông Thăng phàn nàn rằng hai chân ông buồn bực đến độ ông cần phải thu chân lên mặt ghế. Mọi người đồng ý, bảo rằng họ sẽ chuẩn bị hành động để̀ giữ đôi dép. Âm binh chỉ chờ có thế. Ông Thăng vừa thu chân lên ghế thì đôi dép nhúc nhíc rồi lết thật nhanh. Có một thanh niên nhào tới vồ nhưng không kịp. Đôi dép lướt nhanh ra hàng rào rồi biến mất. Thuật này các cụ thích nhất vì họ mục kích âm binh cướp đôi dép chứ không giống như những lần mà sự việc diễn ra bên dưới tấm vải đỏ.
9/ Một việc gã làm không nổi:
Có một lần quan huyện kêu gã tới giúp tìm thủ phạm của vụ một cướp trong huyện nhưng gã lễ phép thưa rằng âm binh chưa thấy mặt bọn cướp lần nào và đồ̀ vật bị cướp cũng rất xa lạ với chúng nên chúng làm không nổi. Sau này gã vẫn tiếc rằng quan huyện chỉ nhờ một lần duy nhất mà gã làm không nổi. Gã rất mong giúp được quan một lần.
Tâm sự cua gã phù thủy
Tuy gã không vô cớ làm hại ai và không ai thưa gã lên huyện đường nhưng vì gã qúa nổi tiếng nên quan huyện, vì an ninh địa phương, đã vài lần kêu gã lên huyện chất vấn. Ông tổng Phả, anh họ của tôi, lúc đó làm lý trưởng, đã che chở cho gã trước mặt quan nên gã đã rất thành thực trả lời những câu hỏi tò mò của ông. Sau đây là ý chính của các câu trả lời:
a/ Có nhiều hồn ma gã không xử dụng được, thậm chí không nhìn thấy. Gã nói là gã không có “duyên” với chúng. (Tôi nghĩ rằng có lẽ giữa gã và những hồn ma ấy khác tần số).
b/ Đối với những hồn ma mà gã xử dụng được, chúng không thuộc quyền sở̉ hữu của gã mà chỉ là bạn cõi âm của gã, đa số rất ham chơi, nghịch ngợm.
c/ Chúng hiện hữu như một xã hội vô hình, kẻ nọ không đụng chạm kẻ kia, tuyệt đối không có nhu cầu vật chất nên gã không cần phải cúng kiếng chúng.
d/ Có đủ mọi loại ma, gã muốn làm việc nào thì thỉnh loại ma phù hợp với việc ấy.
e/ Tuyệt đối không được dùng bùa phép để phục vụ cá nhân hoặc gia đình mình. Vì vậy gã không bao giờ dám ăn, uống những món mà hồn ma đánh cắp về.
f/ Tuyệt đối không được dùng phép lấy tiền bạc hoặc nữ trang để dùng vào bất cứ việc gì. Vi phạm điều (e) và (f) sẽ bị ma trừng trị nghiêm khắc, có thể bị dìm nước đến chết. Lấy tiền và nữ trang để mua vui thì được nhưng phải hoàn trả cho chủ cũ trong ngày.
g/ Lấy món ăn đã nấu chín để đãi khách thì được nhưng không được lấy đồ ăn sống như gạo, đậu…với số lượng nhiều làm cho khổ chủ nghèo đi. Hỏi tại sao? Gã trả lời vắn tắt rằng sư phụ của gã căn dặn như thế.
h/ Có thể dùng phép thuật để̀ trả đũa trong những vụ bị lường gạt nhưng không được dùng để tấn công vô cớ.
i/ Nếu phạm pháp và bị tống giam thì không được phép dùng thuật để vượt ngục.
j/ Đã có lần gã đụng tới miếu, nhưng chưa bao giờ gã đụng tới chùa. Gã giải thích rằng vì mẹ gã là phật tử trung thành nên gã đặc biệt tôn trọng chùa.
C/ Những Chuyện Do Chính Tác Gỉa Bài Này Mục Kích:
Tôi chưa bao giờ trực tiếp thấy hồn ma trong đời kể̀ từ năm lên mười (nghĩa là sau khi binh Chung chết) nhưng từ 12 năm rưỡi nay đã gặp sáu việc lạ mà chỉ có sự hiện hữu của hồn ma mới gỉai thích nổi. Chuyện số 1 dưới đây kể về hồn ma của đứa con gái cả của tôi, Nguyễn Thị Trâm (làm nghề real estate và chết vì liver cancer năm 1999 ở tuổi 44). 5 chuyện sau kể về hồn ma của đứa con trai thứ sáu của tôi, Nguyễn Tiến Đức (orthopedist, cũng chết vì liver cancer năm 2009 ở tuổi 45). Cả hai đứa đều ra đi ở giai đoạn tươi sáng nhất của đời chúng. Kinh nghiệm của thế gian cho biết hồn ma của những người chết trong lúc đang yêu đời tha thiết như vậy rất linh thiêng. Quan niệm của Đức về tôn giáo và linh hồn rất giống quan niệm của tôi nên tôi rất mong nó trực tiếp hiện về với tôi.
1/  Hồn ma của chị báo mộng cho em lúc bố me đụng xe
Vào một ngày của tháng 11 năm 2000, tôi lái xe chở vợ từ nhiệm sở là một state hospital (ở 70 miles phía nam của Indianapolis) đi Washington DC để lo việc ăn hỏi của đứa con trai thứ 5. Sáng hôm đó tôi còn phải chở vợ chồng bs Phạm Gia Thiệu tới phi trường Indianapolis để đáp chuyến phi cơ lúc 5AM về thăm mẹ ở LA California. Chúng tôi khởi hành từ nhà lúc 2. 30 AM, tới phi trường lúc 4 AM rồi từ đấy tôi lái xe thẳng đi Washington DC. Tôi gài cruise 70 miles/h trên xa lộ 70 east.  Lúc 6.30 AM, khoảng giữa Indianapolis, Indiana và Columbus, Ohio (tức là còn 7 tiếng nữa mới tới DC) thì tai nạn xảy ra. Một cơn buồn ngủ bất thần đã xô tôi vào một giấc ngủ ngắn. Tôi không biết mình đã ngủ được bao nhiêu giây, chỉ biết lúc giật mình bởi một chấn động mạnh thì thấy xe đang lết rất nhanh dọc theo shoulder của lane phải của xa lộ. Những thùng rỗng bằng plastic đường kính 2.5 feet, cao 5  feet, sơn đỏ, của của sở lưu thông đặt dọc theo shoulder này, từng cái, bị hất tung lên, đập vào windshield glass rồi lăn trên mui xe trước khi rơi xuống đường phía sau xe. Xe lết chừng 30 thước thì ngừng lại giữa shoulder này. Sau 5 phút hoàn hồn, tôi kiểm điểm toàn thân của tôi và của vợ̀ thì thấy tuyệt đối vô sự. Mở cửa xe bước ra ngoài quan sát, tôi thấy đầu xe móp nặng nề, thùng nước bể, nước chảy chan chứa trên mặt đường, bánh xe trước bên phải văng ra ngoài (xe hiệu Infiniti Q 45 đời 2007 rất chắc chắn). Tôi lần đến cây cầu phía sau chỗ xe ngừng chừng 30 thước thì thấy một mảnh nhỏ bằng plastic của front bumper còn dính đét vào một của những tảng ngựa xi măng chắn chân của những trụ cầu. Một vết thật dài, sâu, thẳng và song song với mặt đường in rõ trên mấy tảng ngựa xi măng kế tiếp chắn dọc theo những chân cầu. Thì ra xe tôi đã đâm vào chân cầu theo một góc độ nào đó, ở tốc độ 70 miles/h mà tôi đã gài trước. Xe được towed về một dealer ở Indianapolis rồi tôi mướn xe khác, tiếp tục cuộc hành trình. Viên cảnh sát tặng tôi một ticket $100 về tội ngủ gật trong khi lái xe. Anh tỏ ra vô cùng ngạc nhiên rằng một tai nạn nặng như vậy mà đôi vợ chồng già không hề hấn gì (không trầy trụa, không đau lung, air bag cũng không mở mặc dầu xe bị thương tới mức sau đó phải sửa hết 13 ngàn đồng)
Cái may kỳ lạ kể trên chưa kỳ lạ bằng giấc mơ của Lộc, em trai kém Trâm 4 tuổi,  sống ở West Virginia cách chỗ tai nạn chừng 300 miles. Đúng 6.30 AM, giờ đụng Xe của tôi trong ngày đó, Lộc nhìn thấy Trâm ngồi nhổm dậy từ quan tài giữa đám tang (Trâm mất vào ngày 9 tháng 10 năm1999) và nhìn nó chừng chừng một vài giây rồi biến mất. Nó nhớ rằng lúc đó nó ở trong tình trạng nửa ngủ nửa thức. Đó là lần duy nhất mà Lộc thấy Trâm hiện hồn. Có người giải thích với tôi rằng hồn của Trâm hiện hữu lúc đó để giúp bố thoát hiểm (xin nhắc lại rằng hồn ma có thể làm nhiều việc mà người trần không làm nổi nhưng không thể đoán được tương lai để báo trước cho bố tránh tai nạn như đã trình bày trong các chi tiết 1 và 2, mục B, đoạn III). Nó báo cho em biết tai nạn của bố exactly lúc 6.30 AM hôm đó vì hồn ma có tốc độ phi thường (như đã nói trong chi tiết 3 mục B, đoạn III).
2/  Hàm răng gỉa
Chuyện này và bốn chuyện kế tiếp sẽ nói về hồn ma của Đức. Tháng tư năm 2010, ông Nguyễn Hữu Dụng, em trai tôi, tới ở với tôi ba tuần để phụ tôi trông nom vợ tôi. Lúc này bệnh Alzheimer của bà đã rất advanced. Một hôm hàm răng gỉa của bà bị thất lạc. Hai anh em tìm mọi chỗ trong nhà suốt ba ngày mà không thấy. Tôi phải schedule với nha sĩ Kim Thanh, con gái tôi, để làm cái khác (tốn chừng bảy trăm đồng chưa kể̀ công của nha sĩ). Sáng sớm hôm sau tôi thấy nó nằm chình ình giữa một ngăn của cabinet sát cạnh tủ lạnh, tất cả những món linh tinh khác như phấn, son, thuốc sơn móng tay… đều bị đẩy dạt ra ba phía của cabinet. Nơi này là nơi hai anh em tôi tìm ít nhất mỗi ngày sáu lần. Tôi cứ để y nguyên như vậy và gọi chú Dụng xuống xem. Vừa thấy quang cảnh ấy chú đã toát mồ hôi lạnh. Chú đoán ngay rằng Đức đã kiếm cho mẹ. Đức mất trước đó sáu tháng. Nó là người gần gũi và săn sóc mẹ nhiều nhất trong sáu đứa con; một tháng trước khi chết, nó vẫn về coi sóc mẹ một tuần.
Một tuần sau, hàm răng gỉa lại biến mất mặc dù tôi đã cẩn thận hơn. Mỗi lần tháo ra ban đêm, tôi đều cất nó vào hộp riêng của nó. Hai anh em lại vất vả trong hai ngày mà vẫn vô vọng. Đột nhiên lúc tôi cầm cái hộp muốn vứt đi (răng đã mất thì giữ hộp làm gì?) thì lại thấy hàm răng trong đó. Khỏi cần nói mọi người cũng đoán tôi đã mở hộp để kiểm soát cả chục lần trước mà không thấy.  
3/  Tấm ID card huyền bí
Biến cố này ly kỳ nhất của đoạn IV, mục C. Cuối tháng chín năm 2010 (hơn hai tuần trước ngày giỗ đầu của Đức), vợ chồng tôi và vợ chồng chú Dụng đi Panama cruise hai tuần. Lúc này tình trạng Alzheimer của vợ tôi đã ở mức profound. Bà không còn nhận ra bất cứ ai trong gia đình, đã quên vĩnh viễn tuổi tác của mình, đôi lúc quên cả tên của mình. Bà đi lạc tổng cộng tám lần trên tầu mặc dầu ba người đã hết sức cảnh giác. Hai trong sáu lần đầu tiên thì tôi nhờ security kiếm. Rất dễ dàng đối với họ (họ chỉ cần gởi 11 người lên 11 floors là 5 phút sau sẽ kiếm ra). Nhưng họ đã cảnh cáo rằng nếu xảy ra lần nữa thì bắt buộc họ phải lock up người bệnh vì lý do an ninh cho cả hai ngàn hành khách và gần hai ngàn nhân viên (lúc đi lạc, bà vào bất cứ phòng nào, đụng vào bất cứ vật gì)
Lần đi lạc thứ bảy là trọng tâm của mục này.  Trưa, tôi đưa vợ về phòng nằm ngủ. Tôi không dám ngủ trưa nhưng chợp mắt lúc nào không hay. Khi tinh dậy thì không thấy bà nữa. Không dám báo cho security vì sợ bà sẽ bị locked up (cứ mỗi giờ bệnh nhân bị locked up thì tôi phải trả $40 vì người bệnh cần y tá canh giữ trên nhu cầu one on one). Tôi và vợ chồng chú thím Dụng chia nhau đi kiếm, mỗi người phụ trách 3 floors. Sau nửa giờ vô vọng, cả ba đều tự nghĩ phải về phòng riêng (ở lầu 10) để bàn định lại. Không hẹn mà ba người lên tới lầu 10 cùng một lúc. Chưa hết ngạc nhiên thì tôi lại thấy bà Alzheimer lững thững bước ra khỏi cửa buồng thang máy, người lạnh toát, quần áo ướt đẫm mồ hôi mặc dầu máy lạnh của tầu lúc nào cũng dưới 70 độ F. Thím Dụng đoán ngay rằng Đức đã kiếm ra mẹ rồi dẫn về. Tuyệt đối bà không còn đủ trí khôn để vào thang máy một mình rồi bấm số 10 để về phòng. Thím còn nói: đã có người bảo thím rằng khi hồn ma nhập vào ai thì lúc nó thoát ra, người ấy sẽ toát mồ hôi như tắm.
Còn một điều kỳ lạ gấp mười: sau khi tắm cho bà thì tôi thấy một cái ID card do tàu cấp trong cái giỏ nylon mà bà xách lúc đi lạc. Tôi móc trong túi tôi thì vẫn thấy cái ID card origin của bà màu vàng nhạt (tức là cái ID card mà tàu đã phát cho mỗi người lúc check in). Cái thứ hai này màu xanh nhạt, là màu họ dùng cho dublicated ID card. Tôi cùng vợ chồng chú Dụng liền xuống ngay văn phòng hỏi cô thư  ký thì cô cho biết chiều hôm đó văn phòng của cô không phát dublicated ID card cho ai cả. Cô còn nói điều kiện để được cấp dublicated card là đương sự phải trả lời đúng tên, tuổi, và số phòng của mình (no way vợ tôi còn đủ khôn để trả lời đúng những câu hỏi như vậy; ngay cả việc tìm ra văn phòng này cũng no way vì phòng này ở lầu 5 và lối vào qúa ngoắt nghoéo). Cô check cái card mới của bà thì thẩy nó function perfectly nghĩa là có thể dùng để xuất nhập tàu vì nó có cái link gởi ảnh của đương sự lên screen của computer, có thể dùng như chìa khóa phòng ngủ của minh và còn dùng như credit card để trả tiền sắm đồ tại shopping center và uống rượu ở restaurant của tàu. Chính cô thư ký này cũng cảm thấy kỳ lạ nên cô thỏa thuận cho tôi giữ cả hai cards làm kỷ niệm. Sau này, Mark Evan, chồng của con gái út của tôi tìm thêm được một điều lạ nữa: dublicated ID card ấy có middle name (Thị) trong khi card cũ của bà và card của chúng tôi không có middle name.
Không có giải thích nào hữu lý ngoài việc Đức đã làm card ấy cho mẹ rồi dẫn mẹ về phòng nhưng vừa đến lầu 10 thì gặp chúng tôi nên nó thoát ra ngoài.
4/  Cuốn manual của xe Porsch 911:
Mùa hè năm 2011, Lộc mua một xe Porsch 911. Tôi và các con liên tưởng ngay tới Đức vì lúc sinh thời, nó rất thích thích loạixe này và đã từng lease một cái trong bốn năm. Sau một tuần, tự nhiên cuốn manual của xe biến mất. Vợ chồng Lộc và thằng con trai 16 tuổi tìm suốt cả ngày không thấy. Sáng sớm hôm sau, Lộc thức dậy để order một cuốn khác thì thấy cuốn sách nằm chình ình, đơn độc, chính giữa counter bằng đá cẩm thạch màu hồng nhạt của island trong nhà bếp. Counter này là nơi vợ chồng hắn thường dùng hằng ngày để uống cà phê và ăn cơm nên lúc nào cũng trống trơn. Quyển sách rất lớn, màu đen, khổ 10 x 12 inches, dầy nửa inch nên không ai nghĩ khác việc Đức mượn để đọc rồi trả lại.
5/  Cú điện thoại kỳ lạ lúc nửa đêm
Chuyện này do Nguyễn Thị Bích Châu, con gái của chú Dụng kể. Châu kém Đức hai tuổi, làm việc ở gần Chicago và rất thân với Đức. Có một đêm, khoảng nửa đêm, khi Châu vừa chợp mắt ngủ thì nghe cell phone réo một lần duy nhất rồi tắt. Nó chồm dậy ngó thì thấy hiện tên và số phone của Đức trên màn ảnh. Tuyệt đối nó chưa đụng tới phone. Nó tham khảo một bà y tá người Mỹ (bà này có psychic) thì bà nói rằng vì Châu có chung frequency với Đức nên thường gặp nó trong các giấc mộng. Bà còn tả được hình dáng và tầm thước của Đức mặc dầu bà chưa hề gặp nó. Châu hỏi bà tại sao Đức thân với bố gấp mười lần mà không hiện về với bố thì bà trả lời rằng nó vẫn thường về đứng ở chân giường lúc nửa đêm mà bố không nhìn thấy vì khác tần số.   
6/  Liệng hai bịch kẹo xuống nền nhà
Chuyện này xảy ra ở nhà Oanh, em gái kế ngay sau Đức và là người được Đức thương nhất. Một đêm Oanh và đứa cháu gái gọi Oanh là dì, sống chung nhà, đứng nói chuyện với nhau trong bếp. Giữa bếp và cái cái chạn chứa đồ lặt vặt là một khoảng rộng gần hai thước. Khi hai đứa nhắc đến tên của Đức thì đột nhiên một bịch kẹo từ chạn rớt thật mạnh như người liệng xuống nền nhà, mà lại rớt xéo về phía bếp chứ không rớt thẳng đứng. Đã hai lần xảy ra như vậy. Nhiều đêm nó nghe điện thoại kêu lên một tiếng tít rồi im bặt. Có vài lần nó nghe có tiếng chân người bước theo sau nó trong phòng lúc nhà vắng người. Nó còn nhìn thấy Đức trong vài giấc mơ.

D/ Một Cuốn Sách Nổi Tiếng Thế Giới Về Linh Hồn
Biến cố này mới xảy ra vài năm nay và là một bằng chứng hùng hồn nhất về linh hồn. Tôi sẽ nói rất vắn tắt vì tôi đã gởi cho qúy vị một email tường thuật đầy đủ chuyện này trong đó có một cuộc phỏng vấn lâu nửa giờ giữa nhân vật chính và một nữ phóng viên người Anh trên TV. Vai chính tên là Anita Morjani, gốc Ấn Độ, 50 tuổi, tốt nghiệp college ngành business tại Ấn và làm việc cùng với chồng tại Hồng Kông. Bà bị bệnh lymphoma ở thời kỳ chót và chết trong một bệnh viện ở Hồng Kông. Bà đã sống lại sau 30 giờ (tim ngừng đập, phổi ngừng thở, áp suất máu không đo được, thân nhiệt tụt xuống gần nhiệt độ của phòng lạnh và EEG đã flat).
Sau khi sống lại bà đã nói nhiều điều không thể không tin như:
-Nhắc lại cuộc đối thoại giữa thân nhân của bà và bác sĩ điều trị cho bà bên ngoài và cách xa phòng ICU mà bà còn đang nằm trong lúc bà chết.
-Gọi đúng tên vị bác sĩ đã tới phòng ICU để tuyên bố rằng bà đã chết. Bà chưa hề gặp mặt ông bác sĩ này.
-Thuật lại nguyên văn lời của anh ruột của bà (đang ở Ân Độ nói chuyện điện thoại với gia đình lúc được tin bà chết)
-Tả tỉ mỉ những diễn tiến trong và ngoài phòng của bà trong những giờ bà chết.
Bà nói rằng bà nhìn thấy hết mọi người, nghe được hết mọi điều xảy ra trong và ngoài phòng của bà trong những giờ ấy. Bà còn nói rằng tất cả những đau đớn,
buồn phiền, sợ hãi đã tuyệt đối chấm dứt trong những giờ bà chết.
Còn một điều hết sức huyền bí: tất cả những tumors, có cái lớn bằng trái chanh, đã nhỏ đi phân nửa sau bốn tuần bà sống lại và biến mất sau bốn tháng. Chỉ có một giải thích dựa vào lối ăn uống lành mạnh và sự chấm dứt sợ hãi đã giúp bà khỏi bệnh lymphoma nhưng cách giải thích này chưa đủ mạnh.
Bà đã viết một cuốn sách nhan đề “ Dying to be me ” tường trình đầy đủ trường hợp của bà. Cuốn sách này được nhiều bác sĩ, y tá, thư ký, ký gỉa ủng hộ, được dịch ra 28 thứ tiếng và tổng cộng đã bán được 5 triệu cuốn.

E/  Thuật Phi Hành
Còn một huyền bí nữa, tuy không giúp cho việc chứng minh sự hiện hữu của linh hồn nhưng rất có ích cho việc tìm hiểu năng lực của nó:
thuật phi hành của người Tây Tạng.
Một vị sư Tây Tạng có kiến thức Tây học khá hiện đại đã biểu diễn thuật khinh công trước mặt một nhóm người gồm học giả, khoa học gia, tu sĩ và ký giả. Ông dùng thuật Yoga, nhấc bổng người ông khỏi mặt đất hai thước trong thế ngồi chừng 15 phút. Ông nói rằng ông đã học được thuật khinh công tới mức này sau 20 năm luyện tập với một vị thiền sư cũng người Tây Tạng và vị thày này của ông có khả năng đi nhanh trên mặt nước hoặc lướt trong không trung. Ông giải thích như sau: người ta không rời khỏi mặt đất được bởi vì chịu sức hút của trái đất trên cơ thể. Nếu luyện cho cơ thể có một lực có thể đối kháng (counter) với sức hút của qủa đất thì sẽ có thể bay lơ lửng trong không trung. Phải chăng linh hồn có một năng lực na ná như vậy để hiển linh và hoạt động trong thế gian này? Tôi tin chuyện này với dè dặt thường lệ.


V/  ĐOẠN KẾT
Nếu coi God là trọng lực của tôn giáo thì linh hồn của tín đồ là trọng tâm của trọng lực ấy vì nếu không có linh hồn của tín đồ thì chưa chắc đã có có quan niệm của tôn giáo về God. Vì lo cho số phận của linh hồn nên tín đồ, đời này qua đời khác, đã làm bất cứ điều gì God thích và tránh bất cứ điều gì God chê. Đức tin và thái độ đó của tín đồ đã giúp cho quan niệm của tôn giáo về linh hồn được giữ nguyên vẹn và đứng ở một vị trí cố định qua thời gian. Tuyệt đối loài người không được tu sửa bất cứ điều gì God đã phán về linh hồn mặc dầu chưa biết chính xác God là ai. Nếu để cho khoa học (trong đó có thiên văn học và y học) tìm được chân tướng của linh hồn thì cái “trọng lực” kể trên sẽ mất thuần nhất (người tin ít, kẻ tin nhiều, giống như có chỗ nặng có chỗ nhẹ) và tất nhiên “trọng tâm” của nó sẽ liên tục xê dịch ra khỏi tầm kiểm soát của tôn giáo. Tôn giáo sẽ không kiểm soát được linh hồn của tín đồ nữa và sẽ mất hết uy quyền, lợi lộc cung cấp bởi tín đồ. Tất nhiên tôn giáo không muốn tình trạng này xảy ra.
Hậu qủa đáng tiếc của việc các hội thánh không muốn khoa học tìm ra chân tướng của linh hồn là: dù khoa học đã soi sáng cho mọi ngành từ kinh tế, thương mại, chính trị, tư pháp, nghệ thuật… đến sức khỏe của con người nhưng sự hiểu biết về linh hồn dường như vẫn dậm chân tại chỗ. Computer chips đã trở thành những “linh hồn nhân tạo” (nhớ đủ mọi điều, làm hết mọi việc) mà linh hồn (phần thiêng liêng nhất cúa con người) thì vẫn nằm ì trong bóng tối. Lý do thầm kín là: không đủ tiền cho các bác học của ngành này nghiên cứu (họ cần nhiều tỷ đô la). Các tổ chức từ thiện, các chính phủ, dưới áp lực tiềm ẩn của tôn giáo (qua tín ngưỡng của cử tri), không dám tài trợ cho lãnh vực này (sự trì trệ của việc nghiên cứu stem cells để trị các bệnh đái đường, cao áp huyết, hư thận-gan-tim, chấn thương cột xương sống… là một thí dụ điển hình). Nếu chân tướng của linh hồn được khám phá thì văn minh của nhân loại sẽ lên tới tột đỉnh. Việc đó không phải không thể làm được. Người ta đã đánh được tín hiệu (signal) lên Hỏa tinh rồi thu hồi nó về địa cầu. Người ta đã tồn trữ được những signals trong computer chips bằng những hợp chất vô cơ (mineral), biết đâu sau này chẳng làm được những organic computer chips để tồn trữ linh hồn? Vấn đề cổ họng là tôn giáo đừng giữ độc quyền về linh hồn nữa để tín đồ yên tâm tài trợ cho việc nghiên cứu trong lãnh vực này. Tiếc thay, hy vọng này (hy vọng tôn giáo nới rộng quan niệm về linh hồn) rất mong manh.  
Nhưng cũng may thay, đã có dấu hiệu cho thấy tôn giáo đang mất dần quyền độc tôn, độc tài và độc quyền kiểm soát linh hồn. Những polls đã cho biết chỉ còn dưới 50% tín đồ coi hội thánh của họ là lãnh đạo tinh thần cho họ. Ngày xưa chỉ có một phán quyết duy nhất của phe duy tâm: “ God đã tạo ta con người giống hình dáng của Ngài”. Bây giờ thì có câu ngược lại của phe duy vật: “ Con người đã tạo ra God giống hình dáng của họ”. Đã có nhiều nhà bác học phàn nàn rằng bất lợi lớn nhất từ tôn giáo là cản bước tiến của nhân loại. Nhiều bác học lỗi lạc và thâm thúy, đứng đầu là Albert Einstein, đề nghị thành lập một tôn giáo tổng hợp và duy
nhất, mệnh danh là tôn giáo Toàn Cầu (Universal Religion) bao gồm nhiều tư tưởng của Phật Thích ca như vô thường, diệt khổ, bình đẳng, tự do, tự tại, tự phán xét, tự cứu rỗi và gác bỏ những phù phiếm, hoang đường hoặc lỗi thời như tội tổ tông, đấng cứu thế, mặc khải, tái sinh v.v…Ý kiến này, tuy không tưởng (không thực hiện nổi) nhưng vô cùng xây dựng (productive) và rung lên một hồi chuông thông báo rằng một tân thánh kinh của thế kỷ 21 đang ló rạng.
God đang thay hình đổi dạng thì sớm hay muộn chân tướng của linh hồn sẽ lộ diện.
Người ta e ngại rằng nếu giáo lý của tôn giáo (trong đó có quan niệm về linh hồn) không cải tiến thì một ngày nào đó chân tướng của linh hồn sẽ tách rời khỏi tôn giáo. Lúc đó tôn giáo sẽ không chỉ thoái hóa mà sẽ sụp đổ.

Ngày 8 tháng 6 năm 2013
Nguyễn Văn Bảo. MD. ( bút hiệu Con Cò)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét