Trọng Đạt
26-02-2015
Mao Trạch Đông (Mao Zedong)
Ảnh: danchimviet.info
Cũng như Nga sô, Trung Hoa là một đất nước rộng mênh mông, một dân tộc vĩ đại chịu nhiều bất hạnh, khác với lịch sử hiền hòa của nước láng giềng rộng lớn Ấn Độ, nước Tầu trải qua nhiều cuộc chiến tranh, loạn lạc suốt từ thời Xuân Thu Chiến Quốc từ thế kỷ thừ bẩy tới thứ hai trước Tây lịch. Thời nhà Tần, thế kỷ thứ hai sau Tây lịch diễn ra trận chiến Hán Sở tranh hùng, sau đó thời Tam Quốc cuộc chiến tranh quyền và nhà Tống, Nguyên, Minh… chống quân du mục Mông Cổ. Tới nay Mao Trạch Đông rước Cộng Sản về gây nên nhiều cuộc chiến tranh, cách mạng tàn phá đất nước.
Mao sinh ngày 26-12-1893 mất ngày 9-9-1976, ông là Chủ tịch Đảng Cộng Sản Trung Hoa từ 1943 cho tới khi chết năm 1976. Mao thắng Tưởng Giới Thạch năm 1949, là người sáng lập chủ nghĩa Mác Lê theo kiểu Tầu gọi là Mao ít (Maoism). Mao có công thống nhất nước Tầu nhưng ông ta gây nạn đói năm 1959-1961 và phát động Cách mạng văn hóa làm nhiều triệu người chết.
Năm 1918 Mao tốt nghiệp sư phạm tỉnh Hồ Nam, năm 1921 tham gia lập đảng CS Trung Quốc tại Thượng Hải, hai năm sau ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương gồm có năm người. Năm 1924 Quốc Cộng hợp tác, năm 1926 Tưởng Giới Thạch quay ra đàn áp CS khiến Mao và tàn quân du kích chừng 1,000 người họp với quân Chu Đức lập căn cứ tại nơi giáp ranh hai tỉnh Hồ Nam và Giang Tây năm 1928. Tại nơi đây từ 1931-1934 Mao thành lập nhà nước Cộng hòa Sô Viết Trung hoa, ông được bầu làm Chủ tịch Chính phủ trung ương lâm thời. Nội bộ đảng tranh quyền, phe theo Nga gồm 28 người thắng, Mao bị gạt ra ngoài.
Tháng 10-1934 Tưởng Giới Thạch đem 50 vạn quân bao vây khu Sô Viết trung ương khiến Hồng quân phải mở đường máu tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh gian khổ vượt 9,600 km suốt một năm trời tới tỉnh Thiểm Tây ở phía bắc lập căn cứ mới. Mao và các đồng chí phải di cư lên miền Bắc để được CS Nga giúp đỡ.
Tháng 1-1935 Mao được bầu vào Ban thường vụ Bộ chính trị, nắm quyền thực sự và năm 1943, ông được bầu làm Chủ tịch Bộ chính trị đảng CS Tầu. Tại căn cứ Diên An những năm 1937-1945 Mao lãnh đạo kháng chiến chống Nhật và hợp tác Quốc-Cộng. Tháng 6-1945 Mao được bầu làm Chủ tịch ban chấp hành Trung ương đảng CS, tại đây Mao ly thân với vợ hai để lấy Lam Bình sau gọi là Giang Thanh.
Thế chiến thứ hai gần kết thúc, ngày 6 và 9 tháng 8-1945 Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố lớn ở Nhật, ngay sau đó một triệu rưỡi quân Nga tấn công lộ quân Quân Đông Nhật tại Mãn Châu. Sô Viết chỉ nhẩy vào ăn có sau khi Mỹ đã ném bom nguyên tử, gần một triệu quân Nhật đầu hàng. Người Nga lấy kho vũ khí to lớn của Nhật kể cả xe tăng thiết giáp giao cho Mao Trạch Đông, thật là giáo vào tay giặc.
Sau Thế chiến thứ hai, Tưởng giới Thạch muốn tấn công tiêu diệt giang sơn của Mao tại Mãn châu, tại đây CS Tầu chỉ kiểm soát được một phần tư đất đai và một phần ba dân số. Nga đề nghị Mỹ ép Tưởng ký kết hòa bình với Mao lấy cớ nhân dân đã khốn khổ nhiều. Quốc Cộng hòa hoãn đầu năm 1946 nhưng chỉ được 6 tháng thì nội chiến bùng nổ. Tưởng đưa hơn đưa 1 triệu 6 trăm ngàn quân từ miền nam lên căn cứ Mao tạo Mãn châu, Cộng quân đánh du kích tiêu hao Quốc Dân Đảng (QDĐ), vì xa căn cứ nên thiếu tiếp liệu, Tưởng Giới Thạch thất thế, thua mất cả triệu quân. Năm 1948 Cộng quân thắng thế, QDĐ ở thế thủ, dần dân xa cách Mỹ, Cộng quân chiếm được nhiều thành phố lớn Hoa Bắc như Thẩm Dương và Trường Xuân, họ chiếm Mãn châu hoàn toàn. Mao tiêu diệt được 144 sư đoàn thiện chiến của QDĐ. Cuối năm 1948, Tưởng cho phu nhân bà Tống Mỹ Linh sang Mỹ xin viện trợ nhưng họ lờ đi không đáp ứng.
Dư luận Mỹ chỉ trích, lên án Tổng thống Truman đã để CS chiếm Trung Hoa. Thượng nghị sĩ Joe McCarthy cho rằng việc ngăn chận CS Tầu cần phải viện trợ nhiều hơn và có lẽ phải dùng cả không lực. Người ta bắt đầu hỏi ai đã làm mất Trung Hoa? Tỷ lệ ủng hộ Truman từ 70% xuống còn 35%. Bộ trưởng ngoại giao của Truman bị coi là thằng hèn, Tướng George Marshall, ông Bộ trưởng ngoại giao tiền nhiệm bị coi là tên phản bội.
Dư luận chê Tưởng có một lực lượng hùng hậu, được Mỹ viện trợ 4 tỷ đô la quân sự nhưng lại bị Cộng quân yếu hơn đánh bại, họ nói Tưởng mất lòng dân, trong khi Hồng quân tuyên truyền nhiều người theo.
Có tài liệu nói sau Thế chiến, cán cân quân sự nghiêng về Mao. Chủ lực quân của họ tăng lên 1 triệu 2 và 2 triệu du kích. Vùng kiểm soát của họ chiếm 1/4 lãnh thổ Trung Hoa gồm nhiều tỉnh thành quan trọng. Ngoài ra Nga Sô đã giúp CS Tầu nhiều vũ khí. QDĐ chống quân Nhật hồi Thế chiến thứ hai đã bị mất nhiều đơn vị tinh nhuệ trong những trận đánh lớn khi ấy CS Tầu ít thiệt hại, họ ít đụng chạm Nhật. Sau Thế chiến, Mỹ không thực sự giúp Tưởng thắng Hồng quân vì vai trò chống Nhật của QDĐ đã hết.
Mao chiếm được Hoa lục làm lệch cán cân quân sự quốc tế của hai phe CS và Thế giới tự do đã đưa tới các cuộc chiến đẫm máu khác ngay trong năm sau.
Giữa năm 1950 Nga Sô, Trung Cộng giúp Bắc Hàn xâm lược Nam Triều Tiên khiến Mỹ phải đưa quân vào, cuộc chiến tàn khốc tới tháng 7-1953 thì Triều Tiên đình chiến. Từ 1950 Mao giúp Việt Minh chống Pháp thắng lợi, sau 8 năm khói lửa, Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ tháng 5-1954. Người Mỹ để mất Trung Hoa đưa tới nhiều hậu quả thảm khốc.
Từ 1949-1958 Mao thực hiện cải cách ruộng đất, mới đầu thành lập các đội giúp đỡ nhau từ 5-15 nhà, sau đó từ 1953 thành lập hợp tác xã nông nghiệp từ 20-40 nhà, 1956 tiến lên đại hợp tác xã gồm từ 100-300 nhà. Giai đoạn đầu không thành công mấy và nạn đói lan rộng năm 1956. Kế hoạch Đại nhẩy vọt (Great Leap Forward) 1958-60 đưa tới hậu quả tai hại, chủ trương nhẩy vọt từ nông nghiệp sang kỹ nghệ lớn. Hậu quả là đưa tới khoảng từ 20 tới 40 triệu người bị chết đói. Ngay từ 1956 bắt đấu có nạn đói, năm 1957 Mao cho mở chiến dịch Trăm hoa đua nở, cho tự do phê bình nên có nhiều người chỉ trích chính sách. Mao nổi gận cho thanh trừng khoảng nửa triệu người do Đặng Tiểu Bình tổ chức. Năm 1957 Mao chỉ trích Khrushchev muốn sống chung hòa bình với các nước Tây phương. Kế hoạch Đại nhẩy vọt Ngũ niên lần thứ hai 1958-1963 ra sức sản xuất thép kể cả cấp xã. Nhà cửa bị phá làm củi đốt, nồi niêu xoong chảo được cung cấp sắt cho các lò, thành phẩm chỉ là sắt nguyên liệu phẩm chất rất kém, dù biết đây là một kế hoạch điên rồ nhưng không ai dám lên tiếng.
Vì số lao động chuyển qua làm đúc thép nên vụ mùa sút kém, năm 1958-1960 thời tiết xấu, khô hạn, lụt lội. Tháng 7-1959 sông Hoàng Hà gây lụt khiến cho khoảng 2 triệu người chết vì lụt, đói. Tại miền quê thuộc những tỉnh triệt để theo chính sách của Mao thiệt hại nhiều, chết nhiều như An Huy, Cam Túc, Hà Nam, tỉnh Tứ Xuyên đông dân mầu mỡ lại bị chết nhiều nhất.
Kế hoạch Nhẩy vọt bị ngưng lại, đảng cho nhập cảng gạo, lúa từ Úc, Canada khiến nạn đói giảm, nhà nước chính thức công nhận có 14 triệu người chết nhưng các nhà học giả ước tính từ 20-40 triệu . Năm 1959 Mao từ chức Chủ tịch nhà nước, Lưu Thiếu Kỳ giữ chức vụ này, Đặng Tiểu Bình giữ chức Tổng bí thư đảng. Bộ trưởng quốc phòng Bành Đức Hoài chống đối kế hoạch bị Mao kết án theo Nga, bị cách chức giao lại chức cho Lâm Bưu. Sau khi Mao chết người ta cho rằng lỗi lầm của ông ta quá lớn. Thời “Đại nhẩy vọt” Mao 60 tuổi, thời Cách mạng văn hóa Mao 70 tuổi và khi bang giao với Mỹ Mao 80 tuổi.
Năm 1994, nhà đạo diễn nổi tiếng Trương Nghệ Mưu đã thực hiện cuốn phim giá trị To Live, Anh Phải Sống, được hai giải thưởng tại Đại hội điện ảnh Cannes 1994, Củng Lợi đóng vai chính. Trương Nghệ Mưu đã qua mặt kiểm duyệt diễn tả lại mấy chục năm lịch sử tang thương đau khổ của nước Tầu dưới thời Mao. Người Tây phương cho rằng Mao là một trong những nhân vật quan trọng nhất của lịch sử thế giới ngày nay (Mao is regarded as one of the most important individuals in modern world history). Mao làm Chủ tịch Trung ương đảng 1945 khi dân số Trung Hoa khoảng 550 triệu, năm 1976 khi Mao chết dân Tầu khoảng 900 triệu.
Mao có thể là nhân vật quan trọng đối với lịch sử thế giới nhưng ông ta ảnh hưởng tai hại với Trung Hoa và cả thế giới, đã đầy đọa giết hại nhân dân suốt 26 năm cầm quyền. Không những thế, Mao đã trực tiếp, gián tiếp gây hai cuộc chiến Triều Tiên 1950-1953 và Đông Dương 1950-1975 làm chết nhiều triệu người gồm Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Pháp, Mỹ. .. Mao đã kéo lùi nước Tầu lại thời Trung cổ, một đất nước đói khổ, lạc hậu nhưng cuối đời ông ta có thức tỉnh, bắt tay với Mỹ để đưa đất nước khỏi cảnh lạc hậu, tối tăm.
Mao đã biến nước Tầu thành một địa ngục đói khổ tang thương thê thảm nhất là những năm Nhẩy vọt, đây là một sự sai lầm của lịch sử đã lựa chọn Mao. Cũng như Staline và Hitler, Mao là người phạm tội ác chống nhân loại ấy thế mà vẫn được sùng bái, ca tụng, lập lăng miếu thờ phụng… thì quả thực là một điều quái gở chỉ có ở bên Tầu.
Quốc Dân Đảng Trung Hoa câm quyền tại Đài Loan và đã đưa đảo quốc nhỏ bé này lên hàng cường quốc kinh tế Á châu, chúng ta thử tưởng tượng nếu họ tiếp tục cai trị nước Tầu, nếu Mỹ không bỏ rơi Tưởng Giới Thạch năm 1949 thì bộ mặt của đất nước này sẽ huy hoàng là nhường nào.
Hoa Quốc Phong (Hua Guofen).
Sinh 16-2-1921, mất 20-8-2008 tên khai sinh của ông là Tô Chú, ông lấy biệt danh là Hoa Quốc Phong. Chu Ân Lai chết tháng 1-1976, Hoa lên lên thay làm Thủ Tướng, tháng 9-1976 Mao chết khiến Hoa kế vị Mao làm Chủ tịch đảng CS Tầu. Ông tống cổ lũ bốn người vào tù gồm Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn nguyên và Vương Hồng Văn. Cách mạng văn hóa thời Mao và Giang Thanh để loại Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và Bành Chân. Hoa Quốc Phong là người cố chấp đi theo chủ nghĩa Mao. Mấy năm sau Hoa bị Đặng Tiểu Bình lật đổ, về hưu non, người ta đồn ông là con Mao Trạch Đông. Hoa được bầu vào Trung ương đảng năm 1969, vào Bộ chính trị năm 1973, năm 1972 làm Bộ trưởng công an, năm 1975 làm Phó Thủ tướng rồi quyền Thủ tướng tháng 1-1976 khi Chu Ân Lai chết, Phó chủ tịch thứ nhất đảng tháng 4-1976, khi Mao chết Hoa Quốc Phong lên làm Chủ tịch đảng tháng 9-1976, ông chấm dứt cuộc Cách mạng văn hóa. Hoa Quốc Phong trở lại tái lập công nghiệp và kế hoạch hóa như Nga. Phe Đặng Tiểu Bình phản đối dựa trên kinh tế thị trường, năm 1977 Hoa bắt treo hình Mao và Hoa bên cạnh nhau, thật là một điều quái đản, hình người chết bên cạnh người sống.
Đặng Tiểu Bình dần dần nắm quyền kiểm soát đảng CS Trung quốc, Hoa Quốc Phong bị lên án và bị thay thế các chức vụ chính: Năm 1980 bị thay thế chức Thủ tướng bởi Triệu Tử Dương, năm 1981 bị thay chức Chủ tịch đảng bằng Hồ Diệu Bang. Cả hai Triệu Tử Dương và Hồ Diệu Bang đều được Đặng Tiểu Bình bảo trợ trong nhiệm vụ cải cách kinh tế Trung Quốc. Hoa Quốc Phong bị giáng cấp Phó chủ tịch, chức này bị bãi bỏ năm 1982, Hoa chỉ còn là thành viên của Trung ương đảng và nắm giữ vị trí này cho tới năm 2002.
Việc loại bỏ Hoa quốc Phong cho thấy cuối thập niên 70 đầu 80 chức vụ chính thức không có thực lực, giá trị vì mặc dù ông là lãnh tụ chính thức của Đảng, Nhà nước, Quân đội nhưng Hoa bị phe Đặng chèn ép và hất cẳng không bị tù đầy, ám hại như những năm trước.
Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping)
Sinh ngày 22-8-1904 mất ngày 19-2-1997. Từ 1920-1926 ông ta du học tại Paris, sau dó sang Nga. Tên khai sinh là Đặng Tiên Thanh, tên Đặng Tiểu Bình được dùng từ năm 1927. Họ Đặng tuy không giữ chức vụ Chủ tịch nước nhưng thực sự cầm quyền tại Trung Quốc từ cuối thập niên 70 tới đầu 90. Ông đã giữ các chức vụ Phó chủ tịch đảng, Tổng thư ký ban bí thư Trung ương, Phó Thủ tướng, Tổng tham mưu trưởng quân đội, Chủ tịch ủy ban cố vấn đảng, Chủ tịch Quân ủy Trung ương (tức đại diện của Đảng trong quân đội). Với vai trò lãnh đạo tối cao đất nước ông cải cách Trung Quốc, thu hồi Hồng Kông và Ma Cao.
Năm 1966 thời Cách mạng văn hóa, Đặng Tiểu Bình bị phê phán là theo chủ nghĩa tư bản, bị cách mọi chức vụ. Ngày 23-3-1973 ông rời Giang Tây trở lại Bắc Kinh được phục hồi bầu vào Ban chấp hành Trung ương đảng rồi Phó chủ tịch đảng, Phó thủ tướng, rồi Đệ nhất Phó thủ tướng. Khi Chu ân lai mất ông lại bị Mao cách chức hết. Năm 1978 sau khi lũ bốn người bị lật đổ họ Đặng lại được khôi phục các chức vụ như dã nói trên, ông đưa Trung Quốc vào kỷ nguyên cải cách mở cửa. Năm 1979 Đặng thăm Mỹ để bình thường hóa quan hệ hai nước sau đó dậy cho VN một bài học, gây lên chiến tranh đẫm máu tại biên giới Việt-Hoa, nó nằm trong chính sách ngăn chận ảnh hưởng Nga tại Đông nam Á và đã gây nhiều khó khăn cho CS Hà Nội.
Cuộc biểu tình không lồ tại Thiên An Môn điễn ra dưới thời Đặng Tiểu Bình, nhiều người tin rằng ông ta đã nhúng tay vào máu trong cuộc thảm sát phong trào tại quảng trường này. Cuộc sô sát ngày 4-6 hay sự náo động từ mùa xuân tới mùa hè 1989, một loạt những cuộc biểu tình của giới trí thức, nhà hoạt động, công nhân viên ở Trung Cộng đòi tự do ngôn luận, báo chí, dân chủ…do bất mãn về tham nhũng của chính quyền. Những cuộc đụng độ đã khiến khoảng hơn 2,000 người bị giết, hàng chục ngàn người bị thương. Đỉnh cao của cuộc chống đối có tới một triệu người tụ tập tại quảng trường. Trí thức cho rằng các nhà lãnh đạo quá tham nhũng, cải cách kinh tế đưa tới lạm phát rất cao. Trong hàng ngũ đảng có sự chia rẽ về cách ứng phó với cuộc biểu tình, nhóm cứng rắn chủ trương đàn áp. Ngày 20-5-1989 thiết quân luật, ngày 3-6 và 4-6 xe tăng, bộ binh đàn áp bắn người biểu tình bằng đại liên. Theo ước lượng của Mỹ khoảng từ 4,000 tới 6,000 người bị giết, Hồng thập tự Trung Cộng phỏng đoán có 2,600 người chết, một nhân viên Hồng thập tự TC ước tính có 5,000 người chết, khối Sô viết ước tính 10,000 người bị giết, số bị thương được ước lượng từ 10,000 tới 30,000 người.
Cuộc biểu tình bắt đầu khi Gorbachev thăm Bắc Kinh, nhiều đảng viên cao cấp ủng hộ biểu tình, khi phong trào vượt quá tầm kiểm soát họ cho nổ súng, cuộc tắm máu Thiên An Môn bị cả thế giới lên án. Tổng bí thư Triệu Tử Dương muốn can cả hai bên nhưng thất bại vì quá trễ. Mới đầu cuộc biểu tình do sinh viên, trí thức khởi xướng sau được công nhân thành thị tham gia và được các thành phố Thượng Hải, Trùng Khánh, Hồng Kông, Đài Loan và các cộng đồng người Hoa tại Bắc Mỹ, Canada, Âu châu ủng hộ mạnh.
Tổng bí thư Triệu Tử Dương có cảm tình và ủng hộ cuộc biểu tình, Thủ tướng Lý Bằng muốn đàn áp, Đặng Tiểu Bình là Chủ tịch quân ủy trung ương kiểm soát được quân đội có khả năng dẹp biểu tình. Triệu Tử Dương bị gạt ra khỏi ban lãnh đạo. Quân đội tại Bắc Kinh không chịu đàn áp nên đảng phải đưa quân từ địa phương khác tới để bắn vào nhân dân.
Nay biến cố Thiên An Môn được chính quyền bưng bít che dấu khiến cho các thế hệ sau tại Hoa Lục, nay họ hầu như không được biết tới. Mặc dù không có báo cáo chính xác vai trò Đặng Tiểu Bình tại Thiên An Môn mà người ta thường cho là ông đóng vai chính. Sau biến cố họ Đặng rút khỏi chính trường, Thiên An Môn có gây chia rẽ trong Đảng và Quân đội giữa hai phe bênh và chống.
Nhiều người mỉa mai nói Quân đội nhân dân quay súng bắn vào nhân dân, thật là xấu hổ khi họ lấy quần chúng đặt tên cho quân đội. Năm 1989 cuộc cách mạng dân chủ đang bùng phát tại Đông Âu, các nước CS tại đây đua nhau từ bỏ CS trở lại chế độ dân chủ tự do tư bản, các sinh viên, công nhân Bắc Kinh nắm lấy thời cơ phát động phong trào nhưng đã bị đàn áp dã man. Dù sao CS da trắng văn minh, yêu nước hơn CS da vàng rất nhiều, họ biết hy sinh quyền lợi cho nhân dân, đất nước. Ngược lại bọn CS da vàng sẵn sàng bắn giết đồng bào ruột thịt của mình để bảo vệ địa vị của đảng, cuả tập đoàn CS một cách mù quáng. Mặc dù cùng tôn thờ chủ nghĩa Mác Lê, CS da trắng vẫn thường khinh bỉ ghê tởm CS da vàng như một lũ mọi rợ súc vật.
Giang Trạch Dân (Jiang Zemin)
Ông sinh ngày 17-8-1926, thuộc thế hệ lãnh đạo thứ ba, giữ chức Tổng bí thư đảng từ 1989-2002 , Chủ tich nước từ 1993 tới năm 2003 , Chủ tịch quân ủy trung ương từ 1989-2004. Giang Trạch Dân lên nắm quyền từ sau vụ Thiên An Môn, năm 1989 ông giữ chức Tổng bí thư thay thế Triệu Tử Dương bị thanh trừng vì nhượng bộ với những người phản kháng. Đặng Tiểu Bình ngày càng già, ảnh hưởng kém, Giang Trạch Dân trở thành lãnh đạo tối cao thập niên 90. Thời Giang Trạch Dân, kinh tế tiến triển bền vững, thu hồi Hồng Kông và Ma Cao, xã hội nhiều bất công nên Giang bị chỉ trích, những đảng viên cứng rắn buộc tội họ Giang quá thiên về cải cách, thiên về tư bản.
Giang biết nói nhiều thứ tiếng, năm 1947 tốt nghiệp Kỹ sư điện tại Thượng Hải, có du học ở Nga. Năm 1983 ông giữ chức Bộ trưởng công nghiệp, năm 1985 Chủ tịch thành phố Thượng Hải sau làm Bí thư thành ủy Thượng Hải, năm 1987 được vào Bộ chính trị. Chính sách cởi mở của Đặng Tiểu Bình đưa ra rất khôn ngoan khiến Trung Cộng tiến mạnh, trong vòng ba năm, Đặng Tiểu Bình chuyển hết quyền lực đảng, nhà nước, quân đội cho Giang Trạch Dân.
Khi được Đặng tin tưởng, Giang bổ nhiệm những người thân tín vào chính quyền thay thế các đảng viên già nua lỗi thời, năm 1989, Giang nắm Quân Ủy Trung ương, tháng 3-1993 giữ chức Chủ tịch nước. Dưới thời Giang tệ nạn tham nhũng gia tăng mạnh, các vùng ven biển phát triển nhanh đưa tới doanh nghiệp nhà nước đóng cửa nhiều, thất nghiệp lên 40% tại một số vùng thành thị. Sự phát triển nhanh nhưng hố cách biết thành thị nông thôn ngày một sâu xa. Quan chức tham nhũng làm mất đi 10% GDP của quốc gia, đa số các tài sản tham nhũng được chuyển ra ngoại quốc. Tỷ lệ tội phạm tăng cao tại các thành phố, Giang tiếp tục bỏ vốn vào phát triển các vùng kinh tế đặc biệt các vùng ven biển.
Năm 1999 Pháp Luân Công (PLC), một môn pháp tu dưỡng cơ thể và tinh thần tại Hoa Lục bị Giang Trạch Dân chỉ đạo đàn áp dã man. Năm 1999 số môn đệ PLC đã tăng lên 70 triệu người, mặc dù tập thể này không tham gia chính trị và gây ảnh hưởng xấu nhưng lại bị Giang phát động chính sách đàn áp đẫm máu bắt đầu từ tháng 7-1999. Công an Trung Cộng cho lùng bắt giam giữ các môn đệ PLC, tra tấn man rợ, các hình ảnh sau này đã được phổ biến rộng rãi trên thế giới, hình ảnh có thật do chính những Công an, mật vụ tại các trại giam vượt biên qua các nước Úc, Canada… phổ biến tố cáo chính quyền Tầu đỏ. Nhiều hình ảnh đã gây căm phẫn trên khắp thế giới như một người phụ nữa bị treo trên xà ngang, phía dưới là ngọn lửa hồng, nhiều cô con gái liễu yếu đào tơ bị bắn vỡ sọ. Tổng cộng khoảng 7,000 nạn nhân bị bắn giết hoặc tra tấn cho tới chết.
Năm 2006 Bộ ngoại giao Canada đã thu thập nhiều bằng chứng tố cáo Trung Cộng cho mổ gan, thận các tử tù đem bán với giá cao, tội ác tầy trời này được coi là chưa từng có trên trái đất, dã man hơn cả thời Đức Quốc Xã.
Mặc dù Tầu đỏ chối cãi tra tấn, đàn áp PLC nhưng tại Mỹ một tổ chức nghiên cứu đã có bằng chứng rõ ràng về hệ thống đàn áp qui mô này.
Môn đệ Pháp Luân Công tại các nước đã thu thập chữ ký khắp nơi để xin một toàn án nhân quyền xét xử Giang Trạch dân và đồng bọn. Tháng 1-2004 có 16 vụ án tố cáo tội ác của Giang và các lãnh đạoTrung Cộng đã phạm tội ác chống nhân loại. Ngày 18-11-2009 Tòa án Quốc gia Tây Ban Nha truy tố Giang Trạch Dân và 4 viên chức Tầu đỏ phạm tội các tra tấn diệt chủng, nếu những người này tới các nước có hiệp ước dẫn độ với Tây Ban Nha họ sẽ phải đối mặt với 20 năm tù giam về tội ác nêu trên. Tháng 12 năm 2009, một toàn án của Argentina (Á Căn Đình) cũng đã ra lệnh bắt giữ cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân về tội ác chống nhân loại nếu ông ta tới một nước nào đã ký Hiệp ước dẫn độ với Argentina. Giang được coi như người đàn áp, diệt chủng PLC, bị kết án tại 17 quốc gia trên thế giới.
Giang ôn hòa với Mỹ và Tây phương, ông ta sang Mỹ năm 1997 bị Quốc hội chất vấn nhiều về việc giết hại môn phái Pháp Luân Công và bán các bộ phận tử tù. Thời Giang Trung Cộng gia nhập tổ chức Thương mại thế giới và Thế vận hội 2008. Năm 2002 Giang rời Ban thường trực Bộ chính trị nhường cho thế hệ lãnh đạo thứ tư Hồ Cẩm Đào làm Tổng bí thư đảng, Giang vẫn giữ chức cơ quan đầy quyền lực Quân ủy trung ương.
Các lãnh đạo CS Tầu từ Mao Trạch Đông Đặng Tiểu Bình tới Lý Bằng, Giang Trạch Dân toàn những tên uống máu người không tanh, bọn này giết hại đồng bào mình bị cả thế giới nhất là Tây phương khinh bỉ ghê tởm như như thú vật.
Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao)
Sinh ngày 21-12-1942, được kết nạp vào đảng năm 1964, tháng 7-1965 tốt nghiệp đại học hạng ưu, Chủ tịch nước từ 15-11-2003 tới 14-3-2013, ngày 19-9-2004 Giang Trạch Dân từ chức Chủ tịch quân ủy trung ương, Hồ Cẩm Đào lên thay. Giang bị chỉ trích chú trọng phát triển nhanh gây ảnh hưởng xấu môi trường, khoảng cách giầu nghèo ngày càng tăng.
Hồ Cẩm Đào tiếp tục chính sách cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình, ông có tư tưởng ôn hòa trong việc