Sắt và máu
Huy Phương – Theo Nhóm Văn Tuyển – 8 Dec 2014
Người ta gọi cờ của Cộng Sản là lá cờ máu, mà không phải chỉ Việt Nam, các nước Cộng Sản trên thế giới đều có lá cờ nền đỏ, từ Liên Bang Xô Viết, Trung Cộng, Bắc Hàn hay Cuba.
Chính cái màu máu đó “Người” đã vác về từ Liên Xô gây thảm họa cho dân tộc Việt Nam. Tố Hữu trong bài “Hoa và Máu” đã ca tụng “Người” của ông, nhưng có kết quả ngược, khi đọc lên, người ta thấy “Người” quả thật là một nhân vật ngoi lên từ vũng máu:
“Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu
Người vươn lên như một thiên thần!”
Và cả dân tộc này đang hân hoan phấn khởi được ngụp lặn, vùng vẫy trong máu:
“Ta lại về ta, những đứa con
Máu hòa trong máu, đỏ như son.”
Từ chủ trương sắt máu đó Tố Hữu cũng đã hò hét:
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong…”
Không ai nghĩ ra vì sao phải đổ máu cho tốt ruộng đồng và thu thuế nhanh hơn, phải chăng đó là một lối cai trị bằng sắt máu và khủng bố!
Ngay trong bài quốc ca “Tiến Quân Ca” chúng ta đã phải rùng mình khi nghe những lời hát man dại của Văn Cao:
“Thề phanh thây uống máu quân thù
Tiến mau ra xa trường, tiến lên!”
Những nhà thơ khác như Xuân Diệu cũng nhập cuộc, chủ trương:
“Máu kêu máu trả thù.
Súng đâu, anh em đâu.
Bắn nó thủng yết hầu,
Bắn tỉa nó dài lâu!”
Lời kêu gọi của những con người thèm khát nhìn thấy máu này, đã đưa dân tộc đến thảm sát Mậu Thân, pháo kích trường học ở Cai Lậy, bắn pháo trên “đại lộ Kinh Hoàng,” gây biển máu trên Quốc Lộ 7B và những vụ trả thù ghê gớm trong ngày miền Nam thất thủ. Những người thèm máu trong chiến tranh, dù hôm nay ngày hòa bình, đã đạt kết quả.
Ngày xưa có những bài toán trừ: “10 tên lính Mỹ giết 6 tên, còn lại mấy tên?” Nhưng ngày nay Việt Nam mon men lại gần Mỹ, “hoan nghênh việc Hạ Viện Hoa Kỳ lần đầu tiên thông qua một nghị quyết ủng hộ những nỗ lực giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, và việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông,” thì bài toán có máu sẽ đổ lên đầu trẻ thơ vô tội, là, “10 ngón tay bị chặt đứt 2 ngón, tính ra còn mấy ngón tay?” Cũng là máu!
Trên những trang báo trong nước ngày nay, không có ngày nào là không có chuyện máu. Người ta giết nhau không cần đến súng, mà bằng búa bằng dao. Sư giết người yêu chôn trong vườn chùa, cha giết con, con cầm dao giết mẹ, anh em vợ chồng đoạt mạng nhau, còn phân thây, vứt bên lề đường, vùi trong bụi chuối, ao hồ. Mới đây là chuyện thiếu niên mới 15 tuổi giết cô chăn bò 52 tuổi, lột lấy bông tai và hiếp dâm thi thể, một thanh niên khác trấn nước nạn nhân cho đến chết, rồi kéo lên bờ làm chuyện tồi bại.
Bây giờ là thời buổi của ma quỷ hiện hình cũng như con người khát máu ưa chém giết nhau, chỉ vì không biết phù phép, bùa chú, yểm ma trừ tà, không chịu chôn hay thiêu đốt mà để con quỷ dâm dục, khát máu, bạo tàn sống nằm khô héo nhăn răng trong lăng.
Chúng ta thường nghĩ, chiến tranh là chuyện bất đắc dĩ, khi tiếng súng đã im trên chiến trận, dù ai chết, bên này hay bên kia, thì cũng là người, ai cũng có những người thân, cũng có một mái ấm. Phải là người lính của miền Nam ngày trước mới có được nỗi buồn xót xa, nhân bản như Tô Thùy Yên:
“Trời ơi, những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai?
Hay như Trần Hoài Thư:
“Ai bạn, ai thù sao quá thảm,
Trên một dòng cuồn cuộn oan gia!”
Trong khi đó, những người Cộng Sản hả hê:
“Ném lựu đạn cho người vui vật sướng!”
Hay cầm súng giết người mà hãnh diện:
“Ôi êm ái khi tay cầm vũ khí!” (Xuân Diệu)
Ngay cái hầm chông của du kích là một vũ khí giết người, khi một con vật sa vào bẫy, dù thèm miếng thịt cũng bất nhẫn, khi thấy con vật giẫy giụa đau đớn trong máu me, nhưng Chế Lan Viên đã “yêu,” ca tụng nó, thứ vũ khí giết người:
“Hỡi cái hầm chông
Ta yêu ngươi hơn vạn đóa hoa hồng
Cái hầm chông nhọn hoắt…”
Sau khi giết người, họng súng của con người Cộng Sản “phải reo ca,” nên chế độ ấy, ngày nay sinh sản ra những con người sát nhân, hiếp dân, vứt xác xong về đi ngủ, hay ra quán ngồi nhậu tiếp.
Thời buổi cai trị bằng sắt máu, dùng bạo lực, công an là lực lượng trung thành trấn áp nhân dân, “còn đảng còn ta” nên cảnh giết người, đánh đập người dân trong các đồn công an trong khi lấy khẩu cung gây nên cảnh chết chóc, dàn cảnh tự tử không hiếm tại Việt Nam hôm nay. Cảnh cướp đất, cướp nhà đã dồn người dân lành thành dân oan, ăn đường, ngủ bụi, oán thán ngất trời.
Chúng ta trông đợi, hy vọng gì ở cái xã hội suy đồi bại hoại này, nó phát xuất từ cây đa Tân Trào, hay hang Pác Bó thì cũng đem lại cái chết cho hàng triệu thanh niên và ngày nay là đạo lý suy đồi. Hay biết mấy những câu thơ của Tố Hữu áp dụng cho hoàn cảnh hôm nay:
“…Càng tức nước, càng xui bờ vỡ
Lòng dân ta như lửa thêm dầu
Lưỡi lê, mũi súng, nhà tù
Càng đau, càng khổ, càng thù, càng căm!”
(Ba mươi năm đời ta có đảng)
Rồi đây, có lẽ sẽ không có “Cách Mạng Nhung,” “Cách Mạng Hoa Lài,” gì nữa. Khởi đầu con đường đi bằng máu, sợ rồi đây nó sẽ tự kết thúc bằng máu như Tố Hữu đã từng kêu lên, “Máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu!”
Một Góc Nhìn Khác Về Sự Đa Dạng Của Văn Hóa “Không Định Hướng”
CÁC “PHÊ PHÁN VĂN HỌC” (Thời VNCH)
Trương Phu Tử – Hồ Quang – Theo Sử Học VN – 11 April 2013
Nếu nói rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa khởi đầu từ sau khi Hiệp Ðịnh Genève (1954) được ký kết cho đến khi Miền Nam Việt Nam bị VC cưỡng chiếm (30-4-1975), thì đã gần 21 năm… Nhìn lại với thời gian này, so với hiện tại thì người dân Miền Nam được hưởng cảnh tự do, dân chủ một cách thực sự… không như hiện nay đã bị khóa chặt bởi ý thức hệ “xã hội chủ nghĩa” khiến người cầm bút bị bắt buộc theo một định hướng được “đảng” đề ra.
Nhìn ngược trở lại thời kỳ trước 1975, Văn Học Miền Nam cũng chỉ là một phần của dòng Văn Học Việt Nam nói chung, nó không thể bị tách rời và bị nhà cầm quyền đương thời loại bỏ… mà phải được gìn giữ, được ca tụng. Chính nó (Văn Học dưới thời VNCH) đã đưa vào Văn Học Việt Nam những tia sáng của tự do, của dân chủ vì được ảnh hưởng ở nhiều tư tưởng văn minh của Thế Giới Tự Do và ngay cả những tư tưởng “đổi mới” của những người trong Thế Giới Cộng Sản. Đến hôm nay thì chúng ta đã nghiệm ra được “nó” là sự đối chọi quá rõ ràng, làm chậm bước tiến, và có thể chận đứng luôn sự phát triển cái gọi là “dòng văn học cách mạng” mà CSVN thường cổ xúy.
Ðể chứng minh điều này, chúng ta thử xem xét văn học thời đó như thế nào?
Dĩ nhiên, ông cha ta thường nói “Văn tức là Người” và “Văn Dĩ Tải Ðạo”… Như thế có nghĩa “con người phải như thế nào mới có lời văn thể hiện” và trong “lời văn đó sẽ nói lên cái gì, hàm ý gì”?… Cái gì ở đây không phải chỉ là một sự tuyên truyền duy nhất cho một chủ nghĩa, mà nó phải mang tính đa nguyên để đi đến đa chiều do sự du nhập của đa phương hướng từ bên trong cũng như từ bên ngoài…
Việc phê bình văn học mang tính phê phán, không thể chỉ nói đến chuyện sáng tác không thôi, mà còn phải nói đến những phê phán đối với nó nữa. Ðiều này rất cụ thể vì bất cứ tác phẩm nào đem trình làng và muốn nó được “tải” đi rộng khắp, phải nhờ vào tình cảm độc giả đón nhận tác phẩm đó như thế nào… Nghĩa là tác giả đưa ra tác phẩm thể hiện được mọi khía cạnh của cuộc sống, góp phần đưa thêm nguồn sinh khí mới vào văn học tại giai đoạn đó… Tìm ra được những ngõ ngách và sự suy nghĩ như thế này, chính là chúng ta đang làm công việc “phê phán” từ một “phê phán” có trước đó.
Ngày nay Việt Nam, từ bên ngoài nhìn vào, tuy có thay đổi về mặt hình thức, nhưng về mặt “nội dung” thì quả là một thảm hại… “văn học” là cái làm cho ai cũng có thể nhận ra sự “thảm hại” này được. Một nhà văn nào đó muốn diễn đạt tư tưởng của mình qua tác phẩm thì “tư tưởng” đó phải có sự chỉ đạo của “nhà nước” (không muốn nói là chỉ đạo từ Ðảng). Chỗ này chúng ta so sánh được ngay với thời VNCH, như thới Tổng Thống Diệm, tác phẩm “Thềm Hoang” của Nhật Tiến tuy có nội dung phê phán chế độ, nhưng vẫn đoạt giải “Văn Học của Tổng Thống”. Chuyện như thế nếu cùng thời điểm tại Miền Bắc sẽ như thế nào? Vụ “Nhân Văn Gia Phẩm”, lịch sử văn học không thể không ghi vào và nhất định những nhà phê bình văn học không thể lặng yên khi đưa ra những kết luận đầy phẫn nộ trong cách phê phán của mình.
Cứ cho rằng văn học tại Miền Bắc có phát triển theo một hướng nhất định của Ðảng Cộng Sản vạch ra, nếu tác phẩm nào có nội dung “lệch đường”, tác giả của tác phẩm đó phải bị thanh trừng vì chống đối chế độ, âm mưu kích động lật đổ chính quyền! Ngược lại, tại Miền Nam, văn học đã phát triển không theo một “định hướng”, “một lề phải” hay “lề trái” nào cả, tác giả tự do biểu đạt ý tưởng của mình trong các tác phẩm, chưa nói đến việc du nhập các tư tưởng mới từ các nước Âu, Mỹ vào… Từ đó nhan nhản các trường phái triết học ra đời, rồi kéo theo sự tranh luận mang tính bổ sung cho nhau. Triết thuyết mạnh nhất lúc bấy giờ là thuyết Hiện Sinh của Jean Paul Sartre. Sự xuất hiện của triết thuyết này song song với những triết thuyết khác (Mỹ Học, Phân Tâm Học, Lý Luận Học…) kéo về phía mình những phương pháp lý luận có tính phê phán như “cấu trúc luận”; “hiện tượng luận”… phải xảy ra.
Doãn Quốc Sỹ trong cuốn “Văn Học và Tiểu Thuyết” (Sáng Tạo xuất bản tại Sài Gòn năm 1973) ở trang 348 có một “Ðồ Biểu Văn Xuôi Việt Nam”, kê ra khoảng 50 tác giả cùng các tác phẩm tiêu biểu của họ (tại Miền Nam từ 1954-1973), với những nội dung dưới nhiều thể loại như “truyện”, “nghiên cứu”, “phê bình”… về văn học Việt Nam trước và ngay tại thời điểm đó.
Tại Hoa Kỳ, năm 1986, nhà văn Võ Phiến ghi lại trong cuốn: “Hai Mươi Năm Văn Học Miền Năm 1954-1975” (Nhà Xuất Bản Văn Nghệ tại Hoa Kỳ), tuy tác giả không ghi ra con số rõ ràng, nhưng người đọc có thể đếm từ đầu đến cuối các trang sách cộng lại được 267 tác giả mà trong đó những người viết văn xuôi chiếm đa số.
Năm 2000, Nhà Nghiên Cứu Văn Học Trần Hữu Tá (Ðại Học Tổng Hợp – SG) trong tác phẩm “Nhìn Lại Một Chặng Ðường Văn Học Ðã Qua”, trong phần tuyển chọn tác phẩm của các cây viết mà theo ông ta là có “xu hướng tiến bộ, yêu nước” gồm 60 tác giả viết văn xuôi.
Con số nhiều nhất là 267 (Võ Phiến), con số ít nhất (Doãn Quốc Sỹ), nó không phải là sự xác minh chắc chắn, nhưng dầu sao thì cũng làm cho mọi người cảm nhận về lực lượng cầm bút thời VNCH có con số đáng kể. Nếu đem so sánh với con số Nhà Văn Thời Tiền Chiến (trước 1945) thì ông Vũ Ngọc Phan trong quyển “Nhà Văn Hiện Ðại”, ông Cao Huy Khanh trong quyển “Vấn Ðề Khuynh Hướng Trong Tiểu Thuyết Miền Nam Từ 1954 Ðến 1973” (Tập San Thời Tập, số IV, ra ngày 14-4-1974) đều cho rằng số lượng các tác giả (văn xuôi) giai đoạn sau năm 1954 tại Miền Nam rất đáng kể (lên tới 200 người). Họ rất khác nhau trong quan niệm sáng tác vì sự xuất thân của họ ở nhiều thành phần xã hội khác nhau, và nhiều nhất là họ sống về nghề làm báo, dạy học… Chúng ta có thể thấy rõ các tên tuổi như Nhất Linh, Vũ Bằng, Vi Huyền Ðắc… (di cư từ Miền Bắc vào sau 1954), và những người mà sự nghiệp văn chương của họ khởi lên ngay tại Miền Nam như Thanh Tâm Tuyền, Lê Tất Ðiều, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Dân… Tất cả họ không thể hòa nhập với nhau, nên trên văn đàn lúc nào cũng tỏ ra hào hứng, gây xôn xao nơi độc giả, khiến giới sáng tác bị kích thích mạnh, cố tìm riêng cho mình một cách viết mới, đây chính ta mầm mống của của sự phát triển mạnh về số lượng người cầm bút ở Miền Nam (VNCH).
Bây giờ những nhà văn Miền Nam tên tuổi như Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Phú Ðức… (trước 1945), tiếp theo sau 1945 như Mai Văn Bộ, Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà… rối tiếp theo nữa như Ngọc Linh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Lê Vĩnh Hòa, Viễn Phương, Hà Huy Hà, Vân Trang… Rồi còn có những nhà văn Miền Trung như Vũ Hạnh, Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Minh Quân, Nguyễn Mộng Giác… và sau 1964 đã xuất hiện những cây viết trẻ Hồ Minh Dũng, Nguyễn Mộng Giác, Trần Hoài Thư, Lê Văn Thiện, Hoàng Ngọc Tuấn, Từ Kế Tường, Mường Mán, Ngụy Ngữ, Trần Duy Phiên, Huỳnh Ngọc Sơn, Nguyễn Mai, Dương Uẩn, Cung Tích Biền, Ðinh Tiến Luyện, Du Tử Lê, Thế Vũ… Dầu cho mỗi người trong họ có xu hướng “bên này” hoặc “bên kia” chăng nữa thì “họ” vẫn là những con người yêu văn chương, biết thể hiện tính dân tộc, đóng góp vào tính đa dạng của Văn Học Miền Nam, giai đoạn mà chính thể VNCH ngự trị…
Lực lượng viết văn hùng hậu như thế, song những người chuyên về “Phê Bình Văn Học” không phải ít! Sáng tác của họ là dùng lý luân, nghiên cứu, khảo cứu để từ đó phê phán những tác phẩm văn học mà họ thấy cần. Họ là những trí thức, những học giả, nhà báo, nhà giáo, nhà văn… chúng ta có thể kể các tên tuổi như: Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng, Lê Tuyên, Ðỗ Long Vân, Ðặng Phùng Quân, Lữ Phương, Nguyên Sa, Võ Phiến, Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Hiến Lê, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Vũ Hạnh, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Lê Huy Oanh, Nguyễn Tấn Long, Trần Tuấn Kiệt, Cao Thế Dung, Ðặng Tiến, Tam Ích, Thế Phong, Nguyễn Xuân Hoàng, Tạ Tỵ, Nguyễn Sỹ Tế, Huỳnh Phan Anh, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Ðình Tuyến, Uyên Thao, Minh Huy, Nguyễn Nhật Duật, Cao Huy Khanh…
Song hành với nam giới, nữ giới cũng đã đạt nhiều thành quả trên văn đàn như Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị NgH… Nếu đem so sánh với các đàn chị như Bà Tùng Long, Nguyễn Thị Vinh, Ái Lan, Linh Bảo, Vân Trang, Minh Quân, Mộng Trung, Lệ Hằng… thì trong các sáng tác của lớp nữ trẻ này đã phá vỡ được nét cổ điển trước đó, nhất là về cách diễn đạt tâm lý nhân vật bằng giọng điệu, ngôn từ rất ư sống sượng, không e lệ, không che giấu… nhất là các cảm xúc về nhục dục mà từ trước chua có ai dám viết (ở đây người viết xin nói thêm là không phải dùng cách “nói tục giảng thanh” của nữ sĩ Hồ Xuân Hương nữa mà nói thẳng vào vấn đề!).
Dưới thời VNCH, chế độ tự do ngày càng được tôn trọng và được đề cao. Ở góc độ về suy nghĩ, các nhà văn nữ cũng như nam tỏ ra độc lập với các tư tưởng mới, do đó từ các nhận thức về xã hội không đống nhất, ngược lại còn kình chống nhau thật quyết liệt để bảo vệ cái mà tự cho mình là chính kiến nhất. Có thể nói nhờ vào tính chất này mà “Văn Học Miền Nam” thời VNCH rất đa dạng, tạo sự sôi động, không người nào có ưu thế, mà cũng không có người nào yếu thế trên văn đàn cả. Tất cả đều được tự do “cạnh tranh” trong sự ngang bằng, không phải xếp hạng, không ngôi thứ…
Có thể nói đây là giai đoạn của các tác phẩm viết bằng văn xuôi nở rộ. Ðó là các truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, tạp bút, ký sự… Nhà phê bình văn học Tạ Tỵ viết hai tập “Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay” (Tập 1. Kim Lai xuất bản, Sài Gòn, 1970) nội dung giới thiệu sự nghiệp văn nghệ và tác phẩm của 20 nghệ sĩ mà ông cho là thành đạt nhất ở Miền Nam, trong số này có tới 13 tác giả viết văn xuôi. Tạp chí Bách Khoa là một “bán nguyệt san”, có thể nói đây là một tạp chí rất có giá trị (kéo dài 18 năm), nội dung chính của tạp chí là quảng bá kiến thức chung về văn hóa nghệ thuật, kinh tế, chính trị… Cũng giống như các tạp chí đương thời, Bách Khoa cũng dành một số trang để đăng các tác phẩm văn học bằng văn xuôi. Ngay từ số đầu tiên (Số 1 ra ngày 15/01/1957, số cuối cùng là số 426 ra ngày 19/4/1975), nếu làm bài tính cộng thì có hơn 600 tác phẩm gồm: truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, tùy bút, tiểu luận… do nhiều tác giả viết. thứ đến là tập san Văn do ông Nguyễn Ðình Vượng chủ trương, với mục đích in tuyển, giới thiệu tác phẩm văn, thơ, nên số lường các bài văn xuôi có con số tăng gấp đôi, gấp ba lần con số 600 trên. Tạp chí Văn Hóa – Chính Trị – Xã Hội (Trình Bày) chỉ hoạt động ngắn ngủi (hơn 2 năm từ 1970 đến 1972), với 42 số mà đã đăng khoảng gần 80 truyện ngắn, trung bình gần 2 truyện trên một số báo. Có thể nói các nhà văn Miền Nam thời đó ai cũng viết rất khỏe! (Nhà Văn Bình Nguyên Lộc viết khoảng 1000 truyện ngắn và nhiều tiểu thuyết, truyện dài khác; Học Giả Nguyễn Hiến Lê cũng đã xuất bản được 100 quyển sách các loại – Từ Ðiển Văn Học Bộ Mới của các tác giả Ðỗ Ðức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá do Nhà Xuất Bản Thế Giới, 2004; trang 133 viết về Nhà Văn Bình Nguyên Lộc; trang 1143 viết về Học Giả Nguyễn Hiến Lê).
Sau 1975, những người nghiên cứu văn học ở Miền Nam đã có nhận định về sự phát triển vượt trội (đối với Miền Bắc) cả hai mặt chất lượng cũng như số lượng là nhờ vào sự tác động của báo chí cũng như các hoạt động sôi nổi của các nhà xuất bản.
Nhà Văn Vũ Bằng trong cuốn “Bốn Mươi Năm Nói Láo” có viết: “…riêng tại Sài Gòn vào thời điểm tháng Chạp năm 1963 có đến 44 tờ nhật báo…” (Tuyển tập Vũ Bằng – Triệu Xuân giới thiệu sưu tầm và tuyển chọn, Tập III; Nxb. Văn Học, xuất bản năm 2000; trang 537), chưa kể các báo tuần báo, bán nguyệt san, nguyệt san rồi đủ loại tạp chí, tập san, đặc san và cũng còn nhiều ấn phẩm khác do các nhà xuất bản phát hành… Nhà Văn Võ Phiến cũng cho rằng trước 1975, Sài Gòn có cả nghìn nhà in, 150 nhà xuất bản. Những nhà xuất bản có tên tuổi như Sống Mới, Khai Trí, Trường Thi, Nguyễn Ðình Vượng, Trí Ðăng… và kèm theo là những nhà phát hành như Thống Nhất, Nam Cường, Ðồng Nai, Á Châu…, mức hoạt động của họ chắc chắn các đồng nghiệp thời tiền chiến không thể nào sánh nổi…” (Hai Mươi Năm Văn Học Miền Năm 1954-1975 – Nhà Xuất Bản Văn Nghệ tại Hoa Kỳ).
Có một thực tế cần phải phê phán là các tác phẩm trước khi in thành sách đều đã đăng trên báo hoặc tạp chí… sở dĩ có chuyện này là vì tất cả nội các bài viết đó được độc giả đón nhận nồng nhiệt hay không? Một khi có được cảm tình và sự yêu thích của độc giả rồi thì các nhà xuất bản mới tìm đến tác giả xin được quyền xuất bản các tác phẩm đó. Dĩ nhiên khi các sách này được bày bán ở tiệm sách, độc giả sẽ mua nhiều, nhà xuất bản lời to, tác giả cũng kiếm được chút cháo!
Người viết bài này còn nhớ, thời đó loại truyện mà độc giả thích đọc nhất là loại “Võ Hiệp Kỳ Tình”. Ảnh hưởng loại truyện này của quần chúng quá mạnh, độc giả hầu như chiếm hết mọi tầng lớp trong xã hội (ngay như vị Tư Lệnh Không Quân lúc đó là ông Nguyễn Cao Kỳ về sau làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương cũng để đầu giường mình cuốn Cô Gái Ðồ Long, ông ta mê truyện Kim Dung thật, từng ví mình với nhân vật Trương Vô Kỵ và cho rằng bà Tuyết Mai là nhân vật Triệu Minh…). Phong trào luyện “chưởng” trong mọi giới lên cao, các sân khấu cũng thi nhau trình diễn tuồng “chưởng” (Lệnh Xé Xác, Cô Gái Ðồ Long…), trong giới học sinh và sinh viên thường kẹp bên mình một quyển sách gì đó với tựa có vẻ triết học hay một tập thơ nổi tiếng…
Người viết nhớ rất rõ là các nữ sinh thường hay kẹp bên bình tập “Bông Hồng Cài Áo của Nhất Hạnh, còn các nam sinh (cả nữ sinh) trình độ từ Ðệ Nhị, Ðệ Nhất cũng hay để lộ ra ngoài khi cầm trên tay các sách triết học, đa sồ là sách của tác giả Phạm Công Thiện như: “Hố Thẳm Tư Tưởng”, “Khai Ngôn Cho Một Câu Hỏi: Triết Học Là Gì?”, “Ðối Mặt Với 1000 Năm Cô Ðơn của Nietzche”… còn sinh viên thì cầm tay những tác phẩm ngoại quốc dịch ra Việt như: “Buồn Ơi Hãy Chào Mi” (Fracoise Sagan), “Chuông Nguyện Hồn Ai”, “Ngư Ông và Biển Cả” (Ernest Miller Hemingway)…
Về phần các Nhật Báo hay Tuần Báo đều chọn riêng cho mình một hay vài tác phẩm gì đó để đăng nhiều kỳ (Feuilleton) hằng ngày, hoặc hằng tuần… Người viết cũng nhớ rất rõ là truyện ăn khách cho các báo lúc đó là truyện kiếm hiệp của Kim Dung, báo nào cho đăng trước thì số bán ra được rất nhiều… còn nếu hôm nào báo không có đăng truyện Kim Dung tiếp theo, thì khoảng trống đó phải đăng ngay mục xin lỗi: “Máy bay mang báo từ Hồng Kông đến trễ, xin xem vào ngày mai. Thành thật cáo lỗi cùng độc giả!”, độc giả ghiền thì đến các sạp báo khác xem thử có báo nào “đăng” kịp không, nếu không thì đành thuê vài cuốn của Kim Dung (đã đăng báo trước đó) để xem lại cho đỡ ghiền!
Về việc viết Feuilleton, phải cộng nhận rằng đây chính là cần câu cơm của các nhà văn thời VNCH. Họ viết và dịch rất khỏe, có người viết tới 11, 12 bài mỗi ngày… Có lần Nguyễn Nam Anh phỏng vấn nhà văn Bình Nguyên Lộc, ông này cho biết: “Vào năm 1957 thì tôi viết mỗi ngày 11 feuilletons. Nhưng sau đó chính An Khê và Lê Xuyên còn viết nhiều hơn. An Khê có năm viết tới 12 feuilletons mỗi ngày, nhưng tôi chưa hề thấy ai vượt qua con số 12 nổi. Sự viết nhiều, viết ít, không do ta, cũng không do chủ báo. Ðó là may mắn (hay rủi ro) ngẫu nhiên…” (Tập San Văn, số 199, ra ngày 1-4-1972). Sự sôi động của báo chí nhìn thấy rất rõ vì tờ báo nào cũng muốn lôi kéo độc giả thật nhiều về cho mình, muốn làm được điều này tất nhiên các chủ báo phải biết cách tìm mời các nhà văn chuyên nghiệp và cả những người không chuyên nghiệp về cộng tác… Kết quả, một người có thể cộng tác với nhiều tờ báo, và một ngày người viết phải viết cho xong nhiều bài, thậm chí phải xong một truyện ngắn… khiến tác phẩm xem ra về mặt chất lượng có thể giảm sút. Ðây là vấn đề này khó tránh, viết cho kịp, cho đúng thời gian giao cho chủ báo kịp phát hành!…
Các nhà văn thời đó, chúng ta có thể phân biệt thành 3 nhóm riêng biệt, một nhóm trung thành với loại tiểu thuyết dài tình cảm hay chuyện gay cấn, ly kỳ… có các cây bút như Ngọc Linh, Ngọc Sơn (trên báo Nhân Loại, Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới và nhiều nhật báo khác); nhóm thứ hai thường xuyên viết cho mục tùy bút, đoản văn trên tuần báo Khởi Hành, Văn, Thời Tập và các báo khác như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ (tờ Sáng Tạo). Mai Thảo, Viên Linh, Võ Phiến, Vũ Bằng và một số người khác; nhóm thứ 3 viết nghị luận nội dung mang màu sắc chính trị – xã hội như của Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Nguyên, Nguyễn Trọng Văn… luôn là phần quan trọng tìm thấy các tạp chí Ðối Diện, Tự Quyết, Ðất Nước, Tin Văn, Trình Bày…
Trong các bài viết và công trình nghiên cứu, phê bình, ông Cao Huy Khanh và nhiều người khác đều gọi chung các thể loại truyện ngắn, truyện dài cho tới tùy bút, đoản văn… là “tiểu thuyết” (Các Thế Hệ Tiểu Thuyết Gia Miền Nam Thời Hiện Ðại – Tập san Thời Tập, số III, ra ngày 14-3-1974). Loại tiểu thuyết dài (nhiều trang) có số lượng rất lớn, như Ngọc Linh có hơn 20 tiểu thuyết (Ngọc Linh, Tình Cảm Miền Nam; Tập san Thời Tập, số XIV, ra ngày 10/11/1974). Một số tác giả khác cũng có số lượng tác phẩm tương tự. Nhưng phải công nhận rằng về mặt chất lượng nghệ thuật của tác phẩm chỉ ở thể loại truyện ngắn, mặc dầu những truyện dài do các cây viết tên tuổi như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Võ Phiến, Võ Hồng… Nếu kể từ ừ 15/11/1958 đến ngày 15/11/1959, thì trên tạp chí Bách Khoa, Nguyễn Ngu Í khi phụ trách mục “Phỏng Vấn Văn Nghệ Sĩ Về Truyện Ngắn Việt Và Ngoại Quốc Ðược Yêu Thích Nhất” (Tạp chí Bách Khoa, số 73, năm 1960), sau khi lấy ý kiến của 72 nhà văn, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu được hỏi, thì 42 người trong số 72 này thừa nhận rằng: Truyện ngắn Ba Con Cáo và Rừng Mắm của Bình Nguyên Lộc được ưa thích nhất. Thứ tự còn lại thuộc về các nhà văn thời trước như Khái Hưng, Phạm Duy Tốn… Sự đánh giá này của Nguyễn Ngu Í, khiến Bình Nguyên Lộc không đồng ý, theo ông thì “Những Bước Lang Thang Trên Hè Phố” (tạp bút), “Cuống Rún Chưa Lìa” (truyện ngắn), “Tỳ Vết Tâm Linh” (truyện dài) mới là các tác phẩm hay của ông (Nguyễn Nam Anh: phỏng vấn nhà văn Bình Nguyên Lộc; Tập san Văn, số 199, ra ngày 1/4/1972). Không biết có phải Nhà Văn Bình Nguyên Lộc có nói thực lòng hay không, chứ khi kiểm nhận lại thì rõ ràng ông ta nói “nước đôi” (1 truyện dài và 1 truyện ngắn), dầu sao thì chúng ta cũng phải tôn trọng ý kiến đa số (42/72), nên về truyện ngắn ở giai đoạn của VNCH ngự trị, ngoài những tác giả kỳ cựu như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Võ Phiến, Võ Hồng… các thế hệ nối tiếp như Túy Hồng, Dương Nghiễm Mậu, Y Uyên, Hoàng Ngọc Tuấn… được đánh giá là những nhà văn có được phong cách riêng, nội dung cốt truyện không bị trùng lặp với người khác.
Nếu đem so sánh với giai đoạn trước 1954, tuy số lượng tác phẩm có rất nhiều, có bề rộng về cuộc sống (được các nhà văn khai thác tối đa) do đó thích hợp với đủ mọi tầng lớp xã hội… nhưng rất khó kích động được sự ngưỡng mộ lâu dài của độc giả (chỉ tồn tại giai đoạn ngắn) so với các tác phẩm “vang bóng” trước đó như “Số Ðỏ” của Vũ Trọng Phụng, “Chí Phèo” của Nam Cao…
Hối đó, người viết nhớ rằng muốn tìm một cuốn sách (tìm hiểu) về loại chỉ dẫn làm người thì tìm tác giả Nguyễn Hiến Lê, truyện thì tìm đọc các tác giả Phan Du, Võ Hồng, Võ Phiến, Vũ Hạnh… Khác với người dân lao động Miền Nam, họ ít thích đọc sách, mà rất thích đọc Nhựt Trình (Nhật Báo). Hình ảnh của những người đạp Cyclo tại Sài Gòn cho ta thấy rõ điều này (sáng ra, sau cuốc xe mối xong chừng 7:30 đến 8 giờ, họ ghé vào quán cà phê vỉa hè, ngồi nhâm nhi ly cà phê đen, phì phà vài hơi thuốc lá và lật tờ báo chiều hôm qua ra xem tiếp, thế rồi có người gọi, họ uống nốt chỗ cà phê còn lại, gấp tờ báo đem cất vào Cyclo của mình, và chở khách đi…
Ðến trưa, đường phố yên ắng, họ đưa xe đến một gốc cây nào đó nằm bên đường, dưới bóng mát của tàng cây này, họ lại ngửa lưng trên nệm xe của mình, lật tờ báo của mình ra xem tiếp… cho đến khi phải dùng tờ báo này che mặt đánh thẳng một giấc ngủ… cho đến khi có khách đến đánh thức, và lại tiếp tục “đạp”cho đến chiều… Trước khi về nhà, họ không quên ghé qua sạp báo mua một báo gì đó mà họ ưa thích đọc hằng ngày (Nhựt Báo ở Sài Gòn lúc đó chỉ phát hành vào buổi chiều). Những tờ báo mà người bình dân Sài Gòn hay đọc rất da dạng về nội dung, ngoài tin tức chung chung, họ tìm những báo có các đăng các tiểu thuyết của Ngọc Linh, Ngọc Sơn, An Khê, bà Tùng Long…
Trở lại với việc xuất bản sách, tuy rằng đa phần sách được xuất bản sau khi nội dung của nó đã được đăng trên các báo, nhưng có loại sách không đăng báo trước khi xuất bản vì không thu hút đa số độc giả như loại sách của Thiếu Nhi. Vào những năm 60 các nhà in cho in loại sách này khá nhiều vì nội dung đề cao lòng nhân ái, giá trị đạo đức con người mà các nhà văn Nhật Tiến, Lê Tất Ðiều, Minh Quân… và còn nhiều tác phẩm khác thuộc tủ sách Tuổi Hoa, loại này in giấy khổ nhỏ (để thiếu nhi dễ dàng đóc và cất giữ: Hóa Tím, Hoa Ðỏ, Hoa Xanh… và kèm theo là các loại truyện bằng tranh).
Sôi động và hấp dẫn đối với Thiếu Nhi có lẽ các tác phẩm của nhà văn Duyên Anh, ông ta thành lập ra nhà xuất bản Tuổi Ngọc chuyên xuất bản sách cho thiếu nhi mà ông là tác giả của một số truyện truyện dành cho độc giả tuổi từ 13, 14 trở lên, sách bán rất chạy nhờ vào tác giả biết kích động cho các thiếu nhi thích tự do, thích phiêu lưu, thích làm anh hùng cứu nhân độ thế… Ngoài những sách có nội dung nói trân, Van Học Miền Nam lúc đó còn ghi nhận sự có mặt đáng kể của xác sách viết về lịch sử, địa lý như “Xứ Trầm Hương” của Quách Tấn), “Non Nước Bình Ðịnh”, “Non Nước Phú Yên” của Nguyễn Ðình Tư, “Hương Nước Hồn Quê” của Toan Ánh…
Như vậy, Văn Học Miền Nam thời VNCH thật đa dạng, nó phát triển cực mạnh nhờ vào giai đoạn lịch sử, nhất là chế độ tự do thực sự đang ngự trị ở đây. Nội dung của tất cả các tác phẩm văn học cũng tùy theo sự ưa thích của từng độc giả đón nhận… Chính điều kiện này làm cho các nhà văn, nhà báo tìm cách chạy theo đúng thị hiếu người đọc, dĩ nhiên điều này “tiêu chuẩn” về “đạo đức làm người” bị chi phối bởi “đồng tiền” nhiều hơn. Chúng ta không thể không ghi nhận câu nói thưởng nở trên môi của các nhà văn, nhà báo: “Viết mới có tiền để sống chứ! Không viết thì biết làm gì đây?”…