Trong các
thể văn cũ, cổ nhân ngoài thơ luật, thường sáng tác phú và văn tế. Phú là loại
văn mô tả như định nghĩa (phú giả, trực trần kỳ sự có nghĩa ‘phú là thể mô tả
trực tiếp sự việc’). Còn văn tế là thể văn truy điệu nhân một kỳ tế lễ, bày tỏ
lòng thương tiếc, kính ngưỡng của người sống, qua những lời ca tụng đức tính,
công nghiệp của người quá cố. Trong văn học Việt Nam thế kỷ XIX, nhiều bài văn tế
của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) đã trở thành bất hủ như các bài: Văn
tế vong hồn mộ nghĩa, Văn tế Trương Công Định, Văn tế Nghĩa sĩ Cần
giuộc... Tuy nhiên, nhà văn cũng có thể dùng văn tế để tống tiễn quỷ thần, đặc
biệt là ác thần, như Nguyễn Thuyên đời Trần làm bài văn tế Đuổi
cá sấu về biển Đông.
Nhà văn
cũng dùng văn tế để châm biếm, để tế sống (Văn tế Trường lưu nhị nữ của
Nguyễn Du) và như trường hợp báo Phong Hóa đăng vài Văn tế An
Nam tạp chí của Tản Đà khi tờ báo này bị đóng cửa.
Văn tế An
Nam tạp chí của Tú Mỡ là một tác phẩm đặc sắc của ngòi bút trào
phúng, tác giả “Giòng nước ngược” và cũng phản ánh lập trường “theo mới đả phá
cái cũ” của Tự Lực văn đoàn.
Văn tế có
thể viết theo lối cổ phong, dùng câu dài ngắn xen kẽ hay dùng thể song thất lục
bát như Văn tế Thập loại chúng sinh của Nguyễn Du.
Bài Văn
tế An Nam tạp chí của Tản Đà được viết theo thể luật có bố cục
bốn phần:
- Mở đầu: Những câu nói về hoàn
cảnh sáng tác của bài văn (6 câu đầu).
- Phần hai: Kể thành tích của
chủ báo và của tờ báo (từ câu ‘Nhớ bạn xưa...’ tới câu... ‘cho cao phẩm
giá’).
- Phần ba: Kẻ đứng tế hay viết
bài văn tế tỏ lòng thương tiếc, kính ngưỡng kẻ “quá cố” (từ câu ‘Than
ôi...’ đến câu ‘yên mồ, đẹp mả’).
- Phần bốn: Những câu còn lại
nhằm truy điệu vong hồn kẻ quá cố về hưởng lễ vật.
Bài trên
là bài văn tế độc vận (buồn bã, tiếng cả, Á, hóa, khá...) và viết theo thể biền
ngẫu (Biền là cặp ngựa đi sóng đôi). Biền ngẫu là lối đặt câu như những cặp
ngựa song song nghĩa là gồm những câu dài ngắn như nhau, nhịp điệu tương đồng,
ý nghĩa đối nhau từng cặp.
Tác phẩm
tuy mang chất châm biếm, cay nhưng không độc, biếm nhưng không ác, và khéo ở
chỗ nói được những đặc tính của Tản Đà như trọn đời nuôi giấc mộng
duy trì đạo đức, bồi bổ văn hóa nhưng bản thân ông là nhà Nho, tư tưởng và văn
pháp bảo thủ, nguồn cảm hứng xa rời thực tế (đề cao mộng mị, hư ảo, yếm thế, bi
quan) và dùng văn chương ca tụng thú say sưa và hưởng lạc.
Cũng nên
biết người tế và người được tế là hai cây viết có giao tình trọng hậu.
Nguyễn
Khắc Hiếu sinh năm 1889, tại làng Khê thượng, huyện Bất bạt, tỉnh Sơn
tây, mất năm 1939 tại Hà nội. Ông lấy bút hiệu là Tản Đà vì
quê hương có hai thắng cảnh là Tản viên (Ba vì) và Đà giang.
Là một
nhà thơ tài hoa bậc nhất trong văn học Việt Nam tiền bán thế kỷ XX, Tản Đà còn
là một nhà báo tiền phong, ra tờ An Nam tạp chí từ 1926 với tham vọng
tài bồi bức dư đồ rách (tình trạng văn hóa nước ta suy đồi khi Âu Á giao thoa),
bằng cách mang thuyết thiên lương ra truyền bá cho đời.
Nhưng An
Nam tạp chívới chủ trương cũ, vốn liếng nghèo, người điều khiển lại là nhà Nho
nghệ sĩ, khó địch lại với văn học tân trào 32-45, với các tờ báo mới chuyên
nghiệp, nhất là trong thời kỳ độc giả có khuynh hướng “theo mới chối bỏ cái cũ
bị cho là cổ hủ”. Báo vì thế bị đóng cửa nhiều lần như vào năm 1930 và 1931,
đồng thời đổi báo quán qua nhiều địa chỉ từ Hàng lọng tới Hàng
khoai và từ Hà nội xuống Nam định. Có thể nói An Nam
tạp chí phá kỷ lục về các lần xuất bản và tục bản (tới 6 lần) trong lịch
sử báo chí Việt Nam .
Bài văn
tế của Tú Mỡ viết vào năm Quý Dậu 1933 khi tạp chí An Nam đình
bản.
Trong bài
văn tế của Tú Mỡ có nhắc lại một số đặc điểm trong thơ văn và cuộc
đời của Tản Đà:
Tản Đà trong
cuộc đời nổi danh về thơ và rượu như ông tự hào:
Trăm năm thơ túi rượu vò
Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai?
Tản Đà nức
tiếng về mộng mị với Giấc mộng con và Giấc mộng lớn. Ông cũng là
kẻ tuyên bố gánh văn lên ‘bán chợ trời” vì “văn chương hạ giới rẻ như bèo”.
Tờ Phong
hóa chủ trương đổi mới nên công kích Tản Đà đại diện cho phái
cũ. Tuy nhiên, giữa Tản Đà vàTú Mỡ có thể kể là bạn tri giao và Tự
lực văn đoàn tuy cười cợt Tản Đà nhiều lần từ tranh hý họa tới
thơ chua, nhưng nụ cười của họ không hàm ý độc ác với thi sĩ, và sau này Ngày
nay còn mời Tản Đà cộng tác trong mục dịch thơ Đường.
Tú Mỡ (Hồ
Trọng Hiếu)cùng Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) có nhiều phen xướng
họa. Tản Đà từng gửi thơ tâm sự với Tú Mỡ với những vần thơ
đầy tình tri kỷ, nặng nghĩa tri âm:
Tôi bác sao mà bác Tú ơi
Cùng tên ta lại ở đôi nơi
Khói mây non Tản tôi gầy lắm
Bơ sữa thanh Long bác béo hoài
Có rượu có thơ người sống nổi
Quản chi mưa gió cuộc đời trôi
Thơ này Hiếu gửi đăng Phong hóa
Hiếu có thanh nhàn họa lại hơi.
Tú Mỡ kể
lại: “Đối với Tản Đà, báo Phong Hóa hay có những lời thơ châm chọc, bức tranh
biếm họa, câu văn bông lơn, những cái không hợp thời của nhà thơ, nhất là cái
nết nghiện rượu. Nhưng Tản Đà là người biết đùa, không giận, sau khi đọc
bài thơ Giời đày Nguyễn Khắc Hiếu nhà thơ thân đến tòa soạn, cười ngất phê
bình: Bài thơ thú lắm nhưng mà xược! Anh Khái hưng hỏi: Thực tình anh có
giận chúng tôi không? Tản Đà cười khà khà: Chúng ta ví như những vai hề trên
sân khấu, có khi giễu xỏ nhau ở rạp hát để thiên hạ mua vui. Nhưng diễn xong
trò, ta vẫn là ta, bạn đồng nghiệp cả, việc quái gì mà giận nhau”.
Sau đây
là nguyên văn bài Văn tế An Nam tạp chí:
Ngày 12 tháng năm dư năm Quý dậu:
Ngu hữu là Phong Hóa tuần báo đứng trước linh vị An Nam
tạp chí hậm hực mà than rằng:
Đỉnh non Tản mây đen mù mịt, quấn băng tang lặng lẽ âu sầu.
Giải sông Đà nước xám lờ đờ, cuộn dòng lệ rĩ rền buồn bã.
Than như không mà khóc cũng như không,
Im cũng dở mà nói ra cũng dở.
Nhớ bạn xưa:
Giấy trắng mực đen,
Nhà không tiếng cả.
Dựng tiểu nghiệp văn chương đất Bắc, kế sinh nhai khen đã
cố công thay!
Lấy đại danh tạp chí nước Nam , tuyên chủ nghĩa thực đà to
chuyện quá!
Duy trì đạo đức, giương Đông kích Tây,
Bồi bổ văn mình, dung Âu hợp Á.
Nhồi độc giả năm pho kinh sử, nhai đi nhai lại, chi, hồ,
giả, dã, rõ cơ quan tiến thủ giật lùi,
Ru quốc dân hai hũ thơ sầu, mơ màng tiên, cuội, trời
trăng, khiến niên thiếu liên miên bả lả.
Ố kim, nệ cổ đã từng phen nắm đuôi ngựa Phan Khôi,
Ghét cợt, chê cười còn nhớ trận vuốt râu hùm Phong Hóa.
Dằng dai như đỉa đói, chết đi sống lại bao lần,
Siêu bạt tựa vịt trời, nay đó, mai đây mấy thủa.
Hơn bảy, tám năm lăn lóc khi Hà thành khi Nam định ngoẻm
trăm ấy, veo ngàn khác, than ôi thua vẫn hoàn thua,
Non ba mươi tháng vật vờ, hết Hàng lọng đền Hàng khoai
thay dạng nọ đổi dạng kia ngán nỗi khá không thấy khá.
Vẻ vang thay nghìn rưỡi số in,
Hân hạnh lắm được một trăm độc giả.
Cứ tưởng tạm ngơi ít bữa, lấy đà dưỡng sức, cho qua thời
kinh tế lung lay,
Nào hay đánh giấc ngàn thu, bặt tiếng im hơi, chẳng thoát
nạn lý tài trắc trở.
Hay là ngán trần tục, viết văn không kẻ hiểu, luống uổng
công phu,
Cho nên thăng thiên đường tái bản để Trời xem cho cao phẩm
giá.
Than ôi!
Cùng làng ngôn luận tân cựu đôi đường,
Nửa kiếp kinh doanh, âm dương hai ngả.
Bâng khuâng luống xót xa lòng,
Thương nhớ thêm ngao ngán dạ.
Vừa độ nào, ta đây bạn đó, điều phải chăng còn giũa bút
luận bàn,
Mà bây giờ kẻ khuất người còn, thơ chua chát biết cùng ai
xướng họa.
Thôi! Chẳng may mỏng phận, ngắn đời,
Song nay đã yên mồ đẹp mả.
Ngu hữu gọi là lễ mọn vi thiềng:
Rượu lậu một bầu, trứng tươi hai quả
Mực nướng vài con, sò huyết một tá
Bạn có khôn thiêng
Xin về chứng quả!
Thượng hưởng!
Hoàng Yên
Lưu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét